Tập quán liên quan đến sinh đẻ của người Nùng (Phương Lan)

Phụ nữ Nùng.

"Người Nùng thuộc ngữ hệ Thái Kađai, nhóm ngôn ngữ Thái, cư trú chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang... Đời sống văn hoá, phong tục tập quán của đồng bào rất đa dạng, phong phú. Chỉ tìm hiểu qua tập quán liên quan đến việc sinh đẻ của người Nùng cũng có thể cảm nhận được điều đó."

Nghi lễ hát then độc đáo của dân tộc Nùng (Tô Tuấn)

Hát then ( còn gọi là Lẩu then) là thể loại ca nhạc tín ngưỡng lâu đời của người Nùng. Nghi lễ hát then không chỉ thể hiện đời sống tâm linh phong phú, mà còn là sinh hoạt văn hoá văn nghệ độc đáo. 

Theo tập tục từ xa xưa, mỗi khi trong cuộc sống gặp hiện tượng lạ không thể lý giải được đồng bào dân tộc Nùng thường tổ chức lễ cầu cúng, cầu mong cho gia đình được bình yên, may mắn, khỏe mạnh, làm ăn thuận lợi.

Lễ cưới người Nùng (Lý Thị Ninh)

Lễi người Nùng là một nghi lễ của đồng bào dân tộc thiểu số Nùng
Lễ so tuổi
Nhà trai mang sang nhà gái một đôi hạt cau khô để xin lá số của cô gái. Sau một tháng nếu nhà gái không trả lại đôi hạt cau thì coi như nhà gái đã ưng thuận, nhà trai sẽ đến hỏi lần thứ hai để hai gia đình định ngày đính hôn và thỏa thuận sính lễ.

Dân ca Nùng - những nét độc đáo (Ngô Thị Việt Anh)

Các nghệ nhân thể hiện lại cảnh hát sli chào hỏi trong lễ cưới

Kho tàng văn hóa nghệ thuật của đồng bào Nùng tương đối phong phú và độc đáo, trong đó phải kể tới những làn điệu dân ca Nùng. Chưa có một người nào và chưa có một công trình nghiên cứu nào điều tra, thống kê, nghiên cứu và sưu tầm được đầy đủ về dân ca của đồng bào Nùng. Tuy vậy, nói đến dân ca Nùng là nói đến một sự phong phú về thể loại, làn điệu, và nội dung phản ánh: làn điệu ru, làn điệu đồng dao, làn điệu then, mo, sliên, tào..., đặc biệt là sli, lượn  và cỏ lảu.

Cuốn theo làn điệu dân ca Nùng Dín (Đức Toàn)

Các đôi nam - nữ hát đối.

- Khi ngô, thóc đã đầy bồ, hoa đào đua nhau khoe sắc, cũng là lúc người dân tộc Nùng Dín huyện Mường Khương, sống ven dòng sông Chảy lại nhộn nhịp cùng nhau tập lại những làn điệu dân ca để chuẩn bị đi hội, chơi xuân.

Văn hóa đặc trưng của dân tộc Nùng (Hoàng Minh Thắng)

Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái của hệ ngôn ngữ Thái - Kadai, sống tập trung ở các tỉnh đông bắc Bắc bộ (Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Giang,Tuyên Quang, Hà Giang) dân tộc Nùng có nhiều phân hệ với các tên gọi như Nùng Xuồng, Nùng Giang, Nùng An, Nùng Lòi, Nùng Phàn Sình, Nùng Cháo, Nùng Inh, Nùng Quy Rịn, Nùng Dín. Hiện nay dân số của dân tộc Nùng khoảng gần 900.000 người.

Tục báo hiếu cha mẹ vợ tháng vu lan dân tộc Tày, Nùng tỉnh Cao Bằng (Đàm Minh Phượng)

Những người phụ nữ cùng chồng mang cỗ về biếu nhà ngoại trong ngày tết Vu lan.

Dịp rằm tháng 7 âm lịch, đồng bào dân tộc Tày, Nùng tỉnh Cao Bằng luôn lưu giữ tục “pây tái” (về quê ngoại).
Đây là tục lệ đầy tính nhân văn, thể hiện lòng biết ơn, lòng hiếu thuận của con gái dành cho cha mẹ sau khi đã đi lấy chồng. Bánh gai, thịt vịt và chuẩn bị mâm cỗ cho cha mẹ ngoại cúng gia tiên là những lễ vật không thể thiếu khi vợ chồng người con gái về thăm cha mẹ đẻ.

Truyền thống cưới hỏi của người Tày-Nùng ở Cao Bằng (Kim Thoa)

Đoàn rước dâu trong đám cưới của người Tày (ảnh minh họa)

Hôn nhân của dân tộc Tày- Nùng không chỉ đơn thuần là việc kết duyên của đôi lứa mà có ý nghĩa lớn hơn là truyền thống đạo lý của dân tộc, giáo dục về nghĩa vợ chồng trong các mối quan hệ gia đình, dòng tộc, góp phần gắn kết cộng đồng, lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

Tổ then ở đất Cao Bằng (Hoàng Minh)

Nhắc tới Cao Bằng là nhắc tới cái nôi của nghệ thuật hát then.

"Then có từ bao giờ, không ai có câu trả lời chính xác. Tuy nhiên, việc phân chia then ở Cao Bằng thành hai dòng Đông - Tây lại có hẳn một sự tích về hai ông tổ then gắn với giai đoạn lịch sử khoảng 100 năm khi nhà Mạc đóng đô tại Cao Bằng."

Tín ngưỡng, thờ cúng của người Nùng ở Thái Nguyên (Lý Mạnh Thương)

"Dân tộc Nùng ở nước ta chủ yếu sống ở các tỉnh thuộc Đông Bắc, trong đó có Thái Nguyên. Thái Nguyên có nhiều nhóm Nùng có nguồn gốc từ các tình lân cận như: Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang. Người Nùng đứng vị trí thứ 3 về dân số của Thái Nguyên".

Thú vị mâm cỗ cưới người Nùng ở Cao Bằng (Lý Thị Ninh)

Đậu phụ vừa mới ra khỏi khuôn ép được cắt thành những tảng lớn.

Đám cưới người Nùng ở Hạ Lang, Cao Bằng có những món ăn ngon đặc trưng của dân tộc Nùng. Thức gì trong đám cưới hầu như cũng là của gia đình làm được.
Những nhà nào có con cái đến tuổi dựng vợ gả chồng, nếu con ở chung với bố mẹ thì ngôi nhà sẽ được nới rộng ra, căn nhà sàn cũ sẽ nối liền với căn nhà sàn mới của đôi uyên ương. Những nhà hàng xóm chung quanh đều là anh em họ hàng cả, đến dịp nhà có đám cưới sẽ sang giúp. Nếu sáng ngày mai mời khách thì đội làm bếp đã phải đến từ ngày hôm trước chuẩn bị sẵn nguyên liệu, nấu cỗ xuyên đêm.

Tảo lục - Món ăn hấp dẫn của người Tày, Nùng ở Cao Bằng (Đàm Minh Phượng)

Rêu sông, suối là một món ăn từ xa xưa được nhiều dân tộc: Tày, Nùng, Thái, Mông, Mường…, ưa thích.

Ở Cao Bằng, đồng bào Tày, Nùng vẫn thường ăn một loại tảo lục (có nơi gọi là váng hay rêu) sợi dài mọc ở các sông, suối với tên gọi là “tầu cày” và gắn với truyền thuyết “Ruộng đất mềm” (Tôm nà ón) của người Tày. Loại tảo lục này khi dùng để nấu canh, xào và nướng có mùi vị giống như mùi thịt gà, vì vậy dân gian lưu truyền câu ca: “Mười miếng thịt gà rừng” (chim trĩ) không bằng một miếng “Tầu khày pò sóc” (tảo lục).

Phong tục "Khai bươn" của người Tày - Nùng ở Cao Bằng (Hồng Mai)

Hằng năm vào dịp Tết mồng hai tháng Giêng, Rằm tháng Bảy âm lịch, vợ chồng, con cái “đi tái” ông bà ngoại.

Hiện nay ở vùng nông thôn một số huyện miền đông của tỉnh Cao Bằng vẫn còn lưu giữ tập tục “khai bươn”, tạm dịch là đầy tháng hoặc ra tháng (vì người phụ nữ ở cữ phải kỵ ở trong nhà tròn một tháng). Trước cửa nhà có người sinh con thường treo một thanh củi cháy dở (nếu là bé trai), một nhánh cây ráy (nếu là bé gái) để báo hiệu người lạ không được vào nhà.

Nhà sàn đá - nét văn hóa độc đáo của người Tày Trùng Khanh, Cao Bằng (Ngô Thị Thắm)

Nhà sàn đá của người Tày-Cao Bằng

"Huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng là nơi còn lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống của dân tộc Tày. Trong đó nền văn hóa vật chất, mà tiêu biểu là loại hình nhà sàn dựng bằng đá là nét văn hóa độc đáo và nổi trội hơn cả. Đề tài đi sâu vào nghiên cứu lịch sử gốc tích, giá trị sử dụng, nét thẩm mỹ trong kiến trúc dựng nhà, ý nghĩa về mặt xã hội và văn hóa tâm linh nhằm làm nổi bật mặt ưu việt, nét đẹp văn hóa đậm đà tính dân tộc thông qua loại hình nhà sàn dựng bằng đá, từ đó đặt ra nhiệm vụ bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể của tộc người Tày ở Trùng Khánh, Cao Bằng."

Ngày tết đi lễ thổ công của người Nùng (Đặng Thủy)

Mâm lễ của người Nùng đi cúng thổ công vào dịp tết

"Đi lễ thổ công (páy thổ) là một nét riêng và độc đáo của người dân tộc Nùng Lạng Sơn vào dịp Tết Nguyên đán hằng năm. Những gia đình sống cùng xóm thường xây dựng chung một miếu thờ thổ công. Nơi được chọn làm thổ công phải là nơi vắng vẻ, yên tĩnh và thoáng mát. Ngày mùng 2 Tết, nam giới trong gia đình sẽ ra thổ công cúng, cầu cho một năm mới yên ấm, an lành và mùa vụ bội thu."

Nét đẹp truyền thống trong đám cưới người Nùng An (Phương Mai)

Cô dâu và chú rể trong ngày cưới ở xóm Pác Rằng, xã Phúc Sen (Quảng Uyên).

Lễ cưới của người Nùng An - Cao Bằng có nhiều phong tục tập quán được lưu truyền từ đời trước sang đời sau. Ngày cưới được lựa chọn một cách thận trọng do thầy tào, thầy mo xác định. Đám cưới diễn ra từ 2 - 3 ngày: Buổi chiều hôm trước tại nhà gái và buổi chiều hôm sau tại nhà trai. Hôm trước với nghi thức làm lễ đón dâu, hôm sau với nghi thức nhập gia.

Nét đẹp trong phong tục cưới của người Nùng - Lạng Sơn (Nông Thế Học)

Cô dâu rót nước, mời trầu bố, mẹ chồng và những người có tuổi trong họ.

Mùa xuân, mùa của ngàn hoa đua nở khoe sắc, muôn cây đâm chồi nảy lộc, mùa khởi đầu cho một năm mới an khang thịnh vượng. Mùa xuân cũng là mùa của tình yêu, của hạnh phúc lứa đôi. Rất nhiều đôi bạn trẻ chọn thời điểm này để cử hành hôn lễ. Vì thế, mùa xuân còn được gọi là mùa cưới, mùa mở ra cuộc đời mới cho con người. Trong bức tranh văn hóa đa dạng, đặc sắc của hơn 50 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam, mỗi dân tộc đều có nét đẹp riêng trong phong tục cưới hỏi của mình. Ở đây xin nói tới nét đẹp trong phong tục cưới của người Nùng ở Lạng Sơn.

Nét đẹp trang phục truyền thống dân tộc thiểu số Cao Bằng (Trường Hà)

Trang phục phụ nữ dân tộc Mông.

Cao Bằng hội tụ nhiều dân tộc thiểu số, như: Tày, Nùng, Mông, Dao, Lô Lô, Sán Chỉ... sinh sống. Góp phần gìn giữ bản sắc các dân tộc là những bộ trang phục truyền thống được khâu, may, thêu thùa rất tỷ mỷ mang giá trị thẩm mỹ cao, tạo nên vẻ đẹp độc đáo, đa sắc màu văn hóa Cao Bằng.

Làng nghề truyền thống dân tộc Nùng khu vực huyện Quảng Uyên, Cao Bằng (Sầm Thị Phong)

Trải nghiệm nghề rèn cùng người dân địa phương.

            Nhân dân các dân tộc thiểu số Cao Bằng có 8 dân tộc chủ yếu, mỗi một dân tộc đều có nhiều giá trị văn hóa nghề truyền thống riêng để phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày tại địa phương. Người Tày có nghề dệt thổ cẩm, người Dao có nghề làm giấy dó, chạm bạc; người Mông có nghề dệt Lanh... Nói đến khu vực làng nghề truyền thống của Người Nùng là nhắc đến nghề làm ngói máng, nghề đan lát, nghề làm hương, giấy bản, nhuộm vải chàm, rèn nông cụ...

Bánh gai, món ngon của người Tày, Nùng Cao Bằng (Hoàng Thị Thắng)

Bánh gai là một thứ quà quê quen thuộc với nhiều người. Bánh gai Hải Dương ngon có tiếng, bánh ít lá gai Nam bộ cũng thật hấp dẫn… nhưng bánh gai của người Tày, Nùng ở Cao Bằng thì phải nói khá là đặc biệt.

Nét đẹp Tết Thanh minh của người Tày, Nùng Cao Bằng (Triệu Quốc Đạt)

Ngoài ý nghĩa tưởng nhớ người đã khuất, Tết Thanh minh còn là dịp để con cháu trong dòng họ đoàn tụ sum vầy, gắn kết tình cảm. Họ bày những mâm cỗ dài với nhiều món ăn đặc trưng rồi thắp hương mời vong linh người đã khuất về hưởng.

"Cứ dịp đầu tháng 3 âm lịch, người dân Cao Bằng lại nô nức sắm sửa mâm cỗ, vàng hương… để tổ chức Tết Thanh minh, tưởng nhớ đến tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những người đã khuất."