Theo tài liệu khảo cổ học, từ những di tích, chỉ tìm được ở
Đốc Chùa (Tân Uyên), thành Cổ Tròn (Bình Long) thì khả năng xuất hiện của người
S'tiêng ước lượng từ 2.000 đến 5.500 năm. Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, thực
dân Pháp chiếm đất của người S'tiêng để lập đồn điền cao su, đẩy người S'tiêng
ngày càng lùi sâu vào vùng rừng núi phía Bắc.
Về đặc điểm tộc người ngôn ngữ của người S'tiêng thuộc ngữ
hệ Môn-Khmer Đông Nam Aá. Trong các dân tộc thuộc ngữ hệ Môn - Khmer ở Tây
Nguyên thì người S'tiêng là nhóm cư dân có dân số đông thứ ba sau Ba Na và
H'Rê.
Là một dân tộc thuộc cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, là
chủ nhân lâu đời của miền đất Nam Trường Sơn, dân tộc S'tiêng có một nền văn
hóa mang nhiều sắc thái chung với những người anh em Tây Nguyên nhưng cũng
không thiếu những nét độc đáo, phong phú mang tính chất đặc thù bản sắc của dân
tộc mình. Cư ngụ ở Nam Tây Nguyên, S'tiêng như một cánh cửa đón nhận sự giao
lưu, hội nhập của văn hóa người Việt, người Khmer, người Mnông. Vì lẽ đó, những
gì thuộc bản sắc Văn hóa S'tiêng rõ ràng phải có một sức sống mãnh liệt mới có
thể tồn tại và phát triển được.
Đứng đầu một bon (buôn, sóc) người S'tiêng là một già làng
(bu kuông), sau đó là tập thể những lão làng có kinh nghiệm, có uy tín làm cố vấn,
những người này bầu ra già làng. Quan hệ gia đình người S'tiêng là quan hệ phụ
hệ. Luật hôn nhân S'tiêng cấm không được kết hôn trong nội tộc, do đó một cặp
trai gái muốn đi tới hôn nhân thường phải nhờ già làng và hội đồng bộ lão xem
xét lại gia phả, dòng họ để tránh phạm luật. Tín ngưỡng của người S'tiêng là
"vạn vật hữu linh", họ quan niệm vật gì cũng có hồn, do đó họ thờ đa
Thần, Thần Mặt Trời, Thần Mặt Trăng, Thần Gió, Thần Mưa, Thần Núi, Thần Sông,
Thần Thác Nước.... nhưng quan trọng đối với người S'tiêng là vị thần Yang
Liêng, người đã khai sáng ra vùng đất của người S'tiêng hiện nay. Bên cạnh đó
là các vị thần được tôn thờ như Thần Núi Yang Yumbra (cư ngụ trên đỉnh núi Bà
Rá). Thần Thác Liêng Hur, người chiến thắng các Thần Thác Nước khác trong vùng.
Cũng như nhiều dân tộc ít người khác, người S'tiêng cũng có
nhiều lễ hội lễ đâm trâu với tục hiến sinh để tạ ơn và cầu xin thần linh... Đặc
biệt, lễ đâm trâu của người S'tiêng có thủ tục quay đầu trâu là một hình thức
vay trả, ơn nghĩa trong cộng đồng.
Người S'tiêng có khá nhiều truyền thuyết, truyện kể, thơ ca
dân gian nói về nguồn gốc tộc người, về sự tích lai lịch các vị Thần, về lịch sử
đấu tranh và xây dựng của cộng đồng, về những sinh hoạt thường ngày, về tình
yêu nam nữ... Những già làng, lão làng ở Đắck Ơ, Đắk Nhau là những người thuộc
nhiều, nhớ nhiều vốn văn học này. Đáng chú ý ở cộng đồng người S'tiêng có lối
hát nói, hát kể (Tâm - pơt) do một hoặc hai người cùng thể hiện, là một hình thức
chuyển tải những truyền thuyết huyền thoại, sự tích hoặc tâm tư nguyện vọng của
người S'tiêng đối với đồng bào mình. Người càng cao tuổi càng biết nhiều bài
Tâm - pơt và hát càng hay hơn.
Người S'tiêng nhánh Bù Lơ ở miền cao sinh sống trong những
ngôi nhà dài nền đất, mái tranh, vách bằng tre nứa. Nhà dài của người S'tiêng
thường dài khoảng 25 - 30m, mái thấp gần chạm đất và có hai cửa ra vào ở hai đầu
nhà. Một số nhà dài ở vùng Đắk Ơ có đặc điểm 4 góc nhà lượn tròn chứ không
vuông như nhà bình thường. Trong một nhà (Yau) thường có nhiều bếp (Nak) cho từng
gia đình nhỏ. Một bon S'tiêng thường có khoảng 5 - 7 nhà dài, có bon có khoảng
2 - 3 nhà.
Người S'tiêng nhánh Bù Dek thường ở nhà sàn. Nhà sàn
S'tiêng Bù Dek có hai dạng: loại nhà sàn dài và nhà sàn ngắn, bé cho từng hộ
gia đình. Ơở Bình Long còn một số nhà sàn cổ theo truyền thống S'tiêng: cột lớn,
vách nhà nghiên loe ra ở phía trên.
Hiện nay nhánh Bù Lơ, nhà nền đất, (nhà trệt) ngắn, nhỏ cho
từng hộ gia đình đã xuất hiện nhiều xen lẫn với nhà dài. Ơở nhánh Bù Dek, nhà nền
đất cũng được xây dựng xen lẫn với nhà sàn.
Người S'tiêng cũng có những tượng nhà mồ và một chạm khắc
trên cây nêu, trên các hình tượng trên bàn thờ hoặc các vật dụng trang trí
trong nhà, các công cụ lao động sản xuất.
Trước đây người S'tiêng nổi tiếng với nghề thợ rèn đạt
trình độ khá cao, nhiều công cụ, vật dụng tinh xảo đã được các nghệ nhân
S'tiêng chế tác. Bên cạnh đó, nghề dệt và nhuộm vải bằng vỏ cây rừng cũng là một
nghề phát triển trong cộng đồng người S'tiêng. Chính qua những hoa văn, màu sắc,
kiểu dáng trên khố váy, khăn, người S'tiêng chứng tỏ khả năng tạo hình của
mình. Ngoài ra còn có những hoa văn trang trí trên những chiếc gùi, trên những
vật dụng đan lát, những hình vẽ trang trí trên cồng chiêng, trên cây nêu...
(Mới đây trong Liên hoan văn hóa các dân tộc toàn quốc tổ
chức tại Hà Nội, 1996, một già làng S'tiêng - ông Điểu Đố - đã được tặng Huy
chương vàng cho người có trang phục dân tộc đẹp nhất).
Người S'tiêng bản tính đôn hậu trầm lắng và rất yêu ca hát.
Trong vốn âm nhạc cổ truyền của đồng bào S'tiêng, nghệ thuật cồng chiêng nổi
lên như một viên ngọc sáng. Cũng như c khác trên dọc dãy Trường Sơn, cồng
chiêng đã gắn bó với cộng đồng người S'tiêng như máu thịt, nó đã trở thành biểu
tượng cho sức mạnh vật chất, sức mạnh tinh thần của đồng bào. Nghệ thuật cồng
chiêng S'tiêng mang nhiều nét chung của cồng chiêng Tây Nguyên và cũng có rất
nhiều yếu tố độc đáo mang tính đặc thù của dân tộc mình. Nó đã tự khẳng định được
một chỗ đứng vững chắc, một giá trị đáng tự hào trong đại gia đình cồng chiêng
Việt Nam.
Bên cạnh cồng chiêng, âm nhạc cổ truyền S'tiêng còn có một
khối lượng dân ca phong phú và đa dạng. Người S'tiêng có lối hát kể (Tâm -
pơt), có thể loại tình ca (Nao - lan), trường ca (O-Kroong), có hát ru, có đồng
dao và nhiều bài sinh hoạt khác.
Nói đến âm nhạc của người S'tiêng, không thể không nhắc đến
các nhạc cụ dân gian và các bài bản dân nhạc. Người S'tiêng biết chế tác và sử
dụng nhiều thức nhạc cụ như kèn M'buốt, Sáo Tơ lết, Sáo U-Kooc-le, Sáo Pia, Sáo
N'hôm, kèn Nung biên, đàn Đình - put và một số loại trống. Những nhạc cụ trên
có khi được biểu diễn đệm cho hát, có khi diễn tấu những bản nhạc ngắn. Dân nhạc
S'tiêng là những bài bản ngắn, gọn, đơn giản, thường thể hiện mô phỏng tiếng suối,
tiếng gió, tiếng con chim, con sóc, những hiện tượng tự nhiên gần gũi với cuộc
sống của đồng bào.
Về nghệ thuật múa, người S'tiêng có điệu múa trong lễ hiến
sinh. Trong cúng con Bà Bóng (Mê Prak), những động tác, đội hình mang tính chất
múa như khi biểu diễn cồng chiêng đi diễn vòng... Ngoài ra, ở một số nơi sống gần
gũi hoặc đan xen với người Khmer, lớp trẻ tiếp nhận ở người Khmer điệu múa Lâm
thôn....
Hoàng Thị Vinh (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét