Người dân tộc thiểu số Xtiêng còn gọi là người
S'tiêng hoăc Giẻ Xtiêng. Dân tộc này không nên nhầm lẫn với người
dân tộc Giẻ Triêng. Đây là một dân tộc trong số 54 dân tộc được Nhà nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam công nhận chính thức. Người dân tộc Xtiêng sử dụng
ngôn ngữ tiếng Xtiêng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer.
Dân tộc Xtiêng có dân số khoảng 66.788 người theo điều tra
dân số năm 1999, cư trú tập trung tại một số huyện thuộc các tỉnh Bình Phước, Đồng
Nai và Tây Ninh, chiếm tỷ lệ trên 99,3%. Một số ít sinh sống tại Campuchia
nhưng chưa ghi nhận được số liệu chính thức về dân tộc này tại đây.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người dân tộc
Xtiêng ở Việt Nam có dân số 85.436 người, có mặt tại 34 trên tổng số 63 tỉnh,
thành phố. Người Xtiêng cư trú tập trung tại tỉnh Bình Phước 81.708 người, chiếm
tỷ lệ 95,6 % tổng số người Xtiêng tại Việt Nam, tỉnh Tây Ninh 1.654 người,
tỉnh Đồng Nai 1.269 người, tỉnh Lâm Đồng 380 người, tỉnh Bình Dương 153 người...
Về đặc điểm kinh tế và tổ chức cộng đồng
Về hình thái kinh tế, có thể tạm chia dân tộc này thành hai
nhóm là nhóm Bù Đéc ở vùng thấp, biết làm ruộng nước và dùng trâu, bò để kéo
cày từ khá lâu và nhóm Bù Lơ ở vùng cao, làm rẫy là chủ yếu, sống gần gũi với
người dân tộc M’Nông và người dân tộc Mạ. Thức ăn chủ yếu của họ là gạo, rau,
cá, tôm... Trước đây người dân tộc Xtiêng thường ăn bằng tay nhưng gần đây đã
ăn bằng đũa và bát, đĩa. Họ hay dùng rượu cần trong dịp lễ hội.
Về tổ chức cộng đồng, ngày nay người dân tộc
Xtiêng ở nhiều nơi đã định canh, định cư; từng gia đình làm nhà ở riêng. Họ Điểu
là họ phổ biến khắp vùng người dân tộc Xtiêng. Làng người Xtiêng có truyền thống
tự quản, đứng đầu là một ông già am hiểu tập tục, có uy tín lớn, tháo vát và
thường là người giàu có ở làng. Mức giàu được tính bằng tài sản như trâu, bò,
chiêng, cồng, ché, vòng, trang sức và nhiều thứ khác.
Về hôn nhân gia đình, nhà cửa và trang phục
Người dân tộc Xtiêng lấy vợ, lấy chồng khác dòng họ. Thông
thường con trai từ tuổi 19 đến 20, con gái từ tuổi 15 đến 17 bắt đầu tìm bạn đời.
Sau lễ cưới, chú rể về nhà cô dâu.
Người dân tộc Xtiêng ưa thích âm nhạc, nhạc cụ thường thấy
nhất là bộ chiêng 6 cái. Chiêng không được gõ ở ngoài nhà, trừ ngày lễ đâm
trâu. Chiêng dùng trong lễ hội, sử dụng cả trong việc bộc lộ tình cảm, hòa giải
xích mích giữa các gia đình. Ngoài chiêng còn có cồng, khèn bầu được người
Xtiêng ưa thích. Cuối mùa khô, họ hay chơi thả diều.
Nhà cửa của người dân tộc Xtiêng không đồng nhất giữa
các khu vực. Chẳng hạn ở Bù Lơ người Xtiêng sống trong nhà đất dài với gia đình
lớn theo chế độ phụ hệ; ở Đak Kia người Xtiêng cư trú trong nhà sàn, nhà nứa và
nhà đất ngắn với gia đình nhỏ; ở Bù Đéc người Xtiêng lại sống trong nhà sàn dài
với gia đình lớn theo chế độ mẫu hệ. Bộ khung nhà người Xtiêng dù nhà sàn hay
nhà đất đều trên cơ sở vì hai cột, không có kèo. Căn cứ vào cấu tạo của bộ
khung nhà đất của người Xtiêng hiện nay còn thấy được thì nhà đất của người
Xtiêng rất thô sơ. Nhà đất của người dân tộc Xtiêng chỉ như một cái chòi, mái
được kéo gần sát mặt đất. Cửa ra vào rất thấp, mở ở hai đầu hồi và một cửa ở mặt
trước nhà, mái trên cửa cũng phải cắt bớt hoặc làm vòng lên như ở nhà người dân
tộc Mạ.
Trang phục của người dân tộc Xtiêng khá đơn giản, đàn bà mặc
váy, đàn ông đóng khố. Mùa đông người ta choàng một tấm vải để chống rét. Người
dân tộc Xtiêng để tóc dài búi sau gáy, xâu lỗ tai, hoa tai bằng gỗ, ngà voi và
xăm mặt, xăm mình với những hoa văn giản đơn. Mọi người nam, nữ, già, trẻ đều
thích đeo các loại vòng. Trẻ em còn nhỏ đeo lục lạc ở hai cổ chân.
Nông Quang Lập (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét