Cho đến nay, theo sự hiểu
biết của chúng tôi, chưa có một công trình dạng sách nào nói về ca dao của người
Tà một cách độc lập. Mà chỉ qua một số bài nghiên cứu nhỏ trên các báo và tạp
chí ở địa phương, trung ương (1).
Đứng trước thực trạng
đó, trong những năm qua, bằng sự cố gắng và sự nhiệt tình, chúng tôi đã tiến
hành công việc sưu tầm, biên soạn ca dao của người Tà ôi trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế và vùng lân cận Quảng Trị. Càng đi sâu vào công việc chúng tôi thấy
càng thú vị về một loại hình di sản văn hóa phi vật thể dần như bị lãng quên,
phai nhạt.
Nếu như so với các dân
tộc thiểu số khác ở Việt Nam thì kho tàng ca dao, câu đố, đồng dao, tục ngữ và
trò chơi dân gian của người Tà ôi còn ít cả về số lượng lẫn nội dung. Chính vì
điều đó mà công việc giới thiệu bộ phận di sản văn hóa tinh thần của người Tà
ôi càng trở nên bức thiết hơn.
Một đặc tính rõ nét nhất
của người Tà ôi là “Cho dù ngày cũ thiếu cơm, thiếu chữ, nhưng mọi thế
hệ nối tiếp nhau qua đi vẫn trân trọng gìn giữ bản sắc phong phú độc đáo của
mình thể hiện trong nền văn hóa văn nghệ dân gian đa dạng, hồn nhiên khỏe mạnh
giàu tính chiến đấu và giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc”(2). Chính
những truyền thống tốt đẹp đó mà ngày hôm nay thế hệ trẻ Tà ôi vẫn còn nghe được,
xem được những câu ca dao, câu đố, đồng dao, tục ngữ và trò chơi dân gian đầy
tính triết lí và nhân bản sâu xa.
Người Tà ôi gọi ca dao
là Parnai tavear hoặc Pracăm nghĩa là những hát lối, thể loại này có một vị trí
rất quan trọng trong sự hình thành nền văn hóa bản địa. Ca dao Tà ôi có lối thể
hiện bằng các ngôn từ đằm thắm nhằm gửi gắm những tâm sự, tình cảm, nguyện vọng
của mình qua các nội dung: Tình yêu đôi lứa; Than thân; Gia đình, quê hương, đất
nước, con người; Phê phán thói hư tật xấu.
Cũng giống như ca dao
người Việt hay ca dao của các dân tộc thiểu số anh em khác, ca dao về tình yêu
đôi lứa của người Tà ôi cho chúng ta thấy được những bước đi, những tình huống
thường gặp trong tình yêu. Đó là những giây phút lưu luyến trong tình yêu:
Da diết tưởng như lở
núi
Mỏi mòn tưởng như trôi
sông.
Hoặc:
Người sao khỏe mạnh
phi thường
Để tình em muốn
thương.
Đối với người phụ nữ
Tà ôi, khi yêu họ không thích người con trai hứa hẹn bằng lời vì họ sợ lời nói
như gió thoảng mây trôi. Mà ngược lại họ mong có một vật gì đó làm chứng hoặc
người con trai có thể làm một công việc gì đó có ích cho nhà gái là được:
Em không thích hứa bằng
lời
Em không thích hẹn bằng
miệng.
Khi đã yêu nhau rồi
thì:
Yêu nhau quên cả mưa dầm
Yêu nhau quên cả đường
về nhà Rông.
Trong tình yêu, trai
gái Tà ôi thường có những lời hẹn ước sâu lắng, trữ tình nhưng lại rất chân thật:
Lời hẹn hai ta ở núi
đá chênh vênh
Lời hẹn hai ta ở gốc
cây ba nhánh.
Họ cũng có những lời
thề thốt:
Đôi ta đã trao mật gửi
gan
Đôi ta không nỡ bỏ,
không đành rời nhau.
Tình yêu của họ cũng
có thể vượt qua được những rào cản, định kiến xã hội, giàu nghèo, xấu xí, mồ
côi, bệnh tật...
Thương nhau quấn quýt
như sợi dây xe
Mười người lôi không đứt,
mười người bứt không rời.
Để rồi mong được gặp gỡ,
được ở bên nhau vĩnh viễn:
Chân như có gai, muốn
chạy lên thượng nguồn tìm em
Lòng như có lửa, cứ muốn
đến thượng nguồn gặp em.
Những câu ca dao trong
tình yêu đôi lứa có những hình ảnh mới, đậm chất Tà ôi như:
Mặc dù em bé nhỏ nhưng
anh vẫn thích
Mặc dù nghèo khó nhưng
hợp lòng hợp dạ
Mặc dù xấu xí nhưng tốt
bụng
Mặc dù cha mẹ ngăn cấm
nhưng mình vẫn quyết lấy nhau.
Hoặc:
Cồng chiêng anh đã sắm
đủ,
Bạc tiền anh đã sẵn
sàng.
Nếu như ở phần tình
yêu đôi lứa đầy những câu mật ngọt, luyến lưu, nhớ nhung thì ở phần ca dao than
thân lại mang một sắc thái khác. Ca dao mang chủ đề than thân của
người Tà ôi sẽ là than cho cảnh góa bụa, lẻ loi, tăm tối của những kiếp người,
cảnh đời, số phận, ví như:
Thương cảnh chúng ta tăm tối,
Cảm phận chúng ta lẻ loi.
Hoặc:
Thân phận nghèo hèn mặc người
ta đánh đập,
Phận nghèo hèn mặc người ta
dọa giẫm.
Có đi sâu vào từng câu ca
dao mới thấy hết những nỗi nhọc nhằn của tầng lớp dưới, đó là sự khinh miệt,
nghèo hèn, tục lệ quá ư hà khắc, đói khổ và bệnh tật:
Tục lệ quá ư hà khắc,
Kẻ thù quá ư bóc lột.
Hoặc:
Chúng tôi đây như một bó củi
mót,
Chúng tôi đây như một cụm cuốc
rựa.
Nhân vật được nêu trong các
câu ca dao than thân thường là: phụ nữ, góa bụa, người nghèo, trẻ em, người xấu
xí, người già...họ than thân để mong được sẻ chia, thông cảm, than thân để được
cứu giúp, họ ước mong sao có một cuộc sống ấm no và hạnh phúc.
Trong môi trường sống của
người Tà ôi, do khung cảnh núi rừng, sông suối hùng vĩ nên đã tạo cho người Tà
ôi tính phóng khoáng. Gia đình, người thân, bản làng của họ luôn là đề tài muôn
thuở và họ đã gửi gắm vào những câu ca dao thuộc chủ đề gia đình, quê hương, đất
nước, con người. Nội dung của những câu ca dao này đều khẳng định một gia đình
hạnh phúc là điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất:
Anh về coi sóc rẫy
vườn,
Anh về nở rộ chiếc
vòng đeo tay.
Trong gia đình còn
có những mối quan hệ thân ruột khác như:
Không có bố như cung nỏ
không có mũi tên,
Không có mẹ như phên vách
không được đan lát.
Hoặc:
Bố mẹ như ánh mắt soi đường,
Anh em như đôi chân, đôi tay
làm lụng yêu thương.
Hoặc trong mối quan hệ cộng
đồng làng bản:
Làm nhà thì làm chung tay
chung sức,
Kiếm được sản vật rừng thì
chia cho cộng đồng.
Dân làng tốt làm ấm lòng ấm
dạ,
Anh em tốt xua tan nỗi vất vả,
khó khăn.
Qua những câu ca dao dẫn chứng
trên cho chúng ta thấy người Tà ôi rất coi trọng trách nhiệm cộng đồng, thể hiện
rõ nét thông qua mô hình làm chung - ăn chung - ở chung để cho phù hợp với
điều kiện thực tế địa hình hiểm trở, dốc núi cheo leo, khí hậu khắc nghiệt, hệ
thống sông suối dày đặc và thói quen di canh, di cư của người dân.
Ở công việc săn bắt hái lượm cũng vậy, người
Tà ôi xưa chủ yếu tổ chức săn bắt hái lượm theo tập thể dưới sự chủ trì của
Areaih veel(3). Đối tượng tham gia thường là các trai làng, các bậc
trung niên. Người phụ nữ chỉ tham gia vào các chuyến hái lượm cây trái trong rừng
nhưng cũng rất hy hữu. Sản phẩm họ kiếm được đều được mang về làng chia đủ phần
cho tất cả tùy theo số lượng người trong mỗi hộ.
Mối quan tâm đối với sản phẩm thu được của họ
là các cụ già và trẻ con. Những đối tượng này thường được chia nhỉnh hơn, đặc
biệt khi họ đang trong cảnh ốm đau bệnh tật. Vì theo quan niệm của người Tà ôi,
các vị thần rừng, thần núi, thần sông, thần suối...dành sự ưu ái lớn nhất cho
người già và trẻ nhỏ về các sản phẩm tự nhiên mà mình đang ngự trị thông qua
bàn tay săn bắt hái lượm của đoàn người trong làng. Cho nên đoàn người lên rừng,
xuống suối luôn phải làm tròn trách nhiệm được giao phó.
Vốn sống trong sự tương thân tương ái từ ngàn
đời nay, người Tà ôi bên cạnh cùng hưởng chung sản phẩm làm ra và thu được, còn
giúp nhau trong hoạn nạn. Điều này thể hiện ở chỗ, một người nào đó một mình
vào rừng săn bắt, không may bị tai nạn, bị thú rừng chống trả hoặc bị trúng bẫy
đặt sẵn của người khác được báo tin, cả làng dang tay cứu giúp, tháo gỡ không một
chút câu nệ.
Khi nhắc đến thói hư tật xấu
thì ở cộng đồng dân tộc nào cũng có, với nhiều hạng người khác nhau. Khảo sát số
lượng câu ca dao ở mảng đề tài chúng tôi nhận thấy, người Tà ôi nêu ra những
thói hư tật xấu thường gặp trong cuộc sống, thể hiện qua những câu ca dao như:
Phê phán thói lười biếng:
Chàm àm quanh hiên
nhà,
Chềnh ềnh dưới gầm
sàn.
Phê phán những kẻ
tham ăn, tham uống mà còn lắm lời:
Hồng hộc tham ăn,
Hồng hộc tham mặc.
hoặc:
Đâu phải hồng hộc ta tham
ăn,
Đâu phải hồng hộc ta tham uống.
Phê phán lối sống trơ tráo,
lẳng lơ:
Gái hư thì cứ bẻ tay sau
lưng,
Bà góa hỏng thì cứ hứng đựng.
hoặc:
Ghê rợn đàn óc nóc,
Bẩn thỉu đàn lóc trê.
Và một điều đặc biệt là, người
Tà ôi cũng giống như người Việt, họ đề cao công lao trời biển của bố mẹ nuôi nấng
con cái nên người và phê phán con cái nuôi bố mẹ trốn tránh trách nhiệm:
Bố mẹ nuôi con, êm ấm,
Con cái nuôi bố mẹ, nuôi ngẩng
mặt nhau.
Câu ca dao này của người Tà
ôi giống với câu ca dao của người Việt là:
Cha mẹ nuôi con biển hồ lai
láng
Con nuôi cha mẹ kể tháng kể
ngày.
Qua quá trình khảo tả ca dao
Tà ôi chúng tôi nhận thấy những hình ảnh có trong ca dao Tà ôi đều mang những sắc
thái riêng so với ca dao người Việt. Một điều cho chúng ta thấy rằng: ở những
nơi có địa hình, địa vật đặc thù thì ca dao Tà ôi vắng bóng con thuyền, bến nước,
cây đa mà trong khi đó họ lại đưa vào trong những câu ca dao các hình ảnh về
núi đồi, rượu, nương rẫy và cồng chiêng.
Không gian và thời gian
trong ca dao Tà ôi thường lấy cảnh núi đồi, nương rẫy, lấy thời gian buổi sáng
là chủ đạo, tiếp đến là thời gian lễ hội và thời gian khi đêm về.
Ca dao Tà ôi cùng một lúc nó
chuyển tải đến cho người thưởng thức thấy được nhiều nội dung phong phú như
tình yêu trai gái, tình cảm mẹ con, tình yêu nương rẫy, núi đồi. Tất cả đều
không nằm ngoài mục đích là hướng mọi người sống chan hòa với vạn vật và thời
gian. Trong một chừng mực nào đó có sự tương đồng giữa nhiều câu ca dao người
Tà ôi và người Việt, hy vọng rằng đó là một đề tài mới, khi có thời gian chúng
tôi sẽ khảo cứu so sánh sâu hơn về mảng này.
Trước đây, người Tà ôi đang còn sống khép kín trong bức
rào kiên cố của hủ tục, mê tín và còn hạn chế rất nhiều về kiến thức khoa học,
đời sống kinh tế gần như lệ thuộc vào thiên nhiên và những thế lực siêu hình,
nhân dân Tà ôi bị áp bức nhiều mặt, truyền thống cần cù trong lao động không đủ
để có một đời sống kinh tế ổn định. Cho đến khi những quan hệ sản xuất, quan hệ
xã hội cũ bị phá vỡ trước những bước tiến lên của đất nước, người Tà ôi đã
nhanh chóng hội nhập với đời sống mới và điều này đã được họ gửi gắm qua những
lời nói có vần, có lớp toát lên đầy đủ những điều mà họ suy nghĩ, họ muốn nói,
căn dặn, khuyên răn. Ở trong họ có sự vui mừng, có sự căm giận, có sự cảm
thông, có tinh thần lạc quan yêu đời đều lấy ca dao để giãi bày, để quên đi nhọc
nhằn.
Tuy trước mắt vẫn còn nhiều khó khăn nhưng đồng bào Tà ôi
vẫn luôn tin tưởng thiết tha vào tương lai cuộc sống. Họ mượn các thể loại của
văn học, văn hóa dân gian để gửi gắm những niềm tin ấy.
Hoàng Thị Vinh
(sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét