Tên
tự gọi: M'nông.
Nhóm
địa phương: Mnông Gar, Mnông Nông, Mnông Chil, Mnông Kuênh, Mnông Rlâm, Mnông
Preh, Mnông Prâng, Mnông Ðíp, Mnông Bhiêt, Mnông Sitô, Mnông Bu Ðâng, Mnông Bu
Nor, Mnông Bu Ðêh...
Dân
số: 104.312 người.
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ
Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử: Người Mnông là cư dân sinh tụ lâu
đời ở miền trung Tây Nguyên nước ta.
Hoạt động sản xuất: Người Mnông trồng lúa
nương trên rẫy bằng phương pháp "đao canh hoả chủng": phát, đốt rồi
chọc lỗ tra hạt; thu hoạch theo lối tuốt lúa bằng tay. Họ trồng lúa nước bằng
phương pháp "đao canh thuỷ nậu" trên những vùng đầm lầy, dùng trâu để
quần ruộng cho nhão đất rồi gieo hạt, không cấy mạ như ở đồng bằng. Ðiều đáng lưu
ý là vai trò của cái cuốc trong nền nông nghiệp cổ truyền Mnông. Ði đôi với nền
sản xuất nông phẩm, việc săn bắn, hái lượm còn giữ vai trò quan trọng trong cuộc
sống hàng ngày.
Sản xuất thủ công nghiệp gia đình phổ biến
là nghề đan đồ gia dụng bằng nguyên liệu mây, tre, lá; thứ đến là nghề trồng
bông dệt vải do phụ nữ đảm nhiệm. Trong mỗi làng còn có một số người biết làm gốm
thô, nặn bằng tay và nung lộ thiên. Sản phẩm là nồi đất các loại, bát ăn cơm và
vò, hũ. Nghề rèn nông cụ không được phát triển lắm trong các vùng Mnông. Ðặc biệt
ở vùng Buôn Ðôn, cư dân có nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng rất nổi tiếng.
Cho đến nay nghề này vẫn được tiếp tục duy trì tuy số voi săn bắt được hàng năm
đã giảm đi đáng kể.
Ăn: Họ ăn cơm gạo tẻ nấu trong những nồi đất
nung, xa xưa thì phổ biến là cơm lam (gạo nếp nấu trong ống nứa). Bữa ăn trưa ở
trên ruộng rẫy thường là món cháo chua đựng trong những trái bầu khô. Thức ăn
chủ yếu là muối ớt, canh rau rừng, thịt chim, thú và cá suối bắt được. Việc
chăn nuôi gia súc, gia cầm không phát triển. Rau củ được trồng trên rẫy để bổ
sung cho nguồn thức ăn do hái lượm đem lại. Thức uống phổ biến là rượu cần.
Mặc: Về mùa nóng, đàn ông xưa kia thường
đóng khố ở trần; còn đàn bà thì quấn váy tấm và cũng ở trần. Về mùa lạnh, họ
khoác thêm trên mình một tấm mền, kiểu phục sức rất phổ biến ở Trường Sơn - Tây
Nguyên. Hiện nay trong trang phục Mnông đã tiếp thu nhiều yếu tố Việt. Tập quán
"cà răng căng tai" phổ biến trong xã hội cổ truyền, đến nay chỉ còn lại
dấu ấn ở lứa tuổi những người cao niên.
Ở: Hiện nay người Mnông cư trú tập trung
theo nhóm địa phương, chủ yếu ở các huyện: Lắc, Mdrắc, Ðắc Nông, Ðắc Mil, Krông
Pách, Ea Súp, Buôn Ðôn... thuộc tỉnh Ðắc Lắc; một bộ phận cư trú ở phía bắc tỉnh
Sông Bé và tây nam tỉnh Lâm Ðồng; địa bàn phân bố về phía tây đến tận miền đông
Cam-pu-chia, giáp ranh với biên giới nước ta. Tuỳ theo vùng và từng nhóm địa
phương mà họ xây cất nhà trệt hoặc nhà sàn. Nhà trệt có mái tranh gần sát đất
và nền đất là mặt bằng sinh hoạt, rất phổ biến ở nhóm Mnông Gar, Mnông Preh,
Mnông Prâng... Còn nhà sàn thường là sàn thấp, chỉ cách mặt đất khoảng 0m70 đến1m00
và phổ biến ở nhóm Mnông Kuênh, Mnông Chil, Mnông Bhiêt... Riêng nhóm Mnông
Rlâm ở vùng hồ Lắc xây cất nhà sàn cao theo kiến trúc của người £ Ðê. Dù là nhà
sàn hay nhà trệt thì mái vẫn là cỏ tranh: khung và sườn nhà được kết hợp 2 loại
nguyên liệu là tre nứa và gỗ cây... Các bộ phận được liên kết bằng chạc, ngoãm,
dây mây và dây rừng.
Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi
cõng trên lưng nhờ có 2 quai quàng qua đôi vai. Việc vận chuyển bằng voi là
phương thức đặc biệt được chú trọng ở vùng người Mnông. Việc đi lại, vận chuyển
trên sông, hồ có thuyền độc mộc.
Quan hệ xã hội: Ðơn vị cư trú cơ bản gọi
là bon hay uôn, tương ứng với làng, xóm. Các gia đình trong làng có quan hệ
láng giềng, quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân. Làng nhỏ có độ mươi nóc
nhà, làng lớn có khi tập trung đến vài chục nóc. Quan hệ huyết thống ở đây tính
theo dòng họ mẹ. Dấu vết của chế độ mẫu hệ còn rất đậm nét trong mọi quan hệ xã
hội hiện nay. Song tập quán mẫu hệ đã và đang tan rã ở nhiều thang bậc khác
nhau theo từng nhóm địa phương.
Trong xã hội cổ truyền người đứng đầu mỗi
làng gọi là Rnút hay Kroanh bon, bên cạnh có người phụ tá gọi là Rnoi, Rnớp.
Khi cần chiến đấu thì cử ra một chức sắc gọi là Né tăm lăm lở làm thủ lĩnh quân
sự. Xã hội Mnông vận hành theo tập quán pháp và Tập quán pháp ca được truyền khẩu
qua các thế hệ để làm chuẩn mực cho mọi ứng xử trong đời sống.
Cưới xin: Phụ nữ thường chủ động hơn trong
việc hôn nhân. Lễ cưới do 2 bên cùng tổ chức. Sau hôn nhân phổ biến là cư trú
phía nhà gái. Ở nhiều nhóm địa phương lại phổ biến hình thức luân cư song
phương. Con sinh ra đều mang họ mẹ. Trong tập quán cưới xin có 3 nghi lễ là Sa
ur, Tâm ốp và Tám nsông tương ứng với lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ thành hôn. Chế
độ một vợ một chồng là quy tắc chặt chẽ trong quan hệ hôn nhân. Luật tục Mnông
phạt vạ rất nghiêm khắc với tội loạn luân và ngoại tình.
Ma chay: Khi có người chết, cả làng nghỉ
việc đồng áng để cùng lo mai táng, ma chay. Thi hài được quàn tại nhà khoảng 2
ngày đối với người chết già, chết vì bệnh tật. Họ rất kinh hãi và chối bỏ việc
ma chay đối với mọi cái chết do tai nạn gây nên (chết đuối, ngã cây, rắn cắn, hổ
vồ... và chết do chiến tranh, đâm chém). Những cái chết "bất đắc kỳ tử"
như vừa nêu thì thi hài không được đem vào nhà mà phải mai táng tức khắc một
cách thầm lặng. Thổ táng là hình thức duy nhất trong việc tang ma, không có tập
quán cải táng. Mọi người chết đều được chia tài sản để mang về "lập nghiệp"
ở thế giới của ông bà gọi là Phan.
Nhà mới: Khi một ngôi nhà được xây cất
hoàn tất thì lễ khánh thành để vào nhà mới sẽ được tổ chức linh đình bằng một
ngày tiệc mặn cúng hiến sinh heo. Sau bữa ăn rồi mới đến tiệc rượu cần rất rôm
rả trong tiếng nhạc cồng chiêng.
Lễ tết: Lễ hội đâm trâu là lễ hội cổ truyền
được coi trọng nhất. Kết thúc mùa thu hoạch lúa hàng năm, mỗi làng đều tổ chức
tết ăn mừng cơm mới, tạ ơn trời đất và thần lúa. Trâu được hiến sinh trong hội
lễ tưng bừng để chuẩn bị cho một mùa vụ mới tràn đầy hy vọng.
Lịch:
Nông lịch cổ truyền Mnông tính theo lịch âm, dựa vào quy trình canh tác rẫy. Mỗi
năm cũng có 12 tháng, mỗi tháng có từ 29 đến 30 ngày.
Học:
Trong xã hội cổ truyền Mnông chưa có
chữ viết, chỉ có văn chương truyền miệng. Việc giáo dục, học tập được thực hiện
bằng phương pháp chỉ dẫn trực tiếp, làm mẫu noi theo, bắt chước. Thập kỷ gần
đây mới xuất hiện chữ viết nhưng sự phổ biến rộng rãi đang vấp phải không ít trở
ngại.
Văn nghệ: Kho tàng truyện cổ, đặc biệt là
sử thi và tập quán pháp ca tiềm ẩn nhiều giá trị, đã và đang được khai thác giới
thiệu. Tục ngữ, ca dao, dân ca rất phong phú. Nhạc cụ có cồng chiêng, kèn bầu,
kèn sừng trâu, kèn môi, đàn độc huyền, đàn 8 dây, sáo dọc. Ðặc biệt là vỏ trái
bầu khô được sử dụng một cách phổ biến để tạo nên bộ phận khuếch đại âm thanh
trong nhiều nhạc cụ bằng tre, nứa. Người ta đã tìm thấy ở vùng cư trú của người
Mnông bộ đàn đá nguyên thuỷ nổi tiếng từ giữa thế kỷ XX.
Chơi: Trẻ em thường thích chơi diều, đánh
cù, bịt mắt bắt dê, chạy, nhảy...
Hoàng
Thoại (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét