SỬ THI ĐẺ ĐẤT ĐẺ NƯỚC DÂN TỘC MƯỜNG. [1] * Biên tập Huỳnh Tâm & Nguyễn Văn An.

Thuở xa xưa, khi đất còn pạc lạc, hồng hoan, xơ xác, rời rạc. Nước còn bùng nhùng, pời lời, Trời còn mung lung puổng luổng, bỗng "mưa dầm mưa dãi", nước ngập bao la núi đồi, 50 ngày nước mới rút, tự nhiên mọc lên một cây xanh có 90 cành, có một cành chọc trời, biến thành ông Thu Tha, bà Thu Thiên. Hai thần truyền lệnh làm ra đất, trời và muôn vật.
Nhưng sau đó, trời nắng dữ dội 12 năm liền làm cho xơ xác. Thần Pồng Pêu ao ước có một trận mưa lớn.

SỬ THI ĐẺ ĐẤT ĐẺ NƯỚC DÂN TỘC MƯỜNG. [2] * Biên tập Huỳnh Tâm & Nguyễn Văn An.

 XIII
TÌM CƠM, TÌM LÚA
 
Lang chưa có cơm để ăn no
Chưa có lúa để làm sang
Nhà Lang phải gọi mụ Dạ Dần
Cầm choòng đi đào củ mài
Cho nhà Lang đủ ăn
Làm nên bàn nên bữa.
*   *   *

SỬ THI ĐẺ ĐẤT ĐẺ NƯỚC DÂN TỘC MƯỜNG [3] * Biên tập Huỳnh Tâm & Nguyễn Văn An.

XV
LANG CUN CẦN LẤY VỢ
 
Chưa có vợ nằm nhà
Chưa có bà sắm cơm, trộn rượu
Chưa có người tiếp khách trong binh trong mường
Lang Cun Cần ra nằm ấp cửa sổ chái
Mắt trông ra ruộng
Ngó xuống bến nước
Thấy nàng Vạ Hai Chiếng[1]
Đứng dựa bờ giếng gội đầu

SỬ THI ĐẺ ĐẤT ĐẺ NƯỚC DÂN TỘC MƯỜNG [4] * Biên tập Huỳnh Tâm & Nguyễn Văn An.

XVI
ĐẺ TRỐNG ĐỒNG
 
Lang Cun Cần ngồi trên sập rồng
Trông xuống giữa nhà
Thấy vật đen đen giống con bò
Thấy vật có hoa giống cái sọt
Lang Cun Cần hỏi các mo mường
Đố biết đó là cái chi?
Các mo mường buông tóc lõa xõa
Kẻ thưa, người dạ:

SỬ THI ĐẺ ĐẤT ĐẺ NƯỚC DÂN TỘC MƯỜNG [5] * Biên tập Huỳnh Tâm & Nguyễn Văn An.

XVIII
TÌM CHU
 
Ba anh em nhà Lang
Đi quăng chài sông cái
Đi thả lưới sông con
Gặp đàn kiến đỏ
Kéo đi chật đường
Um tùm chật lối
Cun Tồi liền hỏi:
- "Hỡi đàn kiến kia!
Bay đi đâu đông đông
Mang cả chiêng đồng trống bạc"
Đàn kiến trả lời:

SỬ THI ĐẺ ĐẤT ĐẺ NƯỚC DÂN TỘC MƯỜNG [6] * Biên tập Huỳnh Tâm & Nguyễn Văn An.

XIX
CHẶT CHU
Được quả chu vàng
Nhà Lang bàn chuyện lấy chu
Nhà lang sắm sửa rìu to, búa lớn
Từ ông già đến con trai mười ba, mười chín
Con gái gánh chuyển cơm gạo đi theo
Khiêng rìu, khiêng dao
Vào rừng, tìm chu, tìm lụi

SỬ THI ĐẺ ĐẤT ĐẺ NƯỚC DÂN TỘC MƯỜNG [7] * Biên tập Huỳnh Tâm & Nguyễn Văn An.

XX
LÀM NHÀ CHU
 
Lang Cun Khương thịt trâu, thịt bò
Cho làm cơm, làm rượu
Để làm vía cho Cun Tồi, Cun Tàng, Lang Cun Khương
Rượu thơm cùng uống
Thịt nướng cùng ăn
Ăn xong Lang Cun Khương liền bảo:
- "Bây giờ,
Bố muốn làm nên cửa
Bố muốn sửa nên nhà
Bay phải đi mọi nơi
Tìm lấy mười ba người thợ khéo
Về đóng kiệu, đóng ngai
Đóng xà vàng, xà bạc".

SỬ THI ĐẺ ĐẤT ĐẺ NƯỚC DÂN TỘC MƯỜNG [8] * Biên tập Huỳnh Tâm & Nguyễn Văn An.

XXIII
SĂN CÁ ĐIÊN SĂN QUẠ ĐIÊN
 
Ở bãi làm thịt con moong lồ
Còn rớt thừa hai, ba tảng phổi
Đàn chó săn ăn phải
Hóa ra chó điên
Đuổi cắn người chu chương mường nước
Ai thấy cũng sợ

Trang Phục Phụ Nữ Dân Tộc Pa Dí. * Huỳnh Tâm.

Trang phục của người phụ nữ dân tộc Pa Dí có những vẻ đẹp độc đáo, những nét riêng không thể lẫn với bất cứ dân tộc nào.
Dân tộc Pa Dí có trên 2.000 nhân khẩu, với nhiều tên gọi khác nhau như Pa Dí, Tày đen. Người Nùng gọi người Pa Dí là Phù Táng, Phù Tay, Tẳng, Tày đăm...

Truyền Thống Văn Hóa Dân Tộc Pa Dí. * Huỳnh Tâm.

Dân tộc Pa Dí sinh cư tại thôn Chúng Chải, huyện Mường Khương, ước vọng gìn giữ Văn hóa cho những thế hệ mai sau. Theo nhà thơ Pờ Sảo Mìn, miêu tả một dân tộc cần sinh tồn, thể hiện qua bài thơ đã phổ thành nhạc:
"Dân Tộc của tôi chỉ có hai ngàn người
Như cái cây hai ngàn chiếc lá…"

Tục Cưới Hỏi Của Dân Tộc Pa Dí ở Lào Cai. * Huỳnh Tâm.

Ngựa thồ lễ vật giao cho nhà gái (Ảnh: Nguyễn Ngọc Thanh)

Người dân tộc Pa Dí cư trú tập trung chủ yếu ở huyện Mường Khương, Lào Cai. Họ còn lưu giữ được nhiều tập quán xã hội, trong đó phải kể đến tục lệ cưới hỏi. Đám cưới của người Pa Dí trải qua nhiều bước, trong đó có lễ ăn hỏi, lễ cưới và lễ lại mặt.

Sử Thi Đẻ Đất Đẻ Nước. * Biên khảo Huỳnh Tâm.

Núi Cột Cờ Mường Bi.

Sử thi "Đẻ đất đẻ nước" Sử thi dân tộc Mường có gần 6.000 câu, dày 2.000 trang.
Sử thi "Đẻ đất, đẻ nước", một tác phẩm văn học giữ vai trò tiêu biểu của dận tộc Mường. Một áng văn sử thi diễn xướng, nghi lại công thức tổ chức tang ma dân tộc Mường.

Sử Thi Khan Đam San của dân tộc Ê-Đê, Tây Nguyên. * Huỳnh Tâm sưu tầm

Sử thi chàng Đam San
 (còn gọi là Đăm Săn hay Đăm San) hay Bài ca chàng Đam San là một trường ca sử thi của dân tộc Ê-đê ở Tây Nguyên, tên tiếng Ê-đê gọi là Klei khan y Đam San, dài 2077 câu.
Tác phẩm được nhiều người sưu tầm, những lời kể có khác nhau, tuy nhiên cốt truyện tương đối giống nhau. Sử thi đã được in thành sách và tái bản nhiều lần. Một trong những bản được sử dụng nhiều nhất do công sứ Leopold Sabachier người Pháp sưu tầm, ghi âm, dịch sang tiếng Pháp và công bố năm 1933. Sau đó được Đào Tử Chí dịch sang tiếng Việt Nam. 

Nền Tảng Văn Hóa Tây Nguyên . * Huỳnh Tâm.

Những tác phẩm sử thi tiêu biểu.
Ngoài dân tộc Ê Đê, một số dân tộc khác ở Tây Nguyên cũng có loại hình tự sự trường thiên, người M’nông gọi là Ot Ndrông, người Bahnar gọi là Hơmon, người Jrai gọi là Hơri, người Mạ gọi là Nôtông, người Raglai gọi là Akhat Daluka. Đó là loại hình sử thi, trường ca - một loại hình sinh hoạt nghệ thuật độc đáo của người Tây Nguyên. Các nhà nghiên cứu phân chia thành hai dạng:

Gìn giữ kỹ thuật chế biến rượu cần độc đáo của dân tộc S'Tiêng. * Huỳnh Tâm.

Cách phối trộn độc đáo giữa các men lá với nguyên liệu như lúa, gạo của dân tộc S'Tiêng tạo ra sản phẩm rượu cần mang sự khác biệt về hương vị, độ đậm đà, chất lượng.
Sản phẩm rượu cần của dân tộc S’Tiêng tại sóc Bom Bo, xã Bình Minh, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước:

Rượu Cần Nét Văn Hóa Của Người Jrai, Tây Nguyên. * Huỳnh Tâm.

Gia Lai
 - Hàng năm, cứ đến dịp Tết đến xuân về, người đồng bào Jrai ở tỉnh Gia Lai lại lên rừng hái lá cây về nấu rượu cần - một đặc sản mang hương vị núi rừng Tây Nguyên từ nghìn đời nay.
Làng đồng bào người Jrai ở huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai là cái nôi của văn hóa làm rượu cần truyền thống. Khi cây rừng bị lâm tặc triệt hạ, rừng càng lùi xa với bản làng thì việc tìm các loại lá cây làm nên hương men rượu cần khó khăn hơn, nhưng người dân vẫn chịu khó mang gùi đi kiếm tìm.

Giá trị của ché trong đời sống người Ê đê. * Huỳnh Tâm.

Đối với nhiều người Êđê, ché không đơn thuần chỉ là vật dụng, mà còn mang tính thiêng, là phương tiện giao lưu, gắn kết cộng đồng, dòng tộc.
Êđê là dân tộc ít người sinh sống miền Trung Tây Nguyên có vốn văn hóa truyền thống gắn liền với lịch sử phát triển của nền văn minh nương rẫy.

Về Thăm Xã Lát Lạc Dương. * Huỳnh Tâm.

Lat Village
Nằm dưới chân đỉnh Lang Biang hùng vĩ, xã Lát thuộc huyện Lạc Dương, nơi người dân tộc Lạch – những cư dân đầu tiên của thành phố cao nguyên xinh đẹp Đà Lạt – Sinh sống là nơi để bạn dừng chân, tìm hiểu nhiều điều thú vị về con người và nếp sinh hoạt văn hóa ở đây. Thuộc huyện Lạc Dương tỉnh Lâm đồng. Đó là khu vực dưới chân đỉnh Lanbiang, một trong 3 ngọn núi cao nhất của cao nguyên Lâm Viên. Đây là một trong những bản làng của đồng bào dân tộc tây Nguyên còn giữ được nhiều nét văn hoá truyền thống.

Bộ Tộc Lạch và Chill. * LS. Ngô Tằng Giao.

Trước kia vùng thung lũng mà nay là Hồ Xuân Hương, là nơi cư trú của người Lạch, vùng gần Cam Ly là địa bàn của bộ tộc Chill.
Những người dân thiểu số này lui dần ra ngoại vi thành phố. Người Lạch rút về ở xã Lát, dưới chân núi Lang Biang.
Người Chill ở rải rác quanh Đà Lạt, Tà Nung, Đức Trọng. Chill có tập quán du canh, du cư, phát rừng, làm rẫy. Lạch có nghĩa là đồi cỏ, là rừng thưa hay trảng cỏ. 

Lễ Cúng Rừng Của Dân Tộc Thu Lao Ở Lào Cai. * Biên Khảo Huỳnh Tâm.

Với người Thu Lao, lễ cúng rừng có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống tín ngưỡng tâm linh của cộng đồng. Đây cũng là nghi lễ lớn nhất trong năm của người Thu Lao được tổ chức hằng năm vào dịp tháng hai và tháng sáu âm lịch để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, các gia đình trong làng có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Phong Tục Cưới Của Người Thu Lao. * Biên Khảo Huỳnh Tâm.

Lễ cưới của người Thu Lao trải qua nhiều nghi lễ khác nhau, như lễ dạm gõ, lễ ăn hỏi, lễ cưới chính thức và lễ lại mặt…
Người Thu Lao là một trong những dân tộc ít người, chỉ có ở Lào Cai, họ sống tập trung ở khu vực thượng nguồn sông Chảy thuộc các thôn La Hờ, Lũng Thắng, La Măng, Thải Giàng Sáng (xã Tả Gia Khâu, huyện Mường Khương); thôn Sán Chá (xã Thào Chư Phìn), thôn Tả Chải (xã Nàn Sán), thôn Khuốn Pống (xã Bản Mế thuộc huyện Si Ma Cai).

Điệu Khúc Kháo Của Dân Tộc Thu Lao. * Biên Khảo Huỳnh Tâm.

Đến xã Nàn Sán, huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai, hỏi nhà ông Vàng Sín Phìn ai cũng biết. Không chỉ có uy tín trong thôn, bản, ông Phìn cò
n là nghệ nhân ưu tú của dân tộc Thu Lao vì đã có công sưu tầm nhạc cụ, dân ca, trường ca của dân tộc mình rồi truyền dạy cho người dân địa phương.

Thổ Cẩm Của Dân Tộc Thu Lao. * Biên Khảo Huỳnh Tâm.

Với những gam màu rực rỡ, hoa văn và các tua rua trang trí cầu kỳ, những đôi giày thổ cẩm rất độc đáo của người Thu Lao như một nét văn hóa đặc sắc cần được gìn giữ. Giày thổ cẩm là sản phẩm đặc trưng mà phụ nữ Thu Lao ở vùng cao tỉnh Lào Cai có thể phát huy giá trị văn hóa truyền thống của cha ông.

Độc Đáo Trang Phục Truyền Thống Của Dân Tộc Thu Lao. * Biên Khảo Huỳnh Tâm.

Trang phục là một thành tố quan trọng của văn hóa tộc người.
Trang phục của người Thu Lao tồn tại và phát triển chủ yếu với nền kinh tế lúa nương, vì vậy các họa tiết trên trang phục phản ánh rõ nét việc chinh phục và sử dụng thành thạo một số loại thực vật làm nguyên liệu, công cụ sản xuất, cũng như thuốc nhuộm…

Văn Hóa Của Dân Tộc Thu Lao. * Biên Khảo Huỳnh Tâm.

Âm nhạc, dân ca, dân vũ là tài sản quý báu, mang sắc thái riêng, gắn liền với đời sống tinh thần của mỗi dân tộc. Với người Thu Lao ở Nàn Sán, huyện Si Ma Cai, những điệu hát, điệu Kháo đã ăn sâu vào máu thịt, được gìn giữ và phát huy, góp phần làm phong phú bản sắc văn hóa các dân tộc trên địa bàn Lào Cai.
Bảo tồn trang phục truyền thống của người Thu Lao
Tiếng đàn, điệu Kháo luôn được người Thu Lao gìn giữ và phát huy.

Dân Tộc Thu Lao. * Biên Khảo Huỳnh Tâm.

1. Tên gọi:
Người Thu Lao thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái. Trong nội bộ dân tộc họ thường giao tiếp bằng ngôn ngữ của dân tộc mình, khi giao tiếp với các thành phần dân tộc khác họ dùng tiếng Quan Hỏa. Ngoài tên gọi Thu Lao đã trở thành tên gọi chính thức, họ còn có tên tự gọi là "Đày".

Đồng Bào Dân Tộc Thu Lao. * Biên Khảo Huỳnh Tâm.

Trang phục truyền thống của người Thu Lao chứa đựng nhiều giá trị về văn hóa, tinh thần, không đơn thuần là chỉ sử dụng bộ quần áo đó để mặc.
Ở Si Ma Cai (Lào Cai), trang phục truyền thống của người Thu Lao vẫn được người dân lưu truyền và phát triển đến nay. Với những nét họa tiết văn hóa đặc sắc, được các bà các chị khắc họa và trang trí công phu trên từng đường kim, mũi chỉ. Những họa tiết gắn cầu kỳ ấy gắn liền với những hình của cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của họ. Trên trang phục phản ánh rõ nét những họa tiết, được thêu thủ công tái hiện lại những cảnh vật thiên nhiên, công cụ sản xuất.

Những Nét Văn Hóa Thổ Cẩm Của Dân Tộc Thu Lao. * Biên Khảo Huỳnh Tâm.

Với những gam màu rực rỡ, hoa văn và các tua rua trang trí cầu kỳ, những đôi giày thổ cẩm rất độc đáo của người Thu Lao như một nét văn hóa đặc sắc cần được gìn giữ. Giày thổ cẩm là sản phẩm đặc trưng mà phụ nữ Thu Lao ở vùng cao tỉnh Lào Cai có thể phát huy giá trị văn hóa truyền thống của cha ông.