Tổng số dân: 570 (ước 2003)
Khu vực có số dân đáng kể: Việt Nam: 376 (2009), Lào: 190 (1996)
Ngôn ngữ: Tiếng Ơ Đu, tiếng Việt, tiếng Lào
Tôn giáo: Tín ngưỡng dân gian (vật linh), Kitô giáo
Dân
tộc Ơ Đu (theo tiếng Thái nghĩa là
"thương lắm"), còn có tên gọi khác là Tày Hạt (có nghĩa là "người
đói rách"), là một trong những dân tộc ít người nhất của Việt Nam và Lào.
Dân số và địa bàn cư trú
Tại Việt Nam, họ cư trú tại huyện Tương
Dương, tỉnh Nghệ An. Theo thống kê dân số vào tháng 4 năm 1999, người Ơ Đu có
301 người. Theo ước tỉnh của Ủy ban dân tộc Việt Nam thì dân số năm 2003 vào
khoảng 370 người.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, người Ơ Đu ở Việt Nam có dân số 376 người, có mặt tại 11 trên tổng số 63
tỉnh, thành phố. Người Ơ Đu cư trú tập trung tại các tỉnh: Nghệ An (340 người,
chiếm 90,4% tổng số người Ơ Đu tại Việt Nam), Thành phố Hồ Chí Minh (12 người),
Hà Nội (7 người), Lâm Đồng (4 người), Đồng Nai (4 người)...
Tại Lào: theo ước tính của Ethnologue thì
có khoảng 194 người Ơ Đu sống tại tỉnh Xiêng Khoảng.
Lịch sử
Xưa kia người Ơ Đu cư trú suốt hai bên bờ
sông Nậm Mộ, Nậm Nơn, nhưng do nhiều biến cố lịch sử, họ phải dời đi nơi khác
hoặc ở lẫn vào các dân tộc khác. Hiện nay họ sống rải rác trong nhiều bản vùng
sâu vùng xa thuộc huyện Tương Dương, tập trung ở hai bản Kim Hòa, Xốp Pột (xã
Kim Đa) và một số cư trú lẻ tẻ ở các bản các xã kế cận, thuộc huyện Tương
Dương, tỉnh Nghệ An.
Ngôn ngữ và văn hóa
Tiếng Ơ Đu thuộc ngữ chi Khơ Mú của ngữ tộc
Môn-Khmer. Nhưng hiện nay người Ơ Đu chỉ còn giữ được ý thức tự giác về tộc người,
còn ngôn ngữ thì hầu như đã mất (chỉ còn một vài người biết tiếng mẹ đẻ). Họ sử
dụng thông thạo tiếng Thái và tiếng Khơ Mú hoặc biết thêm tiếng Việt. Bản sắc
văn hóa của người Ơ Đu mờ nhạt vì chịu ảnh hưởng củangười Thái và người Khơ Mú.
Trong lần tổng điều tra dân số toàn quốc năm 1989, nhiều người Ơ Đu tự khai là
người Thái hay người Khơ Mú.
Trang phục không có đặc tính tộc Ơ Đu mà
chịu ảnh hưởng khá mạnh mẽ của cư dân Việt - Mường và Thái.
Người Ơ Đu có lịch tính năm riêng, tiếng sấm
đầu xuân cũng là thời điểm bắt đầu năm mới.
Họ quan niệm người có hồn, khi chết, hồn
biến thành ma, ma nhà chi phối mọi hoạt động của người sống trong nhà.
Cho đến nay, chỉ có 1 người tốt nghiệp đại
học (từ năm 1981): đó là anh Lô Kim Trọng ở bản Kim Hòa, xã Kim Đa, Tương
Dương, Nghệ An, làm hiệu trưởng trường trung học cơ sở Kim Đa từ năm 1999.
Đặc điểm kinh tế
Dân tộc Ơ Đu sinh sống bằng nương rẫy. Lúa
là nguồn lương thực chính, ngô, sắn, kê là lương thực phụ. Hái lượm và săn bắn
vẫn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của họ. Người dân tộc Ơ Đu
nuôi bò với số lượng không đáng kể nhằm lấy sức kéo. Gà, lợn nuôi thường để sử
dụng vào mục đích nghi lễ, cúng bái và cải thiện bữa ăn, nhất là dịp có khách.
Nghề phụ gia đình hầu như chỉ có đan lát đồ
gia dụng, gần đây đã có một số gia đình có khung dệt vải.
Hôn
nhân gia đình
Người Ơ Đu sống trong gia đình nhỏ,
trong hôn nhân có tục ở rể, sau một thời gian chàng rể mới đưa vợ, con về nhà
mình. Cũng giống như người Đan Lai
(thuộc dân tộc Thổ), người Ơ Đu có tục đẻ ngồi tại góc nhà.
Xưa kia người dân tộc Ơ Đu không có tên họ,
nay lấy tên họ giống của người Lào hoặc Thái, chẳng hạn như các họ Lò Khăm, Lò
May, Lò Văn.
Nhà cửa
Họ còn bảo lưu một số nét văn hóa... như
kiểu nhà đầu quay vào núi hay đôi được gọi là dinh luông tặng mà khi dựng cột
phải theo một thứ tự nhất định.
Thanh Thư (trích Bách khoa toàn thư)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét