Lịch sử:
Khơ Mú là một trong những cư dân đã cư trú
lâu đời nhất ở miền Tây Bắc Việt Nam. Bộ phận Khơ Mú cư trú tại miền núi các tỉnh
Thanh Hoá, Nghệ An do chuyển cư từ Lào sang.
Cư trú: Sống tập trung ở các tỉnh Nghệ An,
Lai Châu, Sơn La, Thanh Hóa, Yên Bái.
Đặc điểm kinh tế:
Người Khơ Mú sống chủ yếu bằng kinh tế
nương rẫy. Cây trồng chính là ngô, khoai, sắn. Trong canh tác, đồng bào dùng
dao, rìu, gậy chọc hốc là chính. Hái lượm săn bắn giữ vị trí quan trọng, nhất
là lúc giáp hạt. Là cư dân sinh sống chủ yếu bằng canh tác nương rẫy nên được gọi
là "Xá ăn lửa". Ngoài hình thái du canh du cư là chủ yếu, bộ phận định
cư thường canh tác nương theo chu trình vòng tròn khép kín. Cây trồng ngoài lúa
ngô ra còn có bầu bí, đỗ và các loại cây có củ. Công cụ sản xuất gồm rìu, dao,
cuốc, trong đó đáng lưu ý nhất là chiếc gậy chọc lỗ. Hoặc gậy đơn hoặc gậy kép
(bịt sắt) có thể dùng nhiều năm. Hái lượm và săn bắn vẫn có vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế. Nghề phụ gia đình chủ yếu là đan lát đồ gia dụng. Một số
nơi biết thêm nghề rèn, mộc, dệt vải. Việc trao đổi, mua bán chủ yếu là hình thức
hàng đổi hàng. Vỏ ốc "kxoong" trước kia được coi như vật ngang giá.
Người Khơ Mú chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà phục vụ sức kéo và chỉ để phục vụ dịp
lễ tết, tiếp khách, tín ngưỡng.
Nghề đan lát phát triển. Đồng bào đan các
đồ dùng để vận chuyển, chứa lương thực... Nghề dệt vải không phát triển, vải để
may trang phục của họ chủ yếu là mua của người Thái.
Tổ chức cộng đồng:
Người Khơ Mú quan hệ chặt chẽ giữa những
người đồng tộc và những người láng giềng, nhất là người Thái.
Các họ của người Khơ Mú thường mang tên một
loài thú, một loài chim hay một thứ cây nào đó. Mỗi dòng họ coi thú, chim, cây ấy
là tổ tiên ban đầu của mình và họ kiêng giết thịt và ăn thịt các loại động, thực
vật này. Mỗi dòng họ có huyền thoại kể về lai lịch của tổ tiên chung, người
cùng dòng họ coi nhau là anh em ruột thịt.
Mỗi bản gồm nhiều gia đình thuộc các dòng
họ khác nhau. Mỗi họ có trưởng họ. Người dân bản trong bản đã có phân hoá giàu
nghèo. Những dòng họ người Khơ Mú đều mang tên thú, chim, cây cỏ... có thể chia
làm 3 nhóm tên họ. Nhóm tên thú gồm hổ, chồn, cầy hương... Nhóm tên chim gồm
phượng hoàng đất, chìa vôi, cuốc, bìm bịp... Nhóm tên cây gồm guột, rau đớn,
dương xỉ, tỏi ... Ngoài ra còn một số họ mang tên vật vô tri như: rọ lợn, môi
múc canh
Ma chay, thờ cúng:
Người
Khơ Mú quan niệm có 5 loại ma quan trọng nhất là: ma trời, ma đất, ma thuồng luồng,
ma tổ tiên và ma nhà. Ðó là các loại ma mang điều lành cho con người nhưng đôi
khi giận dữ có thể gây tai hoạ trừng phạt con người.
Ngoài lễ cúng mường, người Khơ Mú còn lễ
cúng bản, đặc biệt là lễ cúng ma nhà trong các dịp tết và khi con cháu trong
nhà đau ốm. Bàn thờ ma nhà đặt trên gác bếp, còn ông bà thờ ở một gian riêng
kín đáo và rất kiêng kỵ đối với người ngoài. Mỗi dòng họ vẫn duy trì tục thờ ma
dòng họ với nghi thức và các động tác mang tính đặc trưng riêng.
Ðám ma của người Khơ Mú gồm nhiều nghi thức
tín ngưỡng. Ðặc biệt bài cúng tiễn hồn người chết kéo dài hàng giờ sau đó mới
đem thi hài đi chôn.
Hôn nhân gia đình:
Ở gia đình người Khơ Mú, vợ chồng bình đẳng,
chung thủy. Người Khơ Mú có tục sau khi cưới, người con trai phải ở rể một năm,
sau đó mới đưa vợ về nhà mình. Khi ở nhà vợ, người chồng đổi họ theo vợ, còn nếu
có con thì con theo họ mẹ, trái lại khi về nhà chồng thì vợ phải đổi họ theo chồng
và các con lại mang họ bố. Người cùng dòng họ không được lấy nhau, nhưng con
trai cô được lấy con gái cậu. Trong việc dựng vợ gả chồng và trong cuộc sống
gia đình, vai trò của người cậu đối với các cháu rất quan trọng.
Văn hóa:
Dân tộc Khơ Mú có vốn truyền thống văn hóa
lâu đời, phong phú. Tuy cuộc sống vật chất còn nghèo, nhưng cuộc sống tinh thần,
các lễ hội dân gian khá dồi dào và luôn được đồng bào tham gia đông đảo. Nhị là
nhạc cụ được ưa thích hơn cả. Làn điệu dân ca quen thuộc nhiều người ưa thích
là Tơm. Làn điệu này mang đậm tính sử thi, trữ tình. Cách hát theo kiểu đối
đáp. Người Khơ Mú thích xoè, múa, thổi các loại sáo, các bộ gõ bằng tre, nứa tự
tạo, đặc biệt là thổi kèn môi.
Nhà cửa:
Đến nay ở nhiều vùng người Khơ Mú vẫn còn
du canh du cư. Làng bản của họ thường cách xa nhau, nhỏ bé, ít dân. Nhà cửa phần
lớn làm sơ sài, đồ dùng trong nhà cũng ít ỏi. Nhà sàn chủ yếu dùng cột không
ngoãm, vách phên, sàn bương. Hiện nay nhiều nơi đã làm nhà khang trang, vững
chãi hơn
Lên nhà mới là dịp vui của gia đình và cả
bản. Chủ nhà thường mổ lợn thiết đãi bà con xóm giềng. Ðây là dịp dân bản trình
diễn các sinh hoạt văn nghệ có tính cộng đồng.
Trang phục:
Người Khơ Mú không phát triển nghề dệt vải,
nên thường mua quần áo, váy của người Thái để mặc. Nếu nhìn vào trong phục của
người Khơ Mú hầu như ta không nhận thấy gì nét riêng biệt của dân tộc này, bởi
hầu như đã bị pha trộn, tuy chỉ ở đồ trang sức có đôi điểm riêng biệt là cách
trang trí những hàng tiền bạc và vỏ ốc ở phía thân áo của phụ nữ., nhưng số này
không nhiều, mà chỉ còn thấy ở những người cao tuổi, Ngày nay, phần lớn người Khơ Mú, nhất là nam
giới đều ăn mặc theo người Việt
Ăn:
Người Khơ Mú thường đồ xôi hay đồ ngô, độn
sắn. Họ thích ăn những món có vị cay, chua, đắng, các thức ăn nướng có mùi như
chẻo, nậm pịa, cá chua...
Phương tiện vận chuyển:
Cơ bản là gùi có dây đeo trên trán, có ách
và các loại túi đeo, bộ phận người Khơ Mú làm ruộng dùng thêm sọt gánh.
Cưới xin:
Hôn nhân theo nguyên tắc thuận chiếu, đặc
biệt trong phạm vi một dòng họ. Trong hôn nhân, nhiều tàn dư mẫu hệ còn tồn tại
như tục ở rể, chồng mang họ vợ, hôn nhân anh em vợ, chị em chồng... Ðám cưới được
tiến hành qua các khâu dạm hỏi, ở rể, lễ cưới ở bên nhà vợ và lễ đón dâu...
Trai gái được tự do tìm hiểu nhưng quyền quyết định do bố mẹ, đặc biệt là ông cậu.
Ông cậu là người có ý kiến quyết định tiền thách cưới, đồ sính lễ.
Lễ tết:
Ngoài tết Nguyên đán ra, người Khơ Mú còn
ăn tết cơm mới. Tết được tổ chức sau vụ gặt tháng 10 âm lịch. Ðây là dịp vui của
cả bản sau một thời gian lao động mệt nhọc. Tết cơm mới của người Khơ Mú thể hiện
hiện sắc thái văn hoá tộc người đậm nét. Họ còn duy trì nhiều nghi lễ liên quan
đến nông nghiệp, trồng trọt.
Thờ cúng:
Người Khơ Mú quan niệm có 5 loại ma quan
trọng nhất là: ma trời, ma đất, ma thuồng luồng, ma tổ tiên và ma nhà. Ðó là
các loại ma mang điều lành cho con người nhưng đôi khi giận dữ có thể gây tai
hoạ trừng phạt con người.
Ngoài lễ cúng mường, người Khơ Mú còn lễ
cúng bản, đặc biệt là lễ cúng ma nhà trong các dịp tết và khi con cháu trong
nhà đau ốm. Bàn thờ ma nhà đặt trên gác bếp, còn ông bà thờ ở một gian riêng
kín đáo và rất kiêng kỵ đối với người ngoài. Mỗi dòng họ vẫn duy trì tục thờ ma
dòng họ với nghi thức và các động tác mang tính đặc trưng riêng.
Lịch
Ngoài theo lịch Thái, người Khơ Mú phổ biến
cách tính ngày giờ căn cứ theo bảng cà la để vận dụng trong việc dựng nhà, cưới
gả...
Học:
Nhiều người biết đọc, viết chữ Thái.
Văn nghệ:
Làn điệu dân ca quen thuộc nhiều người ưa
thích là Tơm. Làn điệu này mang đậm tính sử thi, trữ tình. Cách hát theo kiểu đối
đáp. Người Khơ Mú thích xoè, múa, thổi các loại sáo, các bộ gõ bằng tre, nứa tự
tạo, đặc biệt là thổi kèn môi.
Chơi:
Trong các ngày lễ tết, trẻ em hay đánh cầu
lông làm bằng lông gà, đánh quay và các trò chơi dân gian khác.
Minh Thư (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét