Phụ nữ Xtiêng biết dệt vải, nhưng họ hay
dùng các vật dụng khác đổi lấy y phục may sẵn. Ngày nay, nam nữ Xtiêng thường mặc
quần áo là sản phẩm của nền công nghiệp dệt. Dù vậy, vào mùa nóng, lớp phụ nữ
cao tuổi vẫn ở trần, cổ đeo vòng hạt nhiều màu, tai căng rộng bởi đôi hoa ngà
voi... Họ cũng là lớp người cuối cùng có những chiếc răng cửa hàm trên bị cắt cụt
do tục cà răng.
Tên gọi khác: Xa Ðiêng hay Xa Chiêng.
Nhóm địa phương: Bù Lơ, Bù Ðek (Bù Ðêh),
Bù Biêk.
Dân số: 85.436 người (theo kết quả điều
tra dân số năm 2009 của Tổng cục thống kê)
Ngôn ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me
(ngữ hệ Nam Á) tương đối gần gũi với tiếng Mạ, Mnông, Chơ Ro. Chữ viết hình
thành từ trước năm 1975, theo chữ cái La-tinh.
Lịch sử: Người Xtiêng sinh tụ lâu đời ở
vùng Trường Sơn - Tây Nguyên và miền đông Nam bộ.
Hoạt động sản xuất: Nguồn lương thực chính
là lúa gạo, khoảng 80% lúa gạo do rẫy cung cấp. Nhóm Bù Lơ ở cao, sâu hơn hoàn
toàn làm rẫy. Nhóm Bù Ðeh (Bù Ðêk) ở vùng thấp làm ruộng nước từ khoảng 100
năm, như cách thức canh tác của người Việt sở tại. Lúa rẫy có các giống khác
nhau, được trồng theo lối "phát-đốt-chọc-trỉa", kết quả mùa màng phụ
thuộc lớn vào thiên nhiên và việc bảo về trước sự phá phách của chim muông.
Công cụ làm rẫy chủ yếu gồm rìu và dao xà gạc để khai phá rừng, sau khi đốt thì
dùng cây cào tre có 5 răng để dọn rồi đốt lại, khi trỉa dùng gậy nhọn (mỗi tay
cầm một chiếc) để chọc lỗ, đồng thời gieo hạt giống theo, làm cỏ bằng loại cuốc
con (về sau thay thế bằng cái xà - bát người Việt sử dụng), dùng tay tuốt lúa.
Hái lượm, săn bắt và kiếm cá đưa lại nguồn lợi quan trọng thiết thực. Gia súc
phổ biến gồm: trâu, bò, lợn, chó, một số hộ nuôi voi; gia cầm chủ yếu là gà. Có
nghề dệt vải và đan lát. Việc mua bán thường dùng vật đổi vật (nay dùng tiền)
có quan hệ hàng hoá với người Việt, Khơme, Mnông, Mạ và cả với bên Campuchia.
Ăn: Người Xtiêng ăn cơm tẻ, cơm nếp. Thực
phẩm thường ngày của họ chủ yếu là những thứ kiếm được trong rừng và sông suối
(nay có mua ở chợ hay của thương nhân). Thức uống truyền thống nước lã, rượu cần.
Ðồ đựng cơm canh, nước đều là vỏ bầu chế tác có hình dạng thích hợp. Họ hút thuốc
lá bằng tẩu (nay ít thấy).
Ở: Người Xtiêng phân bố tập trung tại tỉnh
Bình Phước, một số ở Tây Ninh và Ðồng Nai. Vùng cao ở nhà trệt, mái trùm gần xuống
mặt đất và có nơi uốn tròn ở hai đầu hồi và ở một mặt bên. Vùng thấp thường làm
nhà sàn khá khang trang, vách dựng nghiêng phía trên ra ngoài. Theo nếp xưa, mỗi
làng chỉ gồm một vài ngôi nhà dài, nay hình thức nhà ngắn của từng hộ đang phát
triển.
Mặc: Thông thường, đàn ông đóng khố, ở trần,
đàn bà mặc áo, quấn váy. Trước kia, phụ nữ nghèo ở nhiều nơi cũng dùng khố. Họ
ưa đeo nhiều trang sức, thường dùng các loại vòng kim loại và chuỗi cườm, thậm
chí một cánh tay đeo tới trên 20 chiếc vòng nhôm nay bạc, có cả loại vòng ống
quấn từ sợi dây đồng dài ôm quanh ống chân, ống tay. Loại hoa tai lớn bằng ngà
voi được ưa chuộng. Nay nam giới mặc như người Việt, nữ hay dùng áo cánh, sơ
mi, ở vùng gần người Khơ Me cũng thường gặp phụ nữ Xtiêng quấn váy Khơ Me.
Phương tiện vận chuyển: Các loại gùi rất
thông dụng, cách gùi như ở các tộc Thượng khác. Nhóm gần người Việt và Khơ Me,
các loại xe gỗ 2 bánh dùng đôi bò kéo từ lâu đã trở thành một phương tiện vận
chuyển phổ biến.
Quan hệ xã hội: Mỗi cặp vợ chồng và con
cái là một "bếp" (nak). Nhiều bếp hợp thành một nhà (yau). Mỗi làng
xưa gồm một vài nhà, càng về sau số nhà càng tăng do việc tách hộ ở riêng. Mỗi
người không chỉ thuộc về một "bếp", một nhà, một làng, mà còn là
thành viên của một dòng họ nhất định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng nhất
định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng khác nữa. Về tổ chức xã hội truyền thống,
làng là đơn vị bao trùm và nổi bật: trong tự bảo quản ở thì ông "già
làng" và các bô lão có uy tín cao khác đóng vai trò quan trọng đặc biệt.
Xưa kia, ngoài một số ít người giàu có và đa số thuộc lớp nghèo, xã hội Xtiêng
đã có những "nô lệ gia đình" do phải ở đợ, hoặc bị mua về...
Cưới xin: Thông thường nếu nhà trai có đủ
của cải sính lễ, cô dâu về ở đằng chồng, nhưng thực tế phần đông phải ở rể do
chưa có đủ đồ dẫn cưới theo yêu cầu của nhà gái (ché quý, chiêng cồng,
trâu...); riêng ở vùng Bình Long, chàng rể luôn phải về ở nhà vợ. Tập tục hôn
nhân giữa các nơi, các nhóm có những điểm khác nhau, chẳng hạn: Nhóm Bù Ðek cho
phép con trai cô với con gái cậu cũng như con gái cậu với con gái cô lấy nhau,
nhưng ở nhóm Bù Lơ chỉ con trai cô được lấy con gái cậu với điều kiện cậu là
anh của cô, cũng chỉ được chấp nhận một lần trong mỗi gia đình.
Sinh đẻ: Phụ nữ kiêng cữ cẩn thận ngay từ
thời kỳ mang thai. Việc sinh nở xưa kia, phụ nữ tự xoay xở ngoài rừng một mình.
Nay nhiều người ở vùng có tập quán dựng kho thóc trong nhà vẫn ra đẻ ở ngôi nhà
nhỏ dựng gần bên nhà ở, bởi họ cho rằng nếu đẻ ở nhà sẽ xúc phạm đến "thần
lúa", đẻ xong sẽ phải cúng một con lợn cho "thần lúa".
Trong ngày lễ mừng lúa mới, người Xtiêng
thường tổ chức đâm trâu. Khi giết một trâu, họ chỉ dựng đoạn thây cây gạo làm cột.
Nếu đâm nhiều trâu, lần đầu gia chủ làm loại cột đơn giản gâng srung, những lần
sau họ dựng cột gâng rai với nhiều hoa văn trang trí. Ðây là phần ngọn của cây
cột đâm trâu gâng rai.
Ma chay: Quan tài gỗ độc mộc đẽo từ cây rừng.
Nếu chết bìnhthường thì họ chôn trong bãi mộ của làng. Trong quan tài, cùng với
tử thi, có bỏ một ít gạo, thuốc lá... Những ché, nồi, dụng cụ...
"chia" cho người chết đều để trên và quanh mộ. Người Xtiêng không có
tục thăm viếng mồ mả. Có người mới chết, cả làng không gõ cồng chiêng và vui nhộn
trong khoảng 10 ngày. Những trường hợp chết bất bình thường phải cúng quải tốn
kém hơn, kiêng cữ nhiều hơn, lễ thức làm ngoài khu gia cư của làng và không được
chôn vào bãi mộ của làng.
Thờ cúng: Người ta tin con người, con vật,
cây cối cũng như muôn vật đều có siêu nhiên, tựa như "hồn". "Thần
linh" cũng có rất nhiều: thần sấm sét, thần mặt trời, thần núi, thần
lúa... Thần lúa được hình dung là người phụ nữ trẻ và đẹp. Trong các lễ cúng,
các vị thần hoặc các siêu nhiên nói chung được nhắc đến để cầu xin, hay tạ ơn,
hay thông báo điều gì đó. Vật hiến tế là rượu, gà, lợn, trâu, bò, số lượng càng
nhiều và con vật càng lớn chứng tỏ lễ cúng càng to, thần linh càng quyền thế,
quan trọng.
Lễ tết: Có rất nhiều lễ cúng lớn nhỏ khác
nhau trong đời sống của người Xtiêng. Trong đó, lễ hội đâm trâu là lớn nhất,
thường được tổ chức mừng được mùa lớn (gia đình thu hoạch lúa từ 100 gùi cỡ to
trở lên - loại gùi có tên Sah cach), mừng chiến thắng kẻ thù, mừng làm ăn phát
đạt, mừng con cái lớn khôn... Cùng với hiến sinh trâu còn thường có cả bò, lợn.
Nếu hiến sinh một trâu, cột lễ để buộc trâu làm đơn giản, nhưng từ 2 trâu trở
lên thì cột lễ trang trí đẹp, làm công phu. Tết Xtiêng được gọi là "lễ
cúng rơm", sau khi tuốt lúa rẫy xong, trước khi đốt rẫy vụ sau: lễ thức
ngày tết có nội dung tạ ơn thần lúa sau một mùa.
Văn nghệ: Người Xtiêng rất yêu âm nhạc. Nhạc
cụ quan trọng nhất, đồng thời là một trong số gia tài quý ở xã hội truyền thống,
là cồng và chiêng; nhóm Bù Lơ chủ yếu dùng chiêng, mỗi bộ 6 chiếc, nhóm Bù Ðek
(Bù Ðêk) chủ yếu dùng cồng, mỗi bộ 5 chiếc. Riêng trong đám ma, chỉ dùng 3 cồng
hoặc 3 chiêng. Ngoài ra, còn có tù và, trống, khèn bầu, các loại đàn. Người
Xtiêng cũng có kho tàng truyện cổ khá phong phú, có những điệu hát của mình.
Tuy nhiên, đến nay, tương tự như nhiều nơi khác, ngay cả cồng, chiêng cũng chỉ
còn rất ít so với xưa kia.
Sầm Thị Phong
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét