Tên tự gọi: Kmụ, Kưm Mụ.
Tên gọi khác: Xá Cẩu, Khạ Klẩu, Mãng Cẩu,
Tày Hạy, Mứn Xen, Pu Thềnh, Tềnh.
Dân số: 72.929 người (theo kết quả điều
tra dân số năm 2009 của Tổng cục thống kê)
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ
Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử: Khơ Mú là một trong những cư dân
đã cư trú lâu đời nhất ở miền Tây Bắc Việt Nam. Bộ phận Khơ Mú cư trú tại miền
núi các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An do chuyển cư từ Lào sang.
Quen ăn nước mạch trong các khe núi. Không
có thói quen đưa nước lần về tận nhà. Hàng ngày, phụ nữ và trẻ em hứng nước mạch
vào các ống bương, gánh về nhà.
Hoạt động sản xuất: Là cư dân sinh sống chủ
yếu bằng canh tác nương rẫy nên được gọi là "Xá ăn lửa". Ngoài hình
thái du canh du cư là chủ yếu, bộ phận định cư thường canh tác nương theo chu
trình vòng tròn khép kín. Cây trồng ngoài lúa ngô ra còn có bầu bí, đỗ và các
loại cây có củ. Công cụ sản xuất gồm rìu, dao, cuốc, trong đó đáng lưu ý nhất
là chiếc gậy chọc lỗ. Hoặc gậy đơn hoặc gậy kép (bịt sắt) có thể dùng nhiều
năm. Hái lượm và săn bắn vẫn có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế. Nghề
phụ gia đình chủ yếu là đan lát đồ gia dụng. Một số nơi biết thêm nghề rèn, mộc,
dệt vải. Việc trao đổi, mua bán chủ yếu là hình thức hàng đổi hàng. Vỏ ốc
"kxoong" trước kia được coi như vật ngang giá. Người Khơ Mú chăn nuôi
trâu, bò, lợn, gà phục vụ sức kéo và nhu cầu tiêu dùng, tín ngưỡng.
Ăn: Người Khơ Mú thường đồ xôi hay đồ ngô,
độn sắn. Họ thích ăn những món có vị cay, chua, đắng, các thức ăn nướng có mùi
như chẻo, nậm pịa, cá chua...
Mặc: Người Khơ Mú mặc giống người Thái,
nhưng có điều khác là cách trang trí những hàng tiền bạc và vỏ ốc ở phía thân
áo của phụ nữ. Ngày nay, phần lớn người Khơ Mú, nhất là nam giới đều ăn mặc
theo người Việt.
Chiếc tiêu ba lỗ nối với bầu cộng âm làm từ một dốt
nứa to hơn ống thổi.
Ở: Hiện nay họ cư trú tại các tỉnh: Yên
Bái, Sơn La, Lai Châu. Vì điều kiện du canh, du cư nên bản làng thường nhỏ bé,
rải rác. Nhà sàn chủ yếu dùng cột không ngoãm, vách phên, sàn bương. Hiện nay
nhiều nơi đã làm nhà khang trang, vững chãi hơn.
Phương tiện vận chuyển: Cơ bản là gùi có
dây đeo trên trán, có ách và các loại túi đeo, bộ phận người Khơ Mú làm ruộng
dùng thêm sọt gánh.
Quan hệ xã hội: Người Khơ Mú quan hệ chặt
chẽ giữa những người đồng tộc và những người láng giềng, nhất là người Thái.
Mỗi bản gồm nhiều gia đình thuộc các dòng
họ khác nhau. Mỗi họ có trưởng họ. Người dân bản trong bản đã có phân hoá giàu
nghèo. Những dòng họ người Khơ Mú đều mang tên thú, chim, cây cỏ... có thể chia
làm 3 nhóm tên họ. Nhóm tên thú gồm hổ, chồn, cầy hương... Nhóm tên chim gồm
phượng hoàng đất, chìa vôi, cuốc, bìm bịp... Nhóm tên cây gồm guột, rau đớn,
dương xỉ, tỏi ... Ngoài ra còn một số họ mang tên vật vô tri như: rọ lợn, môi
múc canh...
Cưới xin: Hôn nhân theo nguyên tắc thuận
chiếu, đặc biệt trong phạm vi một dòng họ. Trong hôn nhân, nhiều tàn dư mẫu hệ
còn tồn tại như tục ở rể, chồng mang họ vợ, hôn nhân anh em vợ, chị em chồng...
Ðám cưới được tiến hành qua các khâu dạm hỏi, ở rể, lễ cưới ở bên nhà vợ và lễ
đón dâu... Trai gái được tự do tìm hiểu nhưng quyền quyết định do bố mẹ, đặc biệt
là ông cậu. Ông cậu là người có ý kiến quyết định tiền thách cưới, đồ sính lễ.
Ma chay: Ðám ma của người Khơ Mú gồm nhiều
nghi thức tín ngưỡng. Ðặc biệt bài cúng tiễn hồn người chết kéo dài hàng giờ
sau đó mới đem thi hài đi chôn.
Nhà mới: Lên nhà mới là dịp vui của gia
đình và cả bản. Chủ nhà thường mổ lợn thiết đãi bà con xóm giềng. Ðây là dịp
dân bản trình diễn các sinh hoạt văn nghệ có tính cộng đồng.
Lễ tết: Ngoài tết Nguyên đán ra, người Khơ
Mú còn ăn tết cơm mới. Tết được tổ chức sau vụ gặt tháng 10 âm lịch. Ðây là dịp
vui của cả bản sau một thời gian lao động mệt nhọc. Tết cơm mới của người Khơ
Mú thể hiện hiện sắc thái văn hoá tộc người đậm nét. Họ còn duy trì nhiều nghi
lễ liên quan đến nông nghiệp, trồng trọt.
Ðàn "dao" (hun mạy) được làm bằng
một loại nứa tép hoặc tre, do phụ nữ chế tác và biểu diễn.
Thờ cúng: Người Khơ Mú quan niệm có 5 loại
ma quan trọng nhất là: ma trời, ma đất, ma thuồng luồng, ma tổ tiên và ma nhà.
Ðó là các loại ma mang điều lành cho con người nhưng đôi khi giận dữ có thể gây
tai hoạ trừng phạt con người.
Ngoài lễ cúng mường, người Khơ Mú còn lễ
cúng bản, đặc biệt là lễ cúng ma nhà trong các dịp tết và khi con cháu trong
nhà đau ốm. Bàn thờ ma nhà đặt trên gác bếp, còn ông bà thờ ở một gian riêng
kín đáo và rất kiêng kỵ đối với người ngoài. Mỗi dòng họ vẫn duy trì tục thờ ma
dòng họ với nghi thức và các động tác mang tính đặc trưng riêng.
Lịch: Ngoài theo lịch Thái, người Khơ Mú
phổ biến cách tính ngày giờ căn cứ theo bảng cà la để vận dụng trong việc dựng
nhà, cưới gả...
Học: Nhiều người biết đọc, viết chữ Thái.
Văn nghệ: Làn điệu dân ca quen thuộc nhiều
người ưa thích là Tơm. Làn điệu này mang đậm tính sử thi, trữ tình. Cách hát
theo kiểu đối đáp. Người Khơ Mú thích xoè, múa, thổi các loại sáo, các bộ gõ bằng
tre, nứa tự tạo, đặc biệt là thổi kèn môi.
Chơi: Trong các ngày lễ tết, trẻ em hay
đánh cầu lông làm bằng lông gà, đánh quay và các trò chơi dân gian khác.
Hoàng Đạo
(sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét