Lời mở đầu
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua
quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Nền văn hóa Việt Nam đã
hình thành và không ngừng phát triển qua hàng ngàn năm, trải qua nhiều biến cố
nhưng nó ấy vẫn luôn được giữ vững và trau dồi bởi năm mươi tư dân tộc anh em với
lòng yêu nước và
tinh thần đoàn kết nhất trí.
Nếu như sự thống nhất do cùng cội nguồn đã tạo ra
bản sắc chung của văn hóa Việt Nam thì tính đa dạng của các tộc người lại làm
nên những đặc trưng bản sắc riêng của từng vùng văn hóa. Và trong bài tiểu
luận này, nhóm 1 xin được trình bày về một vùng văn hóa có lịch sử hình thành
và phát triển lâu đời nhất của Việt Nam với nhiều bản sắc riêng, đầy độc đáo:
Vùng văn hóa Tây Bắc.
Khái quát chung:
Vùng văn hóa Tây Bắc là khu vực bao gồm hệ thống núi non trùng điệp bên hữu ngạn song Hồng (lưu vực sông Đà) kéo dài tới bắc
Thanh Nghệ. Ở đây có trên 20 tộc người cư trú, văn hóa Tây Bắc đa dạng và độc
đáo chính là sản phẩm của sự kết hợp và đan xen các bản sắc riêng của hơn hai
mươi dân tộc ấy, trong đó các dân tộc Thái, H’mông, Dao có thể xem là những đại
diện tiêu biểu, góp phần quan trọng hơn cả trong việc hình thành văn hóa của
khu vực. Biểu tượng cho vùng văn hóa này là hệ thống mương phai dẫn nước
vào đồng; là nghệ thuật trang trí tinh tế trên chiếc khăn piêu Thái, chiếc
cạp váy Mường, bộ trang phục nữ H’Mông; là âm nhạc với các loại nhạc cụ bộ
hơi (khèn, sáo…) và những điệu múa xòe…
Và bây giờ, chúng ta hãy cùng
đi tìm hiểu chi tiết về vùng văn hóa này từ những khía cạnh cơ bản nhất.
Tổng quan về Tây Bắc:
Vị trí địa lí – Điều kiện tự
nhiên:
Vùng Tây Bắc là vùng miền núi
phía tây của miền bắc Việt Nam, có chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc.
Đây là một trong 3 tiểu vùng của Bắc Bộ Việt Nam, bao gồm các tỉnh: Mường Lay,
Lai Châu, Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, Yên Báí
Địa hình Tây Bắc hiểm trở, có
nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo hướng Tây BắcĐông Nam, trong đó có dãy
Hoàng Liên Sơn dài đến 180 km, rộng 30 km, cao từ 1500m trở lên, các đỉnh cao
nhất như Phanxipăng 3142m, Yam Phình 3096m, Pu Luông 2.983m. Dãy Hoàng Liên
Sơn, được người Thái gọi là "sừng trời" (Khau phạ), chính là bức tường
thành phía đông và vùng Tây Bắc.
Vùng Tây Bắc có hai con sông lớn, đó là sông Đà (tên Thái là Nặm Tè) và sông Thao (tức sông Hồng), thượng nguồn của sông Mã cũng nằm trên vùng đất Tây Bắc, phía Tây tỉnh Sơn La. Các
con sông này không chỉ là cơ sở cho sự định cư của của các dân tộc nơi đây cũng như nền nông nghiệp
trong vùng mà còn là nguồn cảm hứng cho những
câu hát và truyền thuyết của các tộc người Thái, Mường...
Sông Đà
Sông Mã
Tuy cùng nằm trong vòng đai
nhiệt đới gió mùa, nhưng do ở một độ cao từ 800-3000m nên khí hậu Tây Bắc ngả
sang á nhiệt đới và nhiều nơi cao như Sìn Hồ có cả khí hậu ôn đới. Mặt khác, do
địa hình lại chia cắt bởi các dãy núi, các dòng sông, khe suối, tạo nên những
thung lũng, có nơi lớn thành lòng chảo như vùng Nghĩa Lộ, Điện Biên nên Tây Bắc
còn là nơi có nhiều tiểu vùng khí hậu. Trong lúc đó ở thung lũng Mường La, người
ta mặc áo ngắn tay giữa mùa đông thì ở Mộc Châu phải mặc áo bông dày mà không
khỏi rét. Nhưng chính vì vậy mà thiên nhiên Tây Bắc rất đa dạng, thổ nhưỡng nhiều
loại hình. Chính điều này cũng góp phần làm nên những nét đa dạng trong văn hóa
của các dân tộc vùng Tây Bắc.
Đặc điểm kinh tế - xã hội và dân cư:
Hoạt động kinh tế của Tây Bắc
chủ yếu là nông nghiệp mà cụ thể là trồng lúa nước ở vùng thung lũng, ruộng bậc
thang ven sườn núi, các loại cây như ngô, sắn, đậu tương ở nương, rẫy,…
Người Thái có nhiều kinh nghiệm
đắp phai, đào mương, dựng con, bắc máng lấy nước làm ruộng. Lúa nước là
nguồn lương thực chính, đặc biệt là lúa nếp. Người Thái cũng làm nương để
trồng lúa, hoa màu và nhiều thứ cây khác. Từng gia đình chăn nuôi gia
súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, một số nơi làm đồ gốm... Sản
phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm, với những hoa văn độc đáo,
màu sắc rực rỡ, bền đẹp.
Đặc điểm cư trú nổi bật của đồng
bào Thái là dọc các thung lũng vùng thấp, nơi có nhiều sông suối ao hồ, chính
vì thế mà các nhà dân tộc học xếp dân tộc Thái là những cư dân đại diện cho nền
văn minh thung lũng (Valley culture). Trên thực tế, đồng bào Thái ở vùng nào
cũng tỏ ra vừa giỏi chài lưới ngoài sông ngoài suối, lại rất thạo việc đánh bắt
trong ruộng trong đồng. Nhờ vậy, bữa ăn hàng ngày của bà con được tăng cường
nguồn dinh dưỡng một cách đáng kể, do chính các hoạt động sông nước đem lại.
Nguồn sống chính của đồng bào
H’Mông là làm nương rẫy du canh, trồng ngô, trồng lúa ở một vài nơi có nương ruộng
bậc thang. Cây lương thực chính là ngô và lúa nương, lúa mạch. Ngoài ra còn trồng
lanh để lấy sợi dệt vải và trồng cây dược liệu. Chăn nuôi của gia đình người
Mông có trâu, bò, ngựa, chó, gà. Xưa kia người Mông quan niệm: Chăn nuôi là việc
của phụ nữ, kiếm thịt trong rừng là việc của đàn ông.
Lịch sử và Dân cư:
Tây Bắc là nơi sinh tụ lâu đời, ngàn năm của cư dân
văn minh đồng thau với hơn 20 tộc người cư trú xen kẽ, bao gồm các dân tộc:
Thái, Dao, H’Mông, Bố Y, Giáy, Há Nhì, Kháng, Máng, Khơ-mu, Sila, Tày, Xinh-mun, La-ha… với một lịch sử phát triển
khá lâu đời.Mật độ dân ở đây khá số thấp, năm 1978 mới có 59ng/km2.
Với tỉ lệ tăng 3,5%/năm cộng với việc di dân, đến năm 1990 cũng chỉ có 120 người/km2.
Các dân tộc tiêu biểu của vùng như: Thái, H’Mông, Dao.
Dân tộc Thái:
Tại Việt Nam, theo Tổng
điều tra dân số năm 1999, người Thái có số dân là 1.328.725 người, chiếm
1,74 % dân số cả nước, cư trú tập trung tại các tỉnh Lai
Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa
Bình, Thanh Hóa, Nghệ An. Trong đó,
tại Tây Bắc số dân cụ thể là: Sơn La có 482.485 người
(54,8 % dân số), Lai Châu cũ (nay là Lai Châu và Điện Biên) có 206.001 người
(35,1 % dân số).
Nhóm Thái Trắng (Táy Đón hay
Táy Khao) cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu, Điện Biên và một số huyện tỉnh Sơn La
(Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên). Ở Đà Bắc thuộc tỉnh Hòa Bình, có
nhóm tự nhận là Táy Đón, được gọi là Thổ. Ở xã Dương Quỳ, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào
Cai, có một số Thái Trắng chịu ảnh hưởng đậm của văn hóa Tày. Ở Sapa, Bắc
Hà, nhiều nhóm Thái Trắng đã Tày hóa. Người Thái Trắng đã có mặt dọc hữu ngạn
sông Hồng và tỉnh Lai Châu, Điện Biên từ thế kỷ 13 và làm chủ Mường
Lay (địa bàn chính là huyện Mường Chà ngày nay) thế kỷ 14, một bộ
phận di cư xuống Đà Bắc và Thanh Hóa thế kỷ 15. Có thuyết cho rằng họ là con
cháu người Bạch Y ở Trung Quốc.
Nhóm Thái Đen (Táy Đăm) cư trú
ở khu vực tỉnh Sơn La và Điện Biên. Các nhóm Tày Thanh (Man Thanh), Tày Mười,
Tày Khăng ở miền Tây Thanh Hóa(tân thanh-thường xuân-thanh hóa), Nghệ An cũng mới
từ mạn Tây Bắc chuyển xuống cách đây vài ba trăm năm và bị ảnh hưởng bởi văn
hóa và nhân chủng của cư dân địa phương và Lào. Nhóm Tày Thanh từ Mường Thanh
(Điện Biên) đi từ Lào vào Thanh Hóa và tới Nghệ An định cư cách đây hai, ba
trăm năm, nhóm này gần gũi với nhóm Thái Yên Châu (Sơn La) và chịu ảnh
hưởng văn hóa Lào.
Nhóm Thái Đỏ, gồm nhiều nhóm
khác nhau cư trú chủ yếu ở một số huyện như Mộc Châu (Sơn
La), Mai Châu (Hòa Bình)
Theo David Wyatt, trong cuốn
"Thailand: A short history", người Thái xuất xứ từ phía nam Trung Quốc,
có cùng nguồn gốc với các nhóm dân ít người bây giờ như
Choang, Tày, Nùng. Dưới sức ép của người Hán và người Việt ở phía
đông và bắc, người Thái dần di cư về phía nam và tây nam. Người Thái di cư đến
Việt Nam trong thời gian từ thế kỉ 7 đến thế kỉ 13. Trung tâm của
họ khi đó là Điện Biên Phủ (Mường Thanh).
Những lãnh tụ Thái được gọi là
phụ đạo, được phép cai quản một số lãnh địa và trở thành giai cấp quí tộc của
vùng đó, như dòng họ Đèo cai quản các châu Lai, Chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nham;
dòng họ Cầm các châu Phù Hoa, Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Luân, Ninh Biên; dòng
họ Xa cai quản châu Mộc ; dòng họ Hà cai quản châu Mai, dòng họ Bạc ở châu
Thuận ; họ Hoàng ở châu Việt...
Năm 1841, trước sự đe dọa của
người Xiêm La, triều đình nhà Nguyễn kết hợp ba châu Ninh Biên, Tuần
Giáo và Lai Châu bên bờ tả ngạn sông Mekong thành phủ Điện Biên.
Năm 1880, phó lãnh sự Auguste Pavie nhân danh triều đình Việt Nam
phong cho Đèo Văn Trị chức tri phủ cha truyền con nối tại Điện Biên.
Tháng 3-1948, lãnh thổ này được Pháp tổ chức lại thành Liên bang Thái tự trị,
qui tụ tất cả các sắc tộc nói tiếng Thái chống lại Việt Minh.
Sau chiến thắng Điện Biên
Phủ, để lấy lòng các sắc tộc thiểu số miền Bắc, Chính phủ Việt Minh thành lập Khu
tự trị Thái Mèo ngày 29 tháng 4 năm 1955, Khu tự trị Tày Nùng và
vùng tự trị Lào Hạ Yên, nhưng tất cả các khu này đều bị giải tán năm 1975.
Cũng như hầu hết các dân tộc
trong vùng, người Thái sống chân thật, giản dị và rất hòa thuận. Trong gia
đình, trong bản không bao giờ thấy người ta to tiếng với nhau. Đặc biệt không
bao giờ trẻ con bị mắng mỏ nặng lời, chứ không nói đến việc bị đánh đòn. Trẻ
con hiểu nhiệm vụ của chúng và rất tự giác thực hiện. Chúng có sai sót gì, người
lớn chỉ nhắc nhẹ. Trẻ em rất ngoan, chúng chơi đùa với nhau rất thân ái. Gặp
lúc khó khăn, đói kém người ta đến họ hàng xin lương thực. Người được hỏi xin sẵn
sàng chia sẻ số lương thực còn lại, dù biết rằng sau đó chính họ cũng sẽ lâm vào
cảnh thiếu đói và cũng phải lên rừng đào củ mài, củ bới thay cơm. Ngay bây giờ,
khi nền kinh tế thị trường đã có tác động vào đời sống cư dân Tây Bắc, thì
phong tục này vẫn được thực hiện với tấm lòng vị tha và tình nghĩa sâu đậm.
Dân tộc H’Mông:
Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc Mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Với số dân 1.068.169 người (ngày 1/4/2009), dân tộc Mông thuộc dân tộc thiểu số có số lượng cư dân đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc ở Việt Nam.
Dân tộc Mông cư trú thường ở độ cao từ 800 đến 1500 m so với mực nước biển gồm
hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo
biên giới Việt - Trung và Việt - Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An,
trong đó tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông và Tây bắc Việt Nam
như: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La...
Các tài liệu khoa học cũng như
các truyền thuyết đều cho biết rằng người Mông là tộc người di cư vào Việt Nam
sớm nhất khoảng 300 năm và muộn nhất là 100 năm về trước. Mông là tên tự gọi có
nghĩa là người (Môngz). Còn các dân tộc khác còn gọi dân tộc này với các tên
Miêu, Mèo, Mẹo. Căn cứ vào đặc điểm về dân tộc học và ngôn ngữ học,
người ta chia tộc Mông ra làm các ngành: Mông Trắng (Môngz Đơư), Mông Hoa
(Môngz Lênhx), Mông Đỏ (Môngz Si), Mông Đen (Môngz Đuz), Mông Xanh (Môngz
Njuôz), Na Miểu (Mèo nước).
Đồng bào Mông cho rằng những
người cùng dòng họ là anh em cùng tổ tiên, có thể đẻ và chết trong nhà nhau, phải
luôn luôn giúp đỡ nhau trong cuộc sống, cưu mang nhau trong nguy nan. Mỗi dòng
họ cư trú quây quần thành một cụm, có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung.
Quan hệ xã hội: Bản thường có
nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới
các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước
kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết
và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc
giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ
cúng chung thổ thần của bản.
Dân tộc Dao:
Tại Việt Nam, dân số người
Dao theo điều tra dân số năm 1999 là 620.538 người. Người Dao còn có các tên gọi
khác là: Mán, Đông, Trại, Dìu Miền, Kim Miền, Lù Gang, Làn Tẻn, Đại Bản, Tiểu Bản,
Cốc Ngáng, Cốc Mùn, Sơn Đầu v.v). Địa bàn cư trú chủ yếu của người Dao là biên
giới Việt-Trung, Việt-Lào và ở một số tỉnh trung du và ven biển Bắc bộ Việt
Nam. Cụ thể, đa phần tại các tỉnh như Hà Giang, Tuyên Quang, Lào
Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai
Châu, Hòa Bình,vv…
Theo kết quả nghiên cứu của Đề
án "Sưu tầm kiểm kê kho sách cổ người Dao" do Tiến sĩ Trần Hữu Sơn
(Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin - Thể thao Lào Cai) chủ trì có đăng tại thì:
Người Dao có nguồn gốc xa xưa ở đảo Hải Nam (Trung Quốc) gồm 7 nhóm. Người Dao ở
Việt Nam và ở Lào Cai có 3 nhóm: Dao Tuyển, Dao Nga Hoàng và Dao Làn
Tẻn (còn gọi là Dao Chàm) họ bắt đầu di cư sang Việt Nam vào thời Lê (vào khoảng
cuối thế kỷ 17). Để đến được đất Việt, sống ở vùng núi như ngày nay, người Dao
đã phải trải qua cuộc hành trình muôn phần gian khổ vượt biển, vượt núi, vượt
sông. Điều này phản ánh rõ trong nhiều phong tục, nghi lễ của người Dao và được
ghi lại rất tỉ mỉ trong sách cổ. Người Dao di cư sang Việt Nam theo nhiều đợt từ
đảo Hải Nam, qua Phòng Thành, tới Bắc Giang. Tới đây, họ di chuyển
theo các hướng khác nhau là:
Theo sông Lô tới Hà
Giang hình thành nên người Dao áo dài.
Theo sông Chảy tới Lào Cai, hậu
duệ ngày nay gọi là Dao Tuyển.
Nhóm ở lại vùng Nga Hoàng thuộc
Yên Lập, Yên Phúc một thời gian, sau đó di chuyển tới Văn Chấn (Yên
Bái), rồi Văn Bàn (Lào Cai) là tổ tiên người Dao quần chẹt ngày nay.
Văn hóa các dân tộc vùng Tây Bắc:
Văn hóa nông nghiệp:
Tuy nông nghiệp không phải là một khía cạnh văn hóa phổ biến trong mỗi tiểu vùng nhưng riêng với vùng văn hóa Tây Bắc, đây có thể coi là một
yếu tố làm nên nét văn hóa độc đáo của vùng.
Văn hóa nông nghiệp thung lũng Thái nổi tiếng vì hệ thống tưới tiêu, được gói gọn trong 4 từ văn
vần: " Mường - Phai - Lái –Lịn", lợi dụng độ dốc của dòng chảy dốc của, người ta lấy đá ngăn suối làm nước dâng cao, đó là cái
"phai". Phía trên "phai" xẻ một đường chảy lên dẫn vào cánh
đồng, đó là "mương" Từ "mương" xẻ những rãnh chảy vào ruộng,
đó là "lái". Còn "lịn" là cách lấy nước từ nguồn trên núi
cao, dẫn về ruộng, về nhà, bằng các cây tre đục rừng đục mấu, nối tiếp nhau, có
khi dài hàng cây số. Người Kinh vùng núi Phú Thọ (cũ) học theo cách làm này và
gọi chệch đi là "lần nước". Do chủ động tưới tiêu nên người Thái nuôi
cá ngay trong mực nước của ruộng lúa. Gặt lúa xong là tháo nước bắt cá. Cá nuôi
trong ruộng vừa ăn sâu bọ cỏ dại, vừa sục bùn cho tốt lúa. Cho nên, món dâng
cúng trong lễ cơm mới bao giờ cũng có xôi và cá nướng. Và món cá là biểu hiện
lòng hiếu khách :
“Đi ăn cá, về nhà uống rượu
ở thì ngủ đệm, đắp chăn ấm”
Nương rẫy là một bộ phận bổ
sung không thể thiếu với nơng, đồng bào có lúa, rau quả như bầu bí, rau cải, đậu,
đu đủ, vừng, kê, ớt,.v..v... Bông và chàm cũng trồng trên nương. Và rừng, rừng
bạt ngàn là nơi con người hái rau rừng, lấy thuốc chữa bệnh, thuốc nhuộm, săn bắt
thú rừng và khi thất bát mùa màng thì chính rừng, với củ mài, bột báng đã cứu họ
khỏi chết đói. Bản làng có một thái độ rất kính trọng với rừng. Chẳng phải vì rừng
có ma thiêng, mà vì rừng là nơi con người nương tựa để tồn tại. Luật Thái có
hàng chục điều quy định về việc khai thác rừng, săn bắn thú, đặc biệt là những
quyết định về bảo vệ rừng đầu nguồn.
Ruộng bậc thang cũng là một yếu
tố làm nên vẻ đẹp của vùng Tây Bắc. Điều này đã được hàng triệu lượt du khách tới
thăm Tây Bắc những năm qua công nhận và đã được giới thiệu, quảng bá khá đậm
nét trên hệ thống Internet và báo chí toàn cầu. Tạp chí Mỹ Travel & Leisure
đã so sánh những thửa ruộng tại Sa Pa như là “Những bậc thang dẫn lên trời”
( Ladder to the sky).
Ẩm thực:
Tây Bắc là cái nôi của các dân tộc thiểu số như Thái, Tày, Mường, Dao, Mông, Lô Lô, Hà Nhì...
Một trong những sắc thái văn hoá dân tộc độc đáo của họ là những món ăn truyền
thống nổi tiếng chỉ có ở vùng này. Người dân Tây Bắc thường thưởng thức những món ăn truyền thống
của mình trong không gian và không khí cộng đồng
như tại các lễ hội, tại các chợ và đặc biệt là vào ngày Tết nhân dịp năm mới
xuân về.
Phần lớn khẩu vị của người tây bắc là thích những gì đậm đà vì vậy
phần lớn các món ăn nổi bật của người vùng Tây Bắc đểu mang lại cho người thưởng
thức những ấn tượng rất khó quên.
Món ăn đầu tiên phải nhắc đến là đặc sản chế biến từ trâu là món canh da
trâu:
Da trâu sau khi giết được lột và thui sạch lông rồi gác trên gác bếp cho khô. Để chế biến món canh nấu với bon, người Thái lấy số da khô vừa đủ đốt cho cháy sùi ra, cạo sạch đến khi trông miếng da có màu vàng ươm, mùi thơm phức. Sau khi nướng
giòn tan, miếng da được bẻ thành từng miếng nhỏ bỏ vào nồi bon đun nhỏ lửa cho
đến nhừ. Trước khi bắc xuống người ta thêm gia vị vào nồi canh bon này. Nồi
canh bon đúng nghĩa là phải có đủ 30 loại gia vị mang hương vị núi rừng Tây Bắc
trong đó gồm những gia vị dễ nhận biết như sả, cà đắng, hạt tiêu, mắc khèn. Món
ăn bổ dưỡng nhưng đậm đà hương vị núi rừng này để lại cảm giác khó quên cho nhiều
thực khách.
Những tấm da trâu- phần không thể thiếu trong việc chế biến món canh da trâu.
RƯỢU SÂU CHÍT.
Đến với Tây Bắc sẽ là thiếu xót nếu như không thưởng thức một loại rượu ngon nổi tiếng mà người dân địa
phương gọi nôm na là rượu sâu chít.
Đây là loại rượu phổ biến nhất ở vùng phía tây bắc tổ quốc...các dân tộc như Dao, Nùng,
Tày, Thái, Giáy…đều sử dụng nó....
Về tên gọi theo như người dân địa phương thì
Thức uống này còn có tên gọi khác là Bạch trùng thảo, Đông trùng hạ thảo. Xuất
xứ của hai cái tên chữ cũng như tên gọi nôm na đều xuất phát từ một loại sâu ngâm rượu.
Chít là tên một loại sâu sống trong thân cây chít- cây bông đót, mọc hoang ở
các triền núi đá vôi nối tiếp nhau trải dài bất tận ở miền Tây Bắc. Bạch trùng
thảo là loại sâu trắng ký sinh trong loài cỏ lau. Đông trùng hạ thảo là loại
sâu mùa đông chỉ là ấu trùng ở nụ mầm cây chít, nhưng sang mùa hạ phát triển
thành sâu, chờ đợi đến ngày chui ra khỏi thân cây chít để hóa thành bướm, mở đầu
cho một vòng đời mới…
Hương vị của rượu sâu chít
không có vị tanh và cực kì đậm đà. Điểm đặc biệt của rượu sâu chít là ngâm với
rượu San Lùng, hay các loại rượu khác như Mường Khương, Bắc Hà, Mai Hạ… uống
nhiều hay ít đều không nhức đầu. Hơn thế nữa, nếu lỡ uống say, khi tỉnh dậy vẫn
thấy tinh thần sảng khoái, người khỏe ra sau một giấc ngủ dài.đó là điểm thu
hút bất kì vị khách nào khi thưởng thức nó.
CƠM LAM
Có lẽ những ai đã từng đến Tây Bắc thì không thế quên được hương vị của cơm lam, một chút nhẹ nhàng thanh thoát tinh tế khác hẳn cơm lam ở hà nội hay đâu đó. Nguời dân tộc phía bắc từ Tày, Nùng, Mường,
Dao, Thái đều làm cơm lam. Ngoài cơm lam, họ còn có cả cá lam, chim lam, rau quả
lam... Phải thừa nhận làm đồ ăn lam là một nghệ thuật tinh tế đặc biệt.
CHÉO – MÓN ĂN ĐẬM ĐÀ HƯƠNG VỊ
TÂY BẮC:
Hầu như không có bữa ăn nào quan trọng của người Thái lại thiếu được Chéo, giống
như một dạng muối vừng với người Kinh.,1 loại gia vị hấp dẫn Quả Mắc Khén sau
khi thu về, bắc chảo rang nóng. Tiếp đó, đưa vào giã thành bột mịn. Tuy nhiên để
chế ra được hương vị thơm phức, chuyên dùng ăn với xôi nếp nương, còn phải qua
nhiều công đoạn khác. Đó là dùng ớt khô bỏ hạt nướng giòn, muối rang, rau mùi tầu
xắt nhỏ rang khô, tất cả đều giã thành bột mịn. Sau khi trộn đều hỗ hợp trên
thì tạo thành Chéo, một thứ bột mùi thơm hăng hắc nhưng lại dịu như vị ô
mai và phảng phất chất núi rừng, thơm cay nồng nàn như hương hồi, quế.
Và còn rất nhiều món thú vị khác như:
Món cá nướng: Người ta dùng các loại cá bản
to như chép, mè, trôi, trắm..., loại to khoảng 1 đến 1.5kg mổ đằng lưng, bỏ ruột,
để ráo nước, sau đó xoa một lượt muối rang nổ vào bên trong cá: Mắc khén, ớt
tươi nướng, nghiền nát, hành tỏi, rau thơm rau mùi thái nhỏ, tất cả trộn đều nhồi
vào bụng cá, để một lúc cho ngấm gia vị, cá cứng; cặp dọc cá, nướng trên than hồng.
Cá chín dậy mùi thơm rất riêng, rất độc đáo.
Tục ngữ người Thái có câu:
“Pay kin pa, má kin lẩu” (đi ăn cá, về uống rượu); hàm ý bữa cơm tiễn người đi
(chia tay) thì cần phải có cá, bữa cơm đón người về (sum họp) thì cần phải có
rượu. Xem thế đủ biết những món ăn chế biến từ cá nói chung, món lạp cá nói
riêng, có vai trò nhất định trong đời sống giao tiếp của xã hội Thái. Nó mặc
nhiên đi vào vốn văn hoá dân gian, cả trong văn hoá ngôn ngữ lẫn văn hoá ẩm thực...
Món gà luộc chấm chéo tắp: (gan gà luộc chín trộn với
gia vị, tiêu gừng, muối rang nghiền nát) và bát cáy mọ. Cáy mọ là món thịt gà
tra đủ các thứ gia vị, gói lá nướng vùi tro, miếng ăn thơm mềm, béo ngậy mà
không ngấy.
Trong văn hóa ẩm thực, người
Tây bắc giản dị, không mâm cao, cỗ đầy,
không nem công, chả phượng. Người ta chú ý đến hương vị, cái chất của món ăn mà
ít chú ý đến mỹ thuật bày biện, màu sắc của món ăn. Họ xem ăn uống là dịp để thể
hiện phong cách ứng xử trong sinh hoạt cộng đồng, không lấy ăn uống làm chính
mà lấy sự vui làm trọng. Thông qua việc ăn uống, người Tây Bắc thể hiện phong
cách ứng xử trong sinh hoạt cộng đồng. Ăn uống là một cách bày tỏ tình cảm, lấy
làm nguồn vui trong cuộc sống.
Trang phục:
Dân tộc Thái:
Để tạo ra một bộ y phục Thái, không chỉ là công sức trồng bông, chăn tằm, dệt vải, nhuộm màu, cắt may, thêu, người Thái còn phải giỏi
nghề kim hoàn tạo ra các đồ trang sức đeo trên người như vòng cổ, vòng tay, hoa tai, trâm, xà tích, cúc bạc...
Khuyên tai của dân tộc Thái đen
Cũng như nhiều dân tộc khác, trang phục của phụ nữ Thái thể hiện rõ nhất bản sắc văn hóa dân tộc. Một bộ trang phục nữ Thái gồm:
áo ngắn (xửa cỏm), áo dài (xửa chái và xửa luổng), váy (xỉn), thắt lưng (xải cỏm), khăn (piêu),
nón (cúp), xà cạp (pepăn khạ), các loại hoa tai, vòng cổ, vòng tay, xà tích..
Xửa cỏm (áo ngắn bó sát người có hàng cúc bướm) có thể may bằng nhiều loại vải với
màu sắc khác nhau. Chính hàng khuy bạc hay kim loại đã làm cho xửa cỏm thành
chiếc áo đặc trưng của bộ nữ phục Thái. Theo quan niệm dân gian Thái, hai hàng
cúc bạc trên hai vạt áo xửa cỏm là tượng trưng cho sự kết hợp nam với nữ, tạo
nên sự trường tồn của nòi giống.
Phụ nữ Thái còn mặc hai loại
áo dài là xửa chái và xửa luổng. Xửa chái may bằng vải chàm đen, kiểu áo 5
thân, cài cúc phía bên tay trái, cổ đứng, gấu áo phủ quá đầu gối. Theo tục lệ,
phụ nữ có chồng mới mặc xửa chải vào dịp cưới xin, hội hè. Xửa luổng là áo
khoác ngoài, may dài, rộng, chui đầu, có tay hoặc không có tay. Phụ nữ Thái từ
khi còn trẻ đã may loại áo này, một dành cho bản thân khi về già và một dành biếu
mẹ chồng khi về làm dâu. Các cụ già mặc áo xửa luổng lộn trái vào ngày thường,
chỉ khi chết mới mặc mặt phải.
Thái Đen: Thường nhật phụ nữ Thái Đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối (chàm hoặc đen), cổ áo khác Thái Trắng là loại cổ tròn, đứng. Đầu đội khăn gọi là "piêu" thêu hoa văn nhiều mô-típ trang trí mang
phong cách từng
mường. Váy là
loại giống phụ nữ Thái Trắng đã nói ở trên. Lối để tóc kkhi có chồng búi lên đỉnh đầu gọi là "Tằng cẩu";khi chồng chết có thể búi tóc thấp xuống sau gáy ; chưa chồng không búi tóc. Trong
lễ, tết áo dài Thái Đen đa dạng với các loại xẻ nách, chui đầu, trang trí phong
phú đa dạng về màu và mô-típ hơn Thái Trắng.
Nói về bộ trang phục nữ Thái không thể thiếu chiếc khăn piêu. Chiếc khăn piêu được các cô gái Thái thêu thùa rất cầu kì, nó thể hiện sự khéo léo của mỗi cô gái. Piêu tết 3 sừng là piêu thường dùng, piêu tết 5 hay 7 sừng là piêu sang, dùng làm
quà biếu, đội lúc bản mường có hội hè, cưới xin. Khăn Piêu là đặc trưng của
người dân tộc Thái với đường nét tinh sảo và hoa văn mang đậm chất núi rừng
hoang sơ cùng màu sắc sặc sỡ, nó thể hiện tình yêu, sức mạnh nữ tính thật quyến
rũ.
chiếc khăn piêu của người thái
So với nữ thì nam phục Thái đơn giản hơn, ít chứa đựng sắc thái tộc người và cũng biến đổi nhanh hơn. Trang phục nam giới gồm: áo, quần, thắt lưng và các loại khăn.
Áo nam giới có hai loại, áo cánh ngắn và áo dài. Áo ngắn may bằng vải chàm, kiểu xẻ ngực, tay dài hoặc ngắn, cổ tròn. Khuy áo làm bằng đồng hay tết thành nút vải. Áo không có trang trí hoa văn chỉ trong dịp trang trọng người ta mới thấy nam giới Thái mặc tấm áo cánh ngắn mới, lấp ló đôi quả chì (mak may) ở đầu đường xẻ tà hai bên hông áo...
Áo nam giới có hai loại, áo cánh ngắn và áo dài. Áo ngắn may bằng vải chàm, kiểu xẻ ngực, tay dài hoặc ngắn, cổ tròn. Khuy áo làm bằng đồng hay tết thành nút vải. Áo không có trang trí hoa văn chỉ trong dịp trang trọng người ta mới thấy nam giới Thái mặc tấm áo cánh ngắn mới, lấp ló đôi quả chì (mak may) ở đầu đường xẻ tà hai bên hông áo...
Trang phục Thái phản ánh rõ nét đặc điểm của cư dân nông nghiệp trồng trọt, sự chinh phục, tìm tòi các nguyên liệu trong thiên nhiên để tạo ra trang phục đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống. Trang phục vượt qua cả giá trị vật chất thuần túy của nó thể hiện lối sống, quan niệm thẩm mỹ, đạo đức, tư tưởng xã hội, tín ngưỡng... Trang phục là sự phát triển rất cao của trình độ
thẩm mỹ dân gian, các hoa văn được tạo hình độc đáo, xử lý màu sắc tinh tế, hài
hòa mang đặc trưng tộc người khiến trang phục người Thái ở bất cứ nơi đâu cũng
có vẻ đẹp riêng. Nó phản ánh mối quan hệ hài hòa giữa con người và thiên nhiên,
đồng bào Thái nơi đây đã đưa vào trang phục của mình những hoa văn là cả một thế
giới động, thực vật phong phú. Do xen kẽ của các nhóm Thái khác nhau mà trang
phục của họ phần nào cũng thể hiện ảnh hưởng của nhau. Nhưng tất cả họ đều rất
tự hào về bản sắc riêng của mình và không ngừng bảo tồn, phát huy, phát triển
những giá trị văn hóa truyền thống tộc người. Góp phần xây dựng nền văn hóa Việt
Nam Tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Dân tộc Dao:
So với các dân tộc khác thì dân tộc Dao được coi là còn giữ được nhiều nét bản sắc của mình với chất liệu bằng vải bông nhuộm chàm, màu xanh, đỏ, đen, tím than hoặc để trắng. Tộc người Dao đỏ đội khăn đỏ, đeo những bông hoa đỏ trước ngực; Dao quần chẹt mặc quần ống hẹp bó sát vào chân; Dao quần trắng nổi bật là yếm rất to che kín cả ngực và bụng, ngày cưới cô dâu mặc quần trắng; Dao làn tuyển mặc áo dài, đội
mũ nhỏ...
Một bộ trang phục hoàn chỉnh của
người Dao gồm: Áo, yếm, xà cạp, cùng đồ trang sức vàng bạc, khăn vấn đầu... Duy
nhất trong cộng đồng người Dao chỉ có người Dao Tiền là mặc váy (váy của người
Dao Tiền phía bắc dài hơn váy của người Dao Tiền phía nam). Áo của người Dao Tiền
gồm hai thân trước, nẹp và một xỏ tà. Thường trên đó họ dùng họa tiết hình gấu,
chó. Đây cũng là ý niệm xa xưa gián tiếp nhớ về thủy tổ của dân tộc Dao. Ở đó
có hình Bàn Vương, con chó ngũ sắc - đã có công giết giặc được vua gả công chúa
cho sinh con đẻ cái, trở thành dân tộc Dao ngày nay, áo thường có bộ khuy quý bằng
bạc hình tròn chạm khắc tinh vi. Cổ áo của người phụ nữ Dao được trang trí bằng
núm bông hoa đỏ như nắm tay nổi bật trên nền áo chàm xanh đằm thắm.
Yếm của người Dao khá đơn giản, chỉ là một vuông lụa trắng đính một miếng vải hình tam giác làm cổ yếm. Xà cạp có hình hoa văn móc câu hay
răng cưa hình chim. Để bộ trang phục thêm hoàn mỹ, họ thường dùng nhiều loại khăn vấn đầu (có
3 loại khăn: khăn vuông, khăn chữ nhật và khăn dài). Trong đám hát ví, họ thường
dùng khăn thêu trắng dài chừng 1,2m, rộng 30-40cm, hai đầu gồm hai mảng hoa văn
hình vuông tạo thành cảm giác mềm mại. Ngoài trang phục chính, người phụ nữ Dao
còn ưa dùng đồ trang sức làm cho bộ trang phục của mình thêm sang trọng: Vòng cổ,
nhẫn, túi ăn trầu, các đồ trang sức bằng bạc hình bán cầu, hình sao 8 cánh. Có
những cô gái Dao đeo 10 chiếc vòng cổ, 12 chiếc nhẫn, cùng những chiếc khuy bạc
đường kính 6-7cm, nổi bật trên màu áo chàm.
Vào dịp lễ hội, người phụ nữ
Dao còn giữ tục chải đầu bằng sáp ong cho mái tóc nuột nà, uốn lượn. Đây cũng
là một bí quyết giúp mái tóc của những cô gái Dao khỏe về sức sống, đẹp trong
con mắt mọi người. Trong không khí tưng bừng của ngày Tết, lễ hội, người ta
dùng điệu hát lời ca làm cuộc sống thêm thăng hoa. Đáng chú ý là bộ trang phục
của cô dâu, phải mất 3 năm cô gái Dao mới hoàn thành bộ trang phục cho mình.
Trang phục chú rể kín đáo, ít phô bày, thường được may bằng các loại vải màu sậm
phần nào thể hiện nam tính. Riêng trang phục của ông thầy cúng có khác đôi
chút, mũ được làm bằng bìa cứng, gồm nhiều bức tranh ghép lại cắt dán theo hình
quả núi dài khoảng 25cm. Áo màu đen được thêu
hoa văn màu đỏ.
Dân tộc H’Mông:
Trang phục của người Hmông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm. Quần áo của người Mông chủ yếu
may bằng vải lanh tự dệt. Đậm đà tính cách tộc người trong tạo hình và trang
trí với kỹ thuật đa dạng. Trang phục nam Hmông độc đáo khác nhiều tộc người
trong khu vực; trang phục nữ khó lẫn lộn với các tộc khác bởi phong cách tạo
dáng và trang trí công phu, kết hợp kỹ thuật nhuộm, vẽ sáp ong, thêu, ghéo, dệt
hoa văn với kiểu váy rộng và đẹp.
Trang phục nam:
Nam thường mặc áo cánh ngắn
ngang hoặc dưới thắt lưng, thân hẹp, ống tay hơi rộng. Áo nam có hai loại: năm
thân và bốn thân. Loại bốn thân xẻ ngực, hai túi trên, hai túi dưới. Loại năm
thân xẻ nách phải dài quá mông. Loại bốn thân thường không trang trí loại năm
thân được trang trí những đường vằn ngang trên ống tay. Quần nam giới là loại
chân què ống rất rộng so với các tộc trong khu vực. Đầu thường chít khăn, có
nhóm đội mũ xung quanh có đính những hình tròn bạc chạm khắc hoa văn, có khi
mang vòng bạc cổ, có khi không mang.
Trang phục nữ:
Người H’Mông có nhiều nhóm
khác nhau, trang phục nữ các nhóm cũng có sự khác biệt. Tuy nhiên nhìn chung có
thể thấy phụ nữ Hmông thường mặc áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo
không khâu hoặc cho vào trong váy. Ôống tay áo thường trang trí hoa văn những
đường vằn ngang từ nách đến cửa tay, đường viền cổ và nẹp hai thân trước được
trang trí viền vải khác màu (thường là đỏ và hoa văn trên nền chàm). Phụ nữ
Hmông còn dùng loại áo xẻ nách phải trang trí cổ, hai vai xuống ngực giữa và cửa
ống tay áo. Phía sau gáy thường được đính miệng và trang trí hoa văn dày đặc bằng
chỉ ngũ sắc. Váy phụ nữ Hmông là loại váy kín, nhiều nếp gấp, rộng, khi xòe ra
có hình tròn. Váy là một tiêu chuẩn nhiều người đã dựa vào để phân biệt các
nhóm Hmông (Hóa, Xanh, Trắng, Đen... ). Đó là các loại váy trắng, váy đen, váy
in hoa, vẽ sáp ong kết hợp thêu. Váy được mang trên người với chiếc thắt lưng vải
được thêu trang trí ở đoạn giữa. Khi mặc váy thường mang theo tạp dề. Tạp dề
mang trước bụng phủ xuống chân là 'giao thoa' giữa miếng vải hình tam giác và
chữ nhật; phần trang trí hoa văn là miếng vải hình tam giác cân phía trên, miếng
hình chữ nhật là màu chàm đen, kích thước tùy từng bộ phận người Hmông. Phụ nữ
thường để tóc dài quấn quanh đầu, có một số nhóm đội khăn quấn thành khối cao
trên đầu. Đồ trang sức bao gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn.
Phụ nữ Hmông Trắng trồng lanh,
dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo
tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.
Phụ nữ Hmông Hoa mặc váy màu
chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải
màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.
Phụ nữ Hmông Ðen mặc váy bằng
vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.
Phụ nữ Hmông Xanh mặc váy ống.
Phụ nữ Hmông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội
khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.
Trang trí trên y phục của người
H’Mông chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình
vuông, hình quả trám, hình chữ thập.
Kiến trúc:
Nhà sàn Thái:
Mô hình nhà người Thái Trắng (Lai Châu, Việt Nam) - Phòng trưng
bày Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
Nhà sàn của người Thái - “hướn hạn phủ táy” là một công trình
kiến trúc tài hoa, hòa đồng với thiên nhiên, đất trời cùng vạn vật. Từ kiến
trúc xây dựng đến nghệ thuật trang trí đều bắt nguồn từ thực tế cuộc sống khách
quan được cách điệu hóa đạt tới trình độ
thẩm mỹ cao.
Nhà sàn của người Thái bao giờ cũng làm số gian lẻ, hai đầu hồi - “tụp cống” khum khum
như mai rùa, gắn với truyền thuyết về thuở khai thiên lập địa, thần rùa “Pua tấu”
dạy cho người Thái biết cách làm nhà theo hình
rùa đứng.
Người Thái có câu: “Khửn song phái/ cái song đay” - tức là mở hai cửa/ đi hai
đường. Nhà người Thái cổ bao giờ cũng có hai cầu thang: “Tang chan” và “Tang quản”.
“Tang chan” ở cuối nhà, bên trái dành cho phụ nữ lên xuống. “Chan” là phần sàn
nhà được nối dài ra ngoài trời. Đây là nơi các mẹ, các chị, các em... thường ngồi
chơi lúc nhàn rỗi, thêu thùa... cầu thang này bao giờ cũng mang số lẻ, thường
là 9 bậc, ứng với 9 vía.
Cầu thang dành riêng cho nam
giới - “tang quản” ở đầu nhà, thường có 7 bậc ứng với 7 vía.
Nhà sàn của người Thái cổ có
hai bếp lửa - “Chík pháy”. Bếp lửa phía “tang quản” dành cho người già, bếp
chính ở phía “tang chang” dành cho nữ giới. Giữa núi rừng trùng điệp, bếp lửa hồng
trên nhà sàn như trái tim hồng, sưởi ấm và nuôi dưỡng cả về vật chất và tinh thần
cho mỗi con người.
Từ bếp dành cho người già đến
hết cầu thanh dành cho nam giới gọi là “quản”. Đây là nơi dành riêng cho đàn
ông, phụ nữ không được đến khu vực này, trừ một số trường hợp đặc biệt. Nơi đây
có gian thờ tổ tiên - “hỏng hóng” và cột thiêng - “sau hẹ”. Trên cột thiêng
treo hình thần rùa bằng gỗ, ba bông lúa - “sam huống khẩu” và ba nhánh rau thì
là - “sam hóm chík”... Ngoài ý nghĩa có tính biểu tượng của tô tem giáo thì còn
mang bóng dáng của thuyết thiên - địa - nhân.
Ngôi nhà sàn của người Thái vừa
trang nhã, vừa chắc chắn: “Hướn đi tẳng cang tèn/ Hướn én tẳng cang vên/ Lốm
luông pặt bấu chại/ Lốm hại pặt bấu pay” - Nghĩa là: Nhà tốt dựng nơi cao ráo/
Nhà đẹp dựng giữa mường/ Gió to thổi không xiêu/ Bão lớn không lay động.
Nhà sàn được trang trí nhiều
hoa văn họa tiết tinh xảo trên bậu cửa sổ, trên các tấm ván hình răng cưa làm
chấn song cửa sổ, trên “khau cút” của nhà người Thái đen. “Khau cút” vẽ vân
sen/ đầu kèo vẽ vân én/ mái nhà xén bằng dui - “khau cút tẻm lai bua/ sinh dua
tẻm lai én/ nhả ca bén tin con”, đã trở thành tiêu chí về vẻ đẹp của ngôi nhà
sàn người Thái đen Tây Bắc.
“Khau cút” là hai tấm ván đóng
chéo nhau hình chữ X trên đòn nóc - “Tiêu bôn”, trước hết để chắn gió - “pảy lốm”
cho mái tranh hai đầu hồi nhà. Những gia đình quý tộc xưa còn làm thêm bông sen
cách điệu ở giao điểm hai tấm ván và tám hình trăng khuyết hướng vào nhau so le
trên “khau cút”. Giải thích về biểu tượng “khau cút” có nhiều ý kiến khác nhau
như: Đó là cặp sừng trâu cách điệu, biểu tượng của một nền văn minh lúa nước,
hoặc đó là những búp cây guột - “cút lo ngong” có nhiều ở Tây Bắc, hay gắn với
cuộc thiên di tìm miền đất hứa của người Thái, anh em luôn nhớ về nhau... Dù có
cách giải thích thế nào, thì khi bắt gặp hình “khau cút” trên nóc nhà sàn, là mỗi
người Thái đen Tây Bắc lại thêm ấm lòng, nhớ về anh em, bản mường yêu dấu.
Trên bậu cửa sổ thường chạm
hình đôi thuồng luồng - “tô ngựa”, linh vật làm chủ sông, suối, biểu tượng của
sức mạnh và gia đình hạnh phúc. Trên các chấn song cửa sổ chạm các hoa văn, họa
tiết mô phỏng thiên nhiên theo hình đối xứng hoặc lặp lại. Đó là những hình
thoi như quả trám, hoa ban - “bók ban”, búp cây guột - “cút lo ngong”... Nhà
sàn người Thái trắng - “Táy khao” thường có lan can xung quanh hoặc trước nhà rất
đẹp. Thiên nhiên được phản ánh một cách sống động, thể hiện tinh tế quan điểm về
vũ trụ, âm dương ngũ hành và ý nghĩa nhân sinh cao đẹp. Chẳng những mang sắc
thái dân tộc đậm nét nhà sàn của người Thái Tây Bắc còn là nơi hội tụ những giá
trị vật chất và tinh thần.
Đây là nơi chứng kiến buồn vui
của bao thế hệ để rồi mỗi người hiểu thêm về quá khứ, hiện tại và tương lai, trân trọng nâng niu những tài sản
vô giá cả về vật chất và tinh thần đã trở thành truyền thống tốt đẹp và phấn đấu
vì một ngày mai tươi sáng hơn.
Quanh bếp lửa hồng, đã bao lần
gia đình họ tộc quây quần nghe người già hát, ngâm, kể - “khắp” những điều răn
dạy về đạo lý làm người - “Quámk son cốn”, chuyện bản Mường - “Quámk tố mướng”,
bước đường chinh chiến của cha ông - “Táy púk sấc”, Tiễn dặn người yêu - “sống
chụ xon xao”... cùng nồng say trong các điệu “xòe” ngày mừng cơm mới, lên nhà mới,
hội cưới, ngày xuân...
Nhà sàn còn là nơi con trai
đan lát, thổi khèn, pí... con gái quay xa, dệt vải, thêu thùa... đã được khái
quát trong câu thơ: Trai biết đan chài/ gái biết dệt vải - “nhinh hụ tháp phải/
trái hụ san he”.
Các bản Thái thường quần tụ
ven suối chân đồi. Những ngôi nhà sàn bình dị ấm cúng, khói lam thơm thoảng gió
đồng, lách cách tiếng thoi đưa, đâu đây da diết một điệu khèn câu khắp, lốc cốc
tiếng mõ trâu đàn về bản... tất cả làm nên một vẻ đẹp trong sáng đậm tình như một
bức tranh sơn thủy, dân dã nguyên sơ của một nền văn hóa.
Nhà sàn Dao:
Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc.
Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên
núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người
Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.
Một kiểu kiến trúc nhà ở của người Dao
Kiến trúc nhà ở của người Dao
cũng rất phong phú, tuỳ nhóm mà ở nhà trệt hay nửa sàn, nửa đất. Hiện nay tại Bảo
tàng dân tộc học Việt Nam ngôi nhà nửa sàn nửa đất được chọn để trưng bày và giới
thiệu. Loại nhà nửa sàn nửa đất là loại kiến trúc nhà cửa của riêng người Dao,
gắn liền với cuộc sống du canh du cư trước đây. Điều đặc biệt là toàn bộ ngôi
nhà của người Dao đều được làm bằng tranh tre nứa lá, không có một chút gạch
ngói. 8 cột cái trong nhà được làm bằng những cây gỗ quí, có tuổi rất già 80-90
năm. Mỗi lần chuyển nhà, họ có thể bỏ phên, tranh tre nứa lá còn những cột cái
bằng gỗ quí có sức bền với thời gian thì họ chuyên chở đi để làm ngôi nhà nơi ở
mới.
Về cấu trúc, nhà của người Dao
được làm bằng gỗ, tre, nứa rất chắc chắn, đơn giản nhưng được kết hợp khéo léo
toát lên sự kín đáo, tế nhị của người Á Đông. Kiểu nhà truyền thống của người
Dao quần trắng là nhà sàn, thường được làm ba gian, cách chắp nối các cấu kiện
bằng nguyên liệu rời. Tuy nhiên, họ không phải dùng đinh trong quá trình lắp
ghép nhà ở. Kiểu nhà này chỉ có một cầu thang lên xuống, cầu thang có số bậc lẻ;
trong nhà thường có hai bếp. Nhà người Dao đỏ làm nửa sàn nửa đất ở lưng chừng
đồi. Cách chọn hướng nhà thì cũng như các dân tộc khác.
Nhà sàn H’ Mông:
Người H'Mông chỉ ở nhà trệt, làm bằng gỗ pơ mu, thường có ba gian không có
chái. Bộ khung bằng gỗ, vì kéo kết cầu đơn giản, chủ yếu là ba cột có một xà
ngang kép hoặc hai xà ngang, một trên một dưới.. Công việc làm nhà là của đàn
ông. Dân bản thường gíup nhau dựng nhà. Họ chỉ dùng búa và dao. Hầu hết các bộ
phận được liên kết với nhau bằng dây buộc
Về tổ chức mặt bằng sinh hoạt
sinh hoạt: khá thống nhất giữa mọi nhà. Nhà ba gian: gian chính giữa giáp vách
hậu bao giờ cũng là nơi đặt bàn thờ tổ tiên. Gian này còn là nơi dành cho ăn uống
hằng ngày. Một gian đầu hồi dành cho sinh hoạt của các thành viên nam
và khách nam. Ở đây thường có bếp phụ. Còn gian đầu hồi bên kia dành
cho sinh hoạt của nữ, đồng thời cũng là nơi đặt bếp chính. Bếp của người Mèo
thuộc loại bếp kín - bếp lò - một sản phẩm của phương Bắc. Chuồng gia súc đặt
trước mặt nhà. Riêng nhà người Mèo ở Thuận Châu và Mộc Châu, Sơn La lại có đặc
trưng riêng. Vẫn là nhà đất nhưng làm theo hình thức nóc của người Thái Đen.
Nóc hình mai rùa nhưng không có khau cút. Bộ khung nhà, có người cũng làm theo
kiểu Thái. Duy có cách bố trí trong nhà còn giữ lại hình thức cổ truyền của người
Mèo. Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí,
mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh.
Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở
ngay cạnh nhà.
Chuồng gia súc được đặt trước
mặt nhà.lát ván cao ráo, sạch sẽ.
Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà còn
có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.
Nghệ thuật thanh sắc và hình khối:
Như chúng ta đều biết Nghệ thuật thanh sắc bao gồm các loại hình: ca múa, nhạc kịch....vs đặc điểm chung coi trọng thanh
và sắc.Nghệ thuật hình khối bao gồm hội hạo và điêu khắc....
Ta sẽ phân tích nghệ thuật thanh sắc và hình khối ở bốn phương diện:
+Tính biểu trưng
+Tính biểu cảm.
+Tính tổng hợp.
+Tính linh hoạt.
Tính biểu trưng của nghệ thuật
thanh sắc và hình khối:
Cũng dựa trên những đặc điểm về nghê thuật
thanh sắc và hình khối của Việt Nam nói chung, Tây bắc cũng có những đặc điểm
khá thú vị và đáng để lưu tâm. Mục đích của chúng là thông qua những biểu tượng
ước lệ đó để diễn đạt,làm bật nội dung có khi là cảnh sinh hoạt một lễ hội, một
cảnh đi làm đồng ...,chứ không phải hình thức, là cái cốt lõi chứ không phải cái
phụ trợ....
Giống như trong ngôn từ, tính
biểu trưng trong nghệ thuật tranh sắc của vùng Tây Bắc trước hết biểu hiện ở
nguyên lí đối xứng,hài hòa…....(điểu này cũng nằm trong tính biểu trưng
trong nghệ thuật thanh sắc việt nam)...
Một vài ví dụ điển hình.như ở
dân tộc Thái:
Đồng bào thái đặc biệt thích
ca hát .mà nổi bật trên đó 1 biểu tượng nổi bật một loại hình sân khấu đặc
trưng đó là khắp .
Khắp là một thể loại hát dân gian nên các
điệu khắp, lời khắp cũng từ xưa truyền lại, sau này thế hệ con cháu phát triển
thêm nhiều bài thơ, bài khắp mới làm phong phú thêm kho tàng văn hóa của dân tộc
mình và cũng để biểu lộ nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, lứa tuổi khác nhau.
Đó là 1 ví dụ điển hình để thấy được tính biểu trưng của nghệ thuật thanh sắc
và hình khối.
Khắp còn là hình thức đối đáp giữa nam và
nữ rất phổ biến, điều này đã thể hiện được nguyên lí đối xứng hài hòa, một nam
rồi lại một nữ,... Và ngay cả trên lời hát khắp cũng thể hiện rõ điều đó. Lời
hát khắp là những bài thơ, câu nọ vần với câu kia hoặc thể loại văn vần,từng
câu thơ( câu nhạc ) cũng thể hiện sự hài hòa trong đó. Câu chẵn nổi bật là 6-8.
Một điều nổi bật đó là khi hát
khắp thì có thể kết hợp với những điệu múa như như múa xoè, múa sạp, múa quạt độc
đáo với các nguyên lí chính như:
+Thượng tả tương phù :động tác
phải có trên có dưới gốc ngon đầu đuôi tiến lùi phù hợp vs nhau để tạo nên một
chỉnh thể .
+Tả hữu tương ứng.:động tác phải
có phải trái trước ssau ứng vs nhau để tạo nên 1 sự hài hòa.
+Phi sấu tương chế:sự hài hòa
còn được tạo nên bởi sự tương phản giữa động tác rộng và hẹp dày và mỏng
+ Nội ngoại tương quan:phải có
sự tương quan giữa nội tâm và ngoại hình nhân vật giữa ngoại hình vs thiên
nhiên xung quanh
.Và một nguyên lí thiết yếu và
làm nên cái đặc sắc của hát khắp đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nguyên lí
trên với nhạc cụ đệm cho lời khắp gồm khèn bè, các loại pí: pí ló, pí pặp, pí
thiu, mắc hính, tính tẩu....hay các dụng cụ hỗ trợ như sạp quạt...
Và cái nội dung chính mà người
dân tây bắc nói chung và người dân tộc Thái nói riêng muốn thể hiện qua hình thức
hát khắp chính là để ca ngợi những nét đẹp của quê hương, đất nước, những công
việc lao động thường ngày, thăm hỏi, chúc tụng và đặc biệt là hát giao duyên.
Nói đến dân tộc Thái ta còn không thể không kể
đến múa xòe…cụ thể hơn là múa xòe nón. Các cô gái Thái trong điệu xoè nón với
chiếc nón trong tay lúc chạm vào lúc mở ra từ từ từng cánh như bông hoa trắng
muốt. Có lúc nón lao nhanh trên đầu, lúc lại nhẹ nhàng quay trên vai, nghiêng
nghiêng bên má, khi e thẹn xoay tròn trước ngực rồi lại dập dờn như cánh bướm
mùa xuân.một hình tượng đập chất nghệ thuật để biểu thị nội dung ở đây là cảnh
đón xuân.
Trong nghệ thuật hình khối tính biểu trưng được
thể hiện rất đắc lực để nhấn mạnh nội dụng,đề tài nhắm đến với đầy đủ sự trọn vẹn.
Điều này được thể hiện rõ qua những họa tiết đặc sắc và điêu khắc của người dân
vùng tây bắc như Thái, Dao, H’mông,…
Ví dụ diển hình là chiếc khăn Piêu nổi tiếng trong các hình hoa
văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ….biểu trưng cho sự vui vẻ phấn khởi ,có nhiều loại
khăn piêu được dùng trong những dịp khác nhau như dịp đón xuân, thu hoạch mùa
màng hay cả ngay trong đời sống mỗi loại khăn piêu với nhưng họa tiết, hình khối
khác nhau…
Hay như dân tộc Dao, trang phục
của họ đậm chất biểu trưng về truyền thống. Ví dụ như Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng,
thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần áo ngắn hoặc dài màu chàm và đầu đội
khăn…,rất sặc sỡ. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào
trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa
văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây..
Trong cấu trúc và hình dáng nhà ở cũng thể hiện
tính biểu trưng về mặt hình khối Ví dụ như với dân tộc Thái. Nhà người Thái trắng
có khá nhiều điểm gần với nhà Tày - Nùng. Còn nhà Thái Đen lại gần với nhà của
các cư dân Môn - Khơ me. Tuy vậy, nhà Thái Đen lại có những đặc trưng không có ở
nhà của cư dân Môn - Khơ me. Nhà Thái Đen nóc hình mai rùa, chỏm đầu đốc có
khau cút với nhiều kiểu khác nhau. Hai gian hồi để trống và có lan can bao
quanh. Khung cửa ra vào và cửa sổ có nhiều hình thức trang trí khác nhau. Bộ
khung nhà Thái có hai kiểu cơ bản là khứ tháng và Khay điêng. Vì khay điêng là
vì khứ kháng được mở rộng bằng cách thêm hai cột nữa. Kiểu vì này dần gần lại với
kiểu vì nhà người Tày - Nùng.
Tính biểu cảm của nghệ thuật
thanh sắc và hình khối.
Bên cạnh tính biểu trưng nói
trên, nghệ thuật thanh sắc vùng Tây Bắc vẫn thể hiện sự mạnh mẽ dứt khoát,tiết
tấu nhanh trọng vui…..lại vừa thể hiện cả yếu tố trữ tình với tốc độ chậm cũng rất chú trọng đến luyến
láy ,gợi tình cảm.vì vậy nó mang cả 2 yếu tố trọng âm và trọng dương.
Với người Thái điều này được
thể hiện rõ hơn cả. Các điệu hát của dân ca Thái thường dùng tiếng đệm: lả ơi
là ha ơi, ây dơ ây dơ, ia oi I dơ… Giai điệu trong hệ thống thang 3, 4, 5 âm
(Do-Fa-Sol, Do-Re-Fa-Sol, Do-Re-Fa-Sol-La) gần với âm nhạc Miến Điện, Lào. Và
thêm vào đó cái dàn nhạc không đồ sộ như 1 buổi trình diễn của Bettoven, chỉ
đơn giản là những dụng cụ như kèn môi, các loại pí,… Một số điệu múa hát dân tộc
Thái được phổ biến rộng rãi như: Xoè Thái, Ngày Mùa, Múa Sạp… tính chất âm nhạc
nhìn chung trong sáng, vui tươi, trữ tình, tiết điệu rõ ràng, nhịp độ từ vừa phải
đến nhanh,thể hiện trong đó là sự kín đáo của người phụ nữ.(vì mặc đồ truyền thống
khi biểu diễn).
Trong nghệ thuật hình khối, tính biểu cảm cũng
thể hiện khá đậm nét.
Như đã nói ở trên, với dân tộc
Dao, dân tộc Thái hay H’Mông.. họa tiết trên trang phục của họ rất gần với
thiên nhiên, cảnh vật, luôn thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu nam
nữ, ngợi ca cuộc sống,… Vì vậy những sản phảm của họ luôn để lại ấn tượng trong
lòng du khách, và có thể còn có giá trị về mặt kinh tế.
Tính tổng hợp của nghệ thuật
thanh sắc và hình khối.
Khác với phương Tây, trong các
loại hình giải trí không có sự phân biệt các loại hình ca múa nhạc tất cả đều
có mặt trong 1 vở diễn, sân khấu Tây Bắc nói riêng và Việt Nam nói chung là sự
tổng hợp của mọi thể thơ, mọi loại văn, mọi điệu hát, mọi phong cách ngôn ngữ,…mọi
thứ đan xen với nhau như thực tế ngoài đời…
Một loại hình nghệ thuật là
hát then thể hiện rất rõ đặc trưng này .
Hát then là loại hình diễn xướng
dân gian tổng hợp có từ lâu đời và đặc biệt phổ biến ở vùng dân tộc Tày- Nùng.
Đây là loại dân ca gắn với nghi lễ cúng tế, đậm nét màu sắc tín ngưỡng. Then là
tổng hoà các loại hình nghệ thuật nhạc- hát- múa- mỹ thuật và trò diễn, chịu
nhiều ảnh hưởng của các loại hình dân ca khác như: mo, sli, lượn, phong slư,
tào… Nó thể hiện một sự tổng hợp rất rõ ràng.
Then là thiên (trời), là tiên
(bụt) tức là của nhà trời. Ngày xưa hát then được các bà then, ông then diễn xướng
trong lễ cầu an, sinh nhật, giải hạn, bói toán, cầu mùa, tống tiễn, gọi hồn gọi
vía, mãn tang, thậm chí cả chữa bệnh. Đối với những dịp trọng đại như cấp sắc
cho người làm then hay hội then thì có khi phải kéo dài đến 3 ngày 3 đêm mới
xong, gọi là lẩu then. Làn điệu then không nhiều nhưng lời bài then rất phong
phú như then hát khoăn (vừa hát ngâm nga, vừa đánh đàn tính và xóc nhạc). Có thể
xem hát then là một cuộc diễn xướng trường ca mang màu sắc tín ngưỡng tường thuật
lại cuộc hành trình lên thiên giới để cầu xin Ngọc hoàng giải quyết một vấn đề
gì đó cho gia chủ. Điều này cũng thể hiện rất rõ tính biểu trưng ,biểu cảm.
Ở nghệ thuật hình khối, ta có sự tổng hợp của cả biểu trưng và biểu cảm ….như việc sử dụng trống đồng trong việc ma chay, lễ “sống chết”,… Người dân Tây Bắc quan niệm rằng khi chết thì người đó sẽ về với mường trời, vì vậy nó là sự tổng hợp của cả biểu trưng và tả thực…người chết cũng có nhà mồ giống như 1 ngôi nhà thật cùng với nhiều biểu tượng khác,…
Ở nghệ thuật hình khối, ta có sự tổng hợp của cả biểu trưng và biểu cảm ….như việc sử dụng trống đồng trong việc ma chay, lễ “sống chết”,… Người dân Tây Bắc quan niệm rằng khi chết thì người đó sẽ về với mường trời, vì vậy nó là sự tổng hợp của cả biểu trưng và tả thực…người chết cũng có nhà mồ giống như 1 ngôi nhà thật cùng với nhiều biểu tượng khác,…
Tính linh hoạt ở nghệ thuật
thanh sắc và hình khối.
Nghệ thuật thanh sắc của vùng
Tây bắc còn cho thấy rõ tính linh hoạt của nó. Điều này được thể hiện ở một số
đặc điểm: Âm nhạc không đòi hỏi mọi nhạc công phải chơi giống hệt nhau….tất cả
chỉ cần theo một quy định nhất định; Chỉ với một loại hình sân khấu là hát khắp
(dân tộc Thái) mà linh hoạt biến hóa trong bất kì trường hợp nào.
Ví dụ như:
Khắp Ỉn Sao: Lối hát đối đáp của
thanh niên nam – nữ Thái trong những đêm trăng sáng, nhàn rỗi để tìm hiểu, tâm
sự. Trong khi hát, nam dùng Pí Pạp (một loại sáo), nữ dùng Hừn Toong (một loại
đàn môi) để đệm theo.
Khắp Kin Lẩu, Kin Khẩu: là lối
hát vui trong các buổi tiệc rượu, cưới hỏi… Có nhiều điệu khác nhau như hát Mời
Rượu, hát Chúc rượu, hát Mời lẩu, hát Sao Sên… tùy theo địa phương. Nội dung trữ
tình, nét nhạc duyên dáng, lối ca dí dỏm, tinh tế.
Khắp Hạn Khuống: là loại dân
ca phong tục, hát trên sàn cao (gần như một loại sân khấu lộ thiên) của thanh
niên nam – nữ. Đây là lối hát đối đáp giữa những cô gái ngồi kéo sợi trên sàn
vào các buổi tối, thanh niên trong bản đem khèn, tính tẩu, pí pặp đến hoà ca và
tỏ tình.
Lối hát này có tổ chức gần như
hát Quan Họ của người Kinh, là hình thức sinh hoạt nghệ thuật dân gian do phụ nữ
đứng ra tổ chức. Mỗi hạn khuống có từ 5 đến 10 người, coi như những hội viên
chính thức, gọi là “sao lắc sây”. Hạn khuống do một người phụ nữ giỏi hát, có
tài ứng đối và là người tổ chức của hạn khuống đứng đầu gọi là “Me tổn” hoặc “tổn
khuống”. Khi hạn khuống dựng xong, Me tổn mời dân bản ăn mừng và mời thanh niên
nào hát hay, ứng đối giỏi nhất bản lên hạn khuống hát khai mạc, mở đầu các buổi
tối sinh hoạt ca hát Khắp Hạn Khuống. Mỗi bản có thể có nhiều hạn khuống. Qua sinh
hoạt Hạn khuống, biết được bản to hay nhỏ, giàu hay nghèo, phong trào ca hát mạnh
hay yếu…
Nội dung của Khắp Hạn Khuống
là ca ngợi thiên nhiên, cổ vũ tinh thần yêu lao động, đề cao tính trung thực,
khuyên làm điều lành, tránh cái ác, nói về tình yêu nam nữ… Tính chất âm nhạc trữ tình, trong sáng.
Khắp Long Tong: là điệu hát khi lao động, trên ruộng nương, thanh niên nam nữ vừa hát đối đáp vừa làm nương. Tính chất âm nhạc trữ
tình, trong sáng và có ảnh hưởng đến loại hát nghi lễ.
Khắp Xe (hình thức hát Múa):
Khắp xe là loại tình ca, có nhiều điệu khác nhau, khi hát có múa. Nhiều bài ở
loại này được phổ biến rộng rãi như: Tăng Xạ, Inh Lã Ơi, …
Khắp Sên: Khắp Sên là loại hát
có tính chất thờ cúng tôn giáo do các thầy mo, thầy Then chuyên hát mỗi khi có
người mời đến nhà để cúng then. Khi hát thường có Pí mo (hoặc Pí Một Lao – một
loại sáo) đệm theo. Có 4 thứ khắp Sên, mỗi thứ gồm nhiều điệu hát khác nhau:
Khắp Sên Hươu: hát mừng nhà mới.
Khắp Sên Bản hoặc Sên Mường: cầu
phúc cho dân bản thịnh vượng.
Khắp Một Lao: cầu cho người ốm
chóng khỏi, người chết được lên thiên đàng.
Khắp Một Nhinh hoặc Khắp A ni:
cầu cho trẻ nhỏ ốm chóng khỏi, bị chết được lên cõi trên.
Và ngay trong khi hát…vì chủ yếu là lối hát
dao duyên đối đáp vì vậy các nghệ nhân linh hoạt trong việc cho thêm câu hát
hay làn điệu nào đó thể hiện sự ứng phó linh hoạt, vì vậy các loại hình giống
như thế này có rất nhiều các dị bản khác nhau.
Tính linh hoạt còn thể hiện ở
chỗ sân khấu biểu diễn không cầu kì không hoa lệ như phương Tây, sàn diễn của dân
tộc Tây Bắc là bất kì chỗ nào rộng rãi hợp lý với người dân.
Trên đây là tất cả những điểm
đáng chú ý trong nghệ thuật thanh sắc và hình khốí của Tây Bắc. Tuy nằm trong tổng
thể nghệ thuật thanh sắc và hình khối của Việt Nam nhưng có những đặc điểm rất riêng,
làm nên sự đa dạng cho văn hóa dân tộc.
Văn hóa nghệ thuật:
Lĩnh vực văn hóa thể hiện cái nhìn thẩm mỹ của nhân dân Tây Bắc có nhiều nét độc đáo và trở thành một trong những dấu hiệu làm nên đặc trưng văn hóa vùng. Riêng về lĩnh vực này đã phải cần đến một công trình lớn mới có thể trình bày cho cặn kẽ được. Trong xã hội cổ truyền Tây Bắc, văn hóa chuyên nghiệp, bác học chưa xuất hiện. Ở người Thái tuy đã có một vài nghệ nhân giỏi sáng tác thơ ca
nổi tiếng và mặc dầu dân tộc này có chữ viết cổ, nhưng tác phẩm của họ vẫn lưu
truyền chủ yếu bằng phương thức truyền miệng. Mỗi dân tộc trong vùng đều có một
kho vốn sáng tác ngôn từ giàu có và đủ thể loại từ tục ngữ, thành ngữ, đồng
dao, giao duyên, cho đến lời khấn, lời bùa chú, các áng văn trong lễ tang,
trong lễ hội, các bài văn vần dạy bảo đạo đức cho dâu rể trong đám cưới, các thần
thoại, đồng thoại, cổ tích, truyện cười v.v... ở một số dân tộc có cả truyện
thơ dài hàng ngàn câu như Tiễn dặn người yêu (Thái), Tiếng hát làm dâu
(H'mông), Vườn hoa núi Cối (Mường) v.v... Người Thái còn có cả truyện thơ lịch
sử, kể lại quá trình thiên di của họ vào Tây Bắc như bản sử ca Dõi theo bước đường
chinh chiến của ông cha (Táy pú Xớc) hay Lịch sử bản mường (Quán tố mướng) ngay
đến lời hát của các Mo-then trong lễ cúng người ốm cũng là một áng du kí ca đầy
hình tượng đẹp được diễn tả bằng văn phong trau chuốt. Bộ phận người Mường Tây
Bắc cũng có những thiên sử thi như ở Hòa Bình, Thanh Hóa. Ngoài ra, do đã tách
ra từ mấy thế kỉ và sống giữa những cộng đồng tộc người khác, nên người Mường
Tây Bắc còn có những áng văn hiếm thấy ở các vùng Mường như "vườn hoa -
Núi cối" chẳng hạn. Các truyền thuyết của từng dân tộc, một mặt khẳng định
nguồn gốc của họ với những nhóm đồng tộc cư trú ở các vùng văn hóa khác ; mặt
khác lại gắn bó với vùng đất và trình diễn lịch sử của họ trên mỗi đất miền
này, và góp phần làm nên dấu hiệu đặc trưng của vùng văn hóa Tây Bắc. Có thể gặp
những truyền thuyết như thế trên từng bước chân. Đây là nơi chúa Thái và chúa
Xá thì bắn xem tên ai xuyên vào đá, kia là nơi Nàng Han (một Gianđa Thái) tắm
(Suối Nàng Han). Dãy núi ba chỏm kia là thi hài hóa đá của ba dũng tướng quên
mình bảo vệ quê hương v.v.. .. Và đặc biệt là những truyền thuyết về hoa ban,
dân tộc nào cũng có và cũng thắm đượm tình người. "Xòe" là đặc sản
nghệ thuật múa Thái và trở thành biểu tượng văn hóa Tây Bắc. Người Thái có Xòe
vòng quanh đốm lửa, quanh hũ rượu cần với sự tham gia đông đảo của già trẻ, gái
trai trong tiếng chiêng trống rộn ràng. Nhưng cũng có Xòe điệu của người Thái
trắng ven sông Đà suốt từ Ngọc Chiến, Quỳnh Nhai lên đến Lai Châu, Phong Thổ.
Tương truyền có đến 32 điệu xòe do các cô thanh nữ múa trong tiếng tính tang dịu
dàng của hai chàng trai. Xoè vòng sôi nổi bao nhiêu thì xòe điệu nhẹ nhàng,
tinh tế bấy nhiêu. Người H'mông nổi tiếng về các điệu múa khèn, đá châm hùng
dũng của nam giới. Người Khơmú và Xinhmun lại độc quyền điệu múa lắc mông, lượn
eo. Còn điệu Tăng bu (dỗ ống) là sở hữu của người Laha. Và đến với người Mường
thì phải được xem múa bông. Riêng điệu múa Xạp, trừ người H'mông còn dân tộc
nào trong vùng cũng có, mỗi nơi một vẻ riêng. Có thể xem nghệ thuật múa dân tộc
là một nét đặc trưng của vùng Tây Bắc.
Dường như có một sở thích âm
nhạc chung cho hầu hết các dân tộc Tây Bắc, một sở thích không thấy hoặc ít thấy
ở các vùng khác. Đó là hệ nhạc cụ hơi có lưỡi gà bằng tre, bằng đồng hay bằng bạc.
Nếu sưu tầm và gộp chung lại thì có đến vài chục loai hình thuộc hệ nhạc cụ
này. Nhiều loại đã được cả nước biết đến như Pí pặp, khèn bè Thái, sáo và khèn
H'mông. Ngoài ra, mỗi dân tộc đều có bản sắc riêng như cây Tính Tảu Thái, đống
ôi Mường, chưn may Khơmú, đàn tròn và đàn ba dây Hà nhì v.v . . . ở nhiều dân tộc
khác, thơ ca Tây Bắc được sáng tác để hát, chứ không phải để đọc. Những truyện
thơ, những áng sử thi được trình diễn bằng cả những liên khúc âm nhạc mà nhiều
bài trích ra từ đó đã được cả nước biết đến (inh lả ơi).
Người Tây Bắc có sở thích
trang trí trang phục, chăn màn, đồ dùng với các sắc độ của gam màu nóng ; rất
nhiều màu đỏ, xen vào với vàng tươi, vàng đất, vàng rơm, rồi da cam, tím và nếu
có xanh thì phải là xanh da trời tươi. Phải chăng giữa mênh mông xanh lá cây,
những màu ánh lên như những điểm sáng, khẳng định sự có mặt của con người? Còn
họa tiết, bố cục, phối màu của trang trí thì rất nhiều và phong phú, đến nỗi chỉ
một chiếc khăn piêu Thái, một bộ nữ phục H'mông, Lô Lô, Dao đỏ, một mặt chăn Mường,
một điểm màn Kháng cũng đủ tầm cỡ để phải làm riêng một chuyên khảo. Những nét
chung của cả vùng vẫn không hề làm mất đi tính riêng của văn hóa dân tộc.
Tôn giáo và tín ngưỡng:
Các dân tộc trong vùng Tây Bắc
đều có tín ngưỡng "mọi vật có linh hồn" (animisme), một loại tín ngưỡng
mà mọi dân tộc. trên hành tinh đều trải qua. Có đủ loại "hồn" và các
loại thần sông núi, suối khe, đá, cây, súc vật, các lực lượng thiên nhiên như sấm,
chớp, mưa, gió. Các bộ phận trên thân thể con người cũng có hồn. Người Kinh cho
rằng có ba hồn bảy vía (nam) và ba hồn chín vía (nữ). Người Thái có đến 80 hồn
(Xam xếp khoăn mang nả. Hả xếp khoăn mang lăng), như hồn tóc, hồn lông mày, lông
mi, tai, mũi, trán v.v... Người chết không biến mất mà trở về sống ở bản của tổ
tiên. Do chỗ mọi vật đều có hồn, nên cần phải cư xử với chúng như trong quan hệ
với người. Vậy có hồn tốt, hồn xấu, hồn ác, hồn lành tùy thuộc vào cách đối xử
của người với chúng. Vào hoàn cảnh xã hội cổ truyền thì đây là cách chiếm lĩnh
thiên nhiên và thực tại của đồng bào, với hi vọng có thể nói chuyện", có
thể "thương lượng thậm chí khi cần thì cầu xin chúng. Bằng cách đó, đồng
bào thiết lập được mối quan hệ với mọi vật và với tổ tiên, đặt con người vào tống
thể môi trường không gian và thời gian, tạo nên một cân bằng trong tâm thức.
Con người hội tụ vào cuộc sống hiện hữu của mình các miền thời gian : quá khứ,
hiện tại, tương lai; và các chiều không gian, thiên nhiên, môi trường, con người,
xã hội. Đó chính là mối quan hệ đa diện, đa phương đảm bảo cho tính hợp lí và sự
ổn định tất yếu của cuộc sống con người.
Những dòng suối cũng đóng vai
trò quan trọng trong tâm linh của các dân tộc vùng Tây Bắc. Suối được coi là vật
nữ tính : "con suối" (Me nặm). Suối lại là nơi trú ngụ của thần nước,
thường ở những đoạn nước cuốn thành vực (Vắng năm). Hàng năm, khi làm lễ cúng bản
(Xên bản) vào mùa xuân, người ta tổ chức ngay trên bờ vực nước đó. Có một tâm
thức tín ngưỡng với nước là đặc điểm chung của các tộc người làm nông nghiệp. ở
người Thái, tâm thức đó được thể chế hóa bằng hình tượng thần nước dưới dạng
thuồng luồng và bằng các lễ cụ thể. Con suối và cánh đồng, những sản phẩm sáng
tạo và chiếm lĩnh của con người cũng đã đi vào thơ ca, âm nhạc như những hình
tượng đẹp của cảm xúc thẩm mĩ như lời bài dân ca sau :
Đêm trăng sáng
Tâm hồn em như muốn phiêu diêu
Chơi tha thẩn bên bờ cát trắng
Bờ cát trắng lấp lánh ánh
trăng
Chờ tiếng sáo anh
Luồn qua sương, luồn qua chân
núi
Đến với em trong ánh trăng ngời
ngài.
Dân tộc Thái:
Người Thái cho rằng sự sống của con người là do hồn và xác kết hợp với nhau
hài hòa, cùng tồn tại. Nếu một trong hai yếu tố
đó mất đi thì không có sự sống. Hồn thì do bà mụ (me bảu) nặn rồi cho
vào khuôn đúc bởi năm chất là: kẻo, kók,sanh, minh, nén nghĩa là cốt,
cách, thế, hồn, mệnh. Còn xác con người được cấu tạo bởi năm chất: nặm,
pháy, đin, cắm, mạy nghĩa là đất, nước, lửa, vàng, cậy. Khi đúc
xong. Khuôn hồn của mỗi người được gọi là thuổi bảu (bát bảu) được lưu
giữ tại nhà kho của bà mụ nường trời (mướng then). Bà mụ cho hồn xuống trần
gian tìm nhập vào xác dưới hạ giới để thành người với thời hạn là một trăm năm.
Và khi bà mụ thả hồn xuống thì có hồn đi đủng đỉnh, nghỉ ngơi giữa đường, tạt
vào quán xá… khi đến trần gian lại ngao du đó đây chán chê mê mải rồi mới nhập
vào xác, vid thế mà chết yểu, chết non vì đã hết hạn làm người. Có hồn đi thẳng
một mạch xuống trần gian nhập xác đầu thai ngay nên sống một trăm tuổi.
Còn việc sinh ra giới tính,
tính tình, hình thể, tốt xấu thì họ quan niệm: bà mụ lấy năm chất: cốt, cách,
thể, hồn, mệnh để đúc ra hồn của từng người nhưng lại không cân đong, đo đếm cụ
thể về tỉ lệ giữa các chất mà tự làm theo ý thích của mình nên từ đó con người
sinh ra có giới tính (nam, nữ, ái nam, ái nữ), và tâm lí, tính tình, ước vọng,…
của mỗi người khác nhau. Con người không ai giống nhau, dù một cha một mẹ cũng
vậy.
Con người có 80 hồn (pét síp
khuân): 30 hồn phía trước, 50 hồn phía sau. Nếu hồn ở vị trí nào trên cơ thể
xích mích, tự ái thì con người sinh ra mệt mỏi, buồn phiền. Nếu hồn rời ra khỏi
vị trí của nó thì sinh ra ốm đau. Hồn mà rời hết khỏi xác thì người chết. Hồn
người chết gọi là ma chết (phi tai), hồn rời khỏi xác gọi là ma hồn
(phi khuân).
Hồn người chết chia làm 3 loại:
Loại tốt nhất trở thành đẳm
tổ tiên, có nhiệm vụ trông coi, phù hộ, độ trì cho con cháu, được ăn giỗ, ăn tết
hàng năm.
Loại hồn tốt thứ hai được lên niết
bàn ở mường trời.
Loại hồn xấu thì được dải từ rừng
ma tới dưới niết bàn trở thành ma lang thang (phi ha phi háo)
Cũng chính vì quan niệm ấy mà
người Thái thờ rất nhiều loại ma, các loại ma ấy, theo nghiên cứu của ông Hoàng
Trần Nghich – nhà Thái học, còn lưu lại trong sổ sách là 123 loại ma.
Những tục thờ cúng:
Xưa kia người Thái không ăn tết, không có chùa chiền, đình thờ, miếu mạo và cũng không quan tâm đến mồ mả.Người chết
chôn xong được 3 hay trên ba ngày, khi đã gọi hồn về đẳm tổ tiên thì
thôi không dòm ngó, quan tâm đến mồ mả nữa.
Hàng năm, người Thái có 4 ngày cúng, giỗ lớn là:
Sên huớn: cúng ma nhà, giỗ tổ tiên.
Pạt tống khảu mấu: giỗ cơm mới.
Hổm sánh: chuẩn bị cho tổ tiên
chầu giời.
Sên kẻ: cúng giải tội, giải hạn.
Trong đời sống hàng ngày, người
Thái rất quan trọng ma nhà, ma tổ tiên và linh hồn (phi hướn kắp phi luân).
Vì vậy, cứ 10 ngày cúng tổ tiên một lần, người Thái gọi là Pát tống; chủ
nhà tuy không ốm đau nhưng một năm cũng cúng vía một, hai lần; mỗi khi con người
sầu muộn, mệt mỏi, ốm đau, người ta lại đi xem bói: hồn ra sao? Ma nào đến đòi
ăn? để có hình thức cúng cho phù hợp.
Tóm lại qua số lượng các loại
ma (phi), hồn (khoăn) và các loại cúng giỗ lớn của người Thái, ta có thể thấy hệ
thống tín ngưỡng của dân tộc này vô cùng đa dạng và phức tạp. Bên cạnh những
nét đẹp thể hiện bản sắc riêng của dân tộc Thái, các tín ngưỡng ấy còn có mặt
trái với các hủ tục mê tín ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như mặt tổ chức xã hội của
cộng đồng.
Dân tộc Dao:
Tín ngưỡng của người Dao là tín ngưỡng đa thần “vạn vật hữu linh” mang dấu ấn của
Nho giáo và Đạo giáo chính thống. Tư tưởng Nho giáo được thể hiện rõ trong cách
phân định tôn ti, trật tự, theo thứ bậc ở mỗi gia đình, mỗi dòng họ. Đồng thời,
Đạo giáo ảnh hưởng bao trùm hầu hết các phong tục tập quán thờ cúng tổ tiên
(Bàn Hồ – Bàn Vương), được thể hiện qua lễ đặt tên cho con trai và cấp sắc cho
người làm thầy cúng... Người Dao quan niệm khi chết thì chỉ chết về thể xác,
còn linh hồn mãi mãi bất diệt “quay về với tiên tổ”.
Đồng bào Dao có nhiều phong tục
kỳ lạ như trong hôn nhân, Nam giới phải ở rể từ hai đến ba năm, có khi ở luôn
nhà vợ (nếu ở luôn nhà vợ thì phải đổi họ bên vợ). Họ còn có tục dùng bạc trắng
để định giá cô dâu, theo nghĩa đen là mua và gả bán, số bạc ấy sau này sẽ là của
đôi vợ chồng trẻ. Ngày cưới, cô dâu trang điểm rất đẹp, đội mũ màu đỏ, có hoa
văn; cổ và tay đeo nhiều vòng bạc. Ngày cưới, đoàn đưa cô dâu, có cả thầy cúng,
và thổi kèn, đánh chiêng, khua trống, rung nhạc. Tới nhà chồng, cô dâu phải qua
nhà tạm, khi được giờ thì mới được vào nhà chồng. Lên tới nhà chồng, cô dâu phải
“rửa tay”, bước qua chậu than hồng và nhiều nghi thức khác... trước sự chứng kiến
của hai họ rồi mới bước qua cửa vào nhà với ý nghĩa là “Từ nay đoạn tuyệt với
con ma họ ngoại và từ nay theo con ma họ nhà nội”. Sau khi vợ chồng lấy nhau,
khi sinh con đầu lòng thì họ đẻ ngay tại buồng ngủ của mình. Ba ngày đầu, các cửa
ra vào đều phải cắm lá kiêng không cho người lạ vào nhà. Gia đình dân tộc Dao tồn
tại bền vững theo chế độ phụ quyền, người con gái không có tên trong chúc thư,
không được thừa kế tài sản của gia đình.
Dân tộc H’Mông:
Người H’Mông cũng có phong tục thờ cúng tổ tiên, đó là thờ cúng ông bà, cha mẹ
và những người đồng tộc đã chết. Người ta tin rằng tổ tiên đã chết, che chở cho con cháu đang sống làm những nghi lễ cầu
xin cho các thành viên thị tộc hay gia đình và tiến hành những nghi thức nhằm
thờ phụng tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên thường đặt ở vị trí gian giữa, nhiều dòng họ H’Mmông không lập bàn thờ tổ tiên riêng. Nơi thờ cúng tổ tiên chỉ là một
miếng giấy hình chữ nhật kích thước 20- 30cm. Nơi đặt bàn thờ
là linh thiêng, chỉ có chủ gia đình mới được làm chủ lễ cúng mời tổ tiên, chỉ
có con trai mới được đến gần bàn thờ. Người Hmông chỉ cúng tổ tiên vào dịp năm
mới, lễ cơm mới hoặc khi cần cúng chữa bệnh… đối với hồn cụ, ông, cha ở thế giới
bên kia.
Bên cạnh thờ cúng tổ tiên, người
H’Mmông còn tồn tại một hệ thống ma nhà với những lễ thức cúng bái riêng biệt:
"Xử Cả" là ma có vị trí quan trọng trong hệ thống các ma nhà người
Hmông, gắn liền với sự giàu có, nhất là tiền bạc. Nơi thờ "Xử Cả" ở tấm
ván hậu gian giữa nhà. Chỗ thờ được dán hai miếng giấy bản màu vàng và bạc cắm
3 hoặc 9 lông gà, bôi ít máu gà. Mỗi năm cúng xử cả một lần vào đêm 30 tết, đồ
cúng là một con gà trống màu đỏ.
"Bùa Đáng" (ma lợn)
được thờ ở cột chính trong nhà, cột tượng trưng cho sự hưng thịnh và vận mệnh của
gia đình. Ma lợn chỉ có chủ gia đình mới được cúng, vật cúng là lợn nái đã đẻ một
lứa. Trong đời một người con trai phải làm lễ cúng cột chính 1 hoặc 2 lần, nhằm
tưởng nhớ và làm tròn đạo hiếu giữa người còn sống đối với người đã chết. Cúng
ma cột chính, theo quan niệm của người Hmông còn nhằm tạ ơn những người xưa kia
đã giúp người Hmông qua hoạn nạn, để tìm chữ viết đã mất.
"Xìa Mình"(ma cửa),
có nhiệm vụ ngăn ma ác vào nhà, bảo vệ gia súc, bảo vệ của cải, bảo vệ các hồn,
ngăn không cho hồn các thành viên gia đình bỏ đi. Theo quan niệm của đồng bào,
ma cửa thường ngự ở miếng vải đỏ dán trước cửa chính. Ma cửa thường được cúng
vào dịp tết, khi có người ốm đau hoặc mất tài sản. Lễ vật cúng là con gà trống,
khi có điềm xấu chủ nhà phải cúng ma cửa bằng lợn- gọi là lễ cúng lớn.
"Hú Sinh" (ma bếp)
có liên quan đến việc sinh nở của phụ nữ và phù hộ cho việc chăn nuôi gia súc.
Do đó kiêng giẫm chân lên bếp lò, kiêng làm hư hại lòng lò bằng đất, không được
gõ và đánh vào bếp cám lợn, lúc lợn chửa kiêng không lấy tro trong bếp lò. Muốn
nhấc chảo cám ra phải để một hòn đá vào giữa bếp, nếu không làm như vậy, gia
súc dễ bị dịch bệnh chết, phụ nữ khó đẻ hoặc đẻ ra quái thai, dị hình.
"Nhìu Đáng" (ma
trâu), trong đời người con trai phải cúng báo hiếu bố mẹ, một lần. Vật cúng là
trâu to, lớn, khoẻ mạnh. Lễ cúng tuỳ từng gia đình, dòng họ qui định, cúng ở
trong nhà hay ở vị trí nào đó ngoài trời. Người cúng phải hiểu lai lịch dòng họ.
Như vậy, thờ cúng tổ tiên ở
người Hmông đã được hình thành, quan niệm tổ tiên đã mở rộng đến ba đời- quan
niệm này gần gũi với tâm thức thờ cúng tổ tiên của người Tày, người Dao, người
Kinh.
Người Hmông thờ cúng thần cộng
đồng "Giao" (thần thổ địa). Thần thổ địa được thờ ở một gốc cây to,
hoặc hòn đá lớn trong một khu rừng cấm. Đồng bào quan niệm thần của
"Giao" chi phối cuộc sống của cộng đồng "Giao". Người dân
trong "Giao" khoẻ mạnh, mùa màng bội thu, gia súc nhiều, dân số tăng
là nhờ thần phù hộ. Hàng năm vào ngày Thìn của tháng hai (hoặc ngày mồng 2
tháng 2) đại diện các gia đình các gia đình trong "Giao" đến khu
rừng cấm, nơi thờ thần làm lễ cúng thần, lễ vật cúng là gà, hoặc lợn
và rượu. Người đứng đầu "Giao" trịnh trọng cầu khấn thần linh phù hộ.
Nội dung bài cúng thần tỏ rõ lòng tôn kính nhưng vẫn thân mật và bình đẳng với
thần. Quan hệ người dân với thần như trong cộng đồng "Giao" bình đẳng,
thân ái, giúp đỡ lẫn nhau. Ở đây thần cũng bình đẳng như một thành viên của cộng
đồng. Thần chưa có sức mạnh siêu phàm tuyệt đối, chưa đứng trên cộng đồng. Do
đó, cộng đồng dâng lễ vật cho thần thì thần phải có nghĩa vụ phù hộ, bảo vệ cộng
đồng "Giao".
Tục ma chay: Trước kia, ma chay của người
Hmông thường được tổ chức kéo dài từ 5 đến 7 ngày, ngày nay giảm xuống còn từ 2
đến 3 ngày. Khi gia đình có người chết, họ đi mời người (thầy mo) đến làm thủ tục
cúng hát mở đường, sau đó mới tiến hành khâm liệm (áo ngoài bằng lanh thì mới
được đoàn tụ với tổ tiên). Cách hành xử mỗi nơi mỗi khác: có nơi để người chết
trên "cáng" treo trước bàn thờ hoặc để trên ghế dài đặt ngang cửa ra
vào. Có nơi người chết được đặt vào quan tài nhưng không đậy nắp để dễ dàng xem
mặt người chết. Trong lúc hát mở đường đến đoạn sự tích gà dẫn đường cho người
chết về với tổ tiên, người ta mang một con gà đã chết để nguyên lông đặt trong
âu bột ngô để phía dưới người chết. Trong đám ma người Hmông dùng khèn và trống
để thực hiện nghi lễ tiễn đưa người chết về với tổ tiên được êm đẹp. Sau khi
chôn cất xong, nếu là nam giới, người ta cắm 9 cành lá, nữ giới cắm 7 cành để
đánh lạc hồn người chết không quay về làm hại những người thân trong gia đình.
Lễ cúng đưa hồn người chết về với tổ tiên sau khi chôn cất hoặc kéo dài một hay
vài năm.
Tục cưới xin: Hôn nhân của người Hmông thông
qua mua bán và có phần tin vào tín ngưỡng. Trong lễ ăn hỏi, người Hmông tin rằng
đôi trai gái có hợp nhau hay không là do lễ cúng "xem chân gà". Người
con gái được định giá thông qua giá trị vật chất thịt, rượu, bạc trắng, thuốc
phiện. Mỗi đám cưới thường nhà gái yêu cầu từ 60 đến 120 đồng bạc trắng, từ
60kg đến 120kg thịt lợn, từ 60kg đến 120kg rượu và một số thuốc phiện. Giá trị
vật chất nhà gái yêu cầu càng nhiều đối với nhà trai thì người con gái đó càng
hoàn hảo về tài sắc. Trong quan hệ hôn nhân con dì, con già, con cô, con cậu được
phép lấy nhau. Điều đặc biệt là con trai cậu được phép lấy con gái cô, đó là một
điều tốt đẹp trong gia đình (nước tốt không để chảy vào ruộng người) và (vì tôi
đã để vật quí ở đây thì phải lấy lại nó). Người Hmông có phong tục em chồng được
phép lấy chị dâu (nếu anh trai bị chết), ngược lại chị dâu có quyền lấy em chồng
là để giữ gìn tài sản và có trách nhiệm nuôi dưỡng các cháu của anh trai. Nếu
em chồng đã có vợ thì chị dâu chỉ được làm vợ lẽ. Trong trường hợp gia đình
không có em chồng thì chị dâu được phép lấy em họ. Tục cướp vợ rất phổ biến: một
nhóm thanh niên từ 3 đến 5 người, tổ chức họp nhau đón đường bắt cóc người con
gái mang về nhà mình (dù người con gái đó có bằng lòng hay không bằng lòng).
Trong thời điểm người con gái bị cướp mọi người trong họ hàng, gia đình, anh em
không được phép tham gia giải cứu. Sau hai hôm cướp vợ, nhà trai cử người sang
nộp phạt tiền danh dự cướp vợ và báo cho gia đình nhà gái biết sự việc. Sau đó,
hai bên gia đình bàn bạc, ấn định ngày lành tháng tốt để tổ chức lễ thành hôn
cho đôi trai gái. Trong quan hệ hôn nhân giữa những người trong cùng một dòng họ
bị cấm triệt để, không được phép lấy nhau. Những người không phải là anh em
nhưng cùng mang tên dòng họ, hôn nhân diễn ra cũng rất dè dặt. Người H’Mmông
tin rằng quan hệ hôn nhân với dòng họ khác thì làm ăn mới phát đạt, nòi giống mới
phát triển tốt.
Lễ Tết và lễ hội:
Người Thái:
Là một dân tộc đông dân hơn cả
của vùng Tây Bắc, người Thái cũng có rất nhiều lễ hội và lễ Tết mang đặc trưng
văn hóa của dân tộc mình.
Lễ hội "Kin Pang
Then":
Lễ hội “Kin Pang Then”
là lễ hội tiêu biểu của dân tộc Thái trắng ở Quỳnh Nhai. “Then” ở đây là thầy
mo được quan niệm là cao tay hơn cả; thầy mo được coi như người của trời được cử xuống
trần gian để cứu giúp người khỏi bị ốm đau, bệnh tật và có khả năng giao tiếp với
thần linh. Hàng năm, cứ vào dịp đầu năm, thầy mo tổ chức lễ cúng và gặp mặt các
con nuôi (đó là những người đã được thầy mo chữa cho khỏi bệnh).
Lễ hội “Kin Pang Then” được tổ
chức với quy mô lớn, không những các con nuôi và người trong bản tham gia, mà
còn nhiều dân làng ở bản khác cũng đến tham dự. Thời gian cúng có thể kéo dài từ
3 đến 4 ngày, tuỳ thuộc và số lượng con nuôi đến với “Then” nhiều hay ít. Trong
những ngày diễn ra lễ hội, mọi người trong làng bản cùng dâng lễ cảm tạ đất trời
và cầu xin sang một năm mới mọi điều may mắn và tốt lành đến với bản làng.
Cũng như nhiều lễ hội khác, lễ
hội “Kin Pang Then” gồm có hai phần chính là phần lễ và phần hội. Phần lễ với lối
hát Then truyền thống. Qua lời hát, ông Then cầu cúng cho dân làng trong bản,
trong mường sang một năm mới có nhiều điều tốt đẹp, cho con người luôn khoẻ mạnh,
no ấm, cầu cho mưa thuận gió hoà, cho mùa màng tươi tốt và cùng với đó là lễ tạ
ơn của con cái đối với cha mẹ. Ngoài ra, “Kin Pang Then” cũng là lễ hội cầu
phúc lộc cho gia đình và con cháu, là dịp để con cháu tạ ơn thầy trong dịp đầu
năm mới. Phần lễ đơn giản nhưng mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc, không có yếu tố
mê tín dị đoan, mang tính cộng đồng cao, vun đắp tình đoàn kết trong bản, trong
mường.
Phần hội với những lời hát
Then, điệu múa, trò chơi dân gian lành mạnh như Trò mưa đá (là trò chơi ông Then
xin trời cho mưa xuống để cho mùa màng tươi tốt), trò cày bừa, hái nấm, múa
khăn, múa tăng bu tăng bẳng, múa vòng xoè… đã tạo ra không khí vui tươi phấn khởi,
cuốn hút dân làng đến tham gia. Bên cạnh đó, lễ hội còn là dịp để trai gái
trong bản, trong mường gặp gỡ và thể hiện mình qua những câu hát, điệu múa. Và
sau lễ hội, nhiều đôi đã nên vợ, nên chồng.
Bên cạnh ý nghĩa tâm linh sâu
sắc, lễ hội Kin Pang Then còn nhắc nhở con người phải biết sống đúng đạo lý, gắn
bó với tình làng, nghĩa bản. Trong bài cúng của ông Then có đoạn nhắc nhở và
khuyên nhủ các con cháu rằng:
“…Được ăn ngon đừng quên mình
Được đi ngựa đừng quên thời đi
bộ…”
Lễ hội “Kin Pang Then” là lễ hội
mang tính cộng đồng cao, góp phần tích cực vào việc vun đắp khối đoàn kết dân tộc,
giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, tạo bầu không khí vui tươi, lành mạnh.
Lễ hội là nét văn hóa đặc sắc, là hình thức diễn xướng dân gian độc đáo, góp phần
vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
Lễ hội "Xên Mường":
Lễ hội “Xên Mường”, còn gọi là
lễ hội cúng mường, được phục dựng nhằm sưu tầm, lưu giữ, bảo tồn, giới thiệu lễ
hội truyền thống của dân tộc Thái Đen vùng Mường La đã gần 80 năm nay bị lãng
quên.
Lễ hội Xên Mường trước đây cứ
2 năm tổ chức 1 lần vào dịp năm hết, Tết đến, thu hoạch xong mùa màng, với quan
niệm của đồng bào dân tộc vùng Tây Bắc là cầu cho vạn vật bảo vệ con người, mưa
thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, bản mường đoàn kết vượt khó khăn, giúp nhau
xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Địa điểm chọn lễ cúng mường
thường là tại một cánh rừng già được gọi là “Đông Xên”. Lễ vật gồm mổ trâu, lợn,
gà, sản vật, thóc gạo, hoa quả...
Phần lễ trong Xên Mường (cúng
bản mường) gồm ông mo, bà “một” (người khấn vái chính) gọi “mời” các vị thần
linh như thần sông, thần núi, thần thổ địa, thần cai quản ruộng nương, vùng miền,
các linh hồn người có công dựng bản mường, đất nước và những linh hồn của những
người trong bản mường đã mất về dự, “ăn”, nhận các lễ vật do bản mường, con
cháu dâng lễ.
Phần hội được diễn ra ngay sau
phần cúng lễ kết thúc, gồm các trò chơi dân gian như: ném còn, kéo co, bắn nỏ,
tó má lẹ (một trò chơi dân gian), trò chơi đánh chân đánh đầu, múa xoè bên đống
lửa, tổ chức dân ca dân vũ, thăm hỏi, chúc tụng nhau (trước đây lễ hội Xên Mường
diễn ra trong 3 ngày).
Lễ hội Xên Mường của người
Thái Tây Bắc được phục dựng lần này nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá tinh
thần của nhân dân. Đây còn là kết quả sưu tầm của các nghệ nhân, các nhà nghiên
cứu dân tộc học và sự đóng góp của nhân dân nhằm bổ sung vào kho tàng di sản
văn hoá các dân tộc Tây Bắc, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.
Lễ hội Hoa Ban:
Về loài hoa đặc trưng của núi
rừng Tây Bắc, truyền thuyết của người Thái kể rằng: Thuở ấy, có một chàng trai
tên là Khum đem lòng yêu cô gái tên là Ban. Khum vừa giỏi làm nương, lại có tài
săn bắn. Ban thì khéo tay dệt vải lại có giọng hát làm say đắm nhiều chàng
trai. Thế nhưng, cha nàng Ban vì ham giàu nên đã đem gả nàng cho con trai nhà tạo
mường, vốn là một thanh niên lười nhác, lại có tật gù lưng.
Mặc cho cô gái hết lời van
xin, người cha vẫn không từ bỏ ý định, và ông đã bàn bạc cùng với nhà tạo mường
sửa soạn làm lễ cưới cho hai người. Trong bước đường cùng, nàng Ban đã chạy
sang bản của Khum gặp chàng để cầu cứu. Nhưng chẳng may khi đến nhà Khum, thì
được tin chàng đã theo cha đi mua trâu ở bản xa. Nàng bèn lấy chiếc khăn piêu của
mình, buộc vào nơi cầu thang nhà người rồi bươn bả đi tìm chàng. Nàng đi hết
núi này, rừng khác, gọi tên người yêu đến khản cả giọng, nhưng chàng ở xa nào
có nghe thấy. Cuối cùng kiệt sức nàng ngã gục sau khi vượt qua một dãy núi cao.
Nơi nàng nằm xuống sau đó mọc lên một cây hoa mang búp trắng như búp tay người
con gái. Và chẳng bao lâu, loài hoa ấy mọc lan ra khắp núi rừng Tây Bắc, và hằng
năm cứ mỗi độ xuân về, hoa nở trắng như bông. Người ta đặt tên loài hoa đó là
hoa ban.
Về phần Khum, sau khi về đến
nhà, thấy chiếc khăn piêu của người yêu vắt nơi cầu thang, biết là có chuyện chẳng
lành, bèn vội vã đi tìm nàng. Dò hỏi bà con bên bản người yêu, Khum biết được
là nàng đã bỏ nhà ra đi, còn đi đâu thì không rõ. Thế là chàng trai lên đường
đi tìm người yêu, đi mãi hết mường này, bản khác mà vẫn không tìm thấy bóng người
yêu. Cuối cùng, chàng kiệt sức, ngã xuống. Sau khi chết, chàng hoá thành con
chim sống lẻ loi trong rừng, và cứ đến mùa hoa ban nở, lại hót vang như tiếng gọi
người yêu tha thiết từ năm nào.
Lễ hội Hoa Ban (hay còn
gọi là lễ hội Sên bản, Sên mường) là lễ hội cầu mưa, cầu phúc cho bản, mường của
đồng bào dân tộc Thái. Lễ hội thường được tổ chức vào tháng 2 âm lịch, khi hoa
ban bắt đầu nở trắng núi rừng Tây Bắc. Theo quan niệm của người Thái, hoa ban
không chỉ tượng trưng cho tình yêu, mà còn là biểu tượng của lòng hiếu thảo, biết
ơn.
Từ sáng tinh mơ của ngày hội, tiếng trống, tiếng chiêng âm vang khắp
núi rừng. Các bếp nhà sàn bập bùng lửa đỏ: đồ xôi, luộc gà, thái măng; có nhà mổ
lợn bày cỗ. Rượu cần từng vò lớn, vò nhỏ được bê ra chuẩn bị đãi khách. Những
chàng trai, cô gái áo quần, khăn váy chỉnh tề, rủ nhau đến những cánh rừng có
nhiều hoa ban nở. Họ chọn những cành hoa đẹp nhất để tặng người yêu và biếu bố
mẹ.
Nếu như lễ hội Sên bản (2 năm/
lần) chỉ diễn ra trong phạm vi của bản, mục đích là “cầu thần phù hộ” và cúng
“rửa lá, xua đuổi thần trùng”, ít tổ chức các trò vui, thì lễ hội Sên mường (3
năm/ lần) lại được tổ chức rất to, thu hút nhiều người tài giỏi của toàn mường
tham gia. Lễ hội Sên mường diễn ra trong ba ngày. Phần lễ tưng bừng, trang
nghiêm, thành kính với đám rước và lễ cúng tế trời đất, các thế lực siêu nhiên.
Phần hội chiếm phần lớn thời gian với các cuộc thi bắn súng hoả mai, cung nỏ,
ném còn, chọi gà,… Đặc biệt, trong tiếng trống tiếng chiêng tưng bừng của ngày
hội, vòng người múa xoè hầu như diễn ra liên tục, tưởng như không ngừng nghỉ. Đối
với nam, nữ thanh niên trong mường, đêm cuối hội là đêm vui nhất. Giữa khung cảnh
thơ mộng của núi rừng, các cuộc thi hát giao duyên hoà cùng tiếng khèn, tiếng
sáo kéo dài cho đến tận khuya. Từ cuộc vui này, nhiều mối tình chớm nở và biết
bao đôi trai gái nên vợ - chồng. Vì thế, đêm cuối cũng là đêm để lại nhiều kỷ
niệm nhất
Ngoài hội lễ hoa Ban, người Thái còn múa xoè. Quan trọng nhất là điệu
"xoè vòng", điệu hát cổ truyền của người Thái. Khi múa xoè những đôi
trai gái nắm tay nhau, đi theo vòng tròn, động tác đơn giản, thân hình nghiêng
ngả tự nhiên. Ban đầu còn giữ bình thản, đến khi rượu đã say, nhập cuộc, trống
chiêng thúc giục, không ai còn giữ được ý tứ nữa, múa xoè khi đó là múa trong
tình yêu. Múa xoè kéo dài hết đêm, đến khi mặt trời mọc mới thôi. Múa xoè có
nhiều điệu: múa hái rau, múa mò ốc, múa xúc tép, múa chọc lỗ tra hạt, múa đập
lúa, múa đưa thoi, múa kéo sợi, múa tắm mát trên ngọn sông Tè. Hết múa xoè đơn
đến múa xoè quạt, để diễn tả hết cảnh Xuân hoa bướm tung tăng. Sau hết là
xoè nón, với những động tác cân đối nhịp nhàng, thân hình uyển chuyển. Xoè được
cải biến từng vùng: xoè khăn, xoè quạt, xoè nhạc, xoè bướm, xoè lòng, xoè đèn,
có đến hàng trăm thể điệu, tạo cho hội Hoa Ban trở thành ngày hội của múa hát
mùa Xuân.
Lễ hội Xang Khan:
Lễ hội Xang Khan là lễ hội của người đồng bào dân tộc Thái. Một số nơi khác gọi là Kin chiêng boóc mạy, Hội
Chá Chiêng... Mục đích và ý nghĩa của nó vẫn là ngày tạ ơn các ông mo đối với tổ
tiên và những người thầy đã dạy cách bốc thuốc chữa bệnh cứu vớt chúng sinh. Là
một lễ hội tín ngưỡng dân gian độc đáo của người Thái, góp phần thỏa mãn nhu cầu
hưởng thụ văn hóa, nhất là văn hóa tâm linh của đồng bào các dân tộc thiểu số
nói chung và người Thái nói riêng.
Cứ 3 hoặc 5 năm một lần vào
khoảng tháng 11 Âm lịch, khi xong mùa vụ trên nương sản phẩm đã thu về nhà. Hoặc
tháng 2, tháng 3 Âm lịch của năm sau là tháng tốt, tháng lành. Thời gian mở hội
từ 2 đến 3 ngày.
Chuẩn bị: Những ông mo đã thành tài có
uy tín cứu sống nhiều người qua cơn bệnh hiểm nguy, làm được nhiều việc tốt cho
bản giúp được nhiều việc hay cho mường mới được tổ chức lễ hội. Ba ngày trước
ngày lễ hội, tại nhà ông mo chủ, gái trai tấp nập, tiếng giã gạo tiếng khua luống
ngân vang báo hiệu cho thần rừng, thần núi, thần sông, thần suối biết làng mình
mở hội. Dịp của gái trai gặp gỡ, ngày để dân bản trả ơn thầy mo đã chữa khỏi bệnh
cho mình. Không phải chỉ những người trong bản mà cả du khách thập phương, già
có, trẻ có kéo về dự hội.
Tổ chức: Sau lễ cúng, dân làng múa hát
xung quanh cây hoa, càng về khuya không khí hội càng nhộn nhịp với những trò diễn
độc đáo hài ước đầy ắp tiếng cười, nhộn nhịp hơn là múa tập thể. Tất
cả những người đến dự hội từ già đến trẻ đều vào cuộc múa, múa hết mình hòa lẫn
trong âm vang nhộn nhịp của tiếng chiêng, trống, tiếng khua luống, tiếp dập của
ống nửa (tẳng bù), tượng trưng cho sấm, mưa cho sự phồn thực với mong ước của một
mùa màng tươi tốt. Hái hoa (Kếp boóc) là phần cuối của lễ hội Xăng Khan,
chủ nhà là người trực tiếp hái hoa đem tặng cho mọi người, mỗi bông hoa là một
phần thưởng tượng trưng cho bổng lộc và sự may mắn trong cuộc sống. Bằng lời
hát chia tay thắm thiết hẹn kỳ hội sau gặp lại, và lúc này trời cũng vừa sáng,
mọi người trở về tiếp tục với công việc hàng ngày của mình.Những năm sau này,
nhiều bản làng Thái không còn lễ hội Xăng Khan nữa, nguyên nhân thì nhiều nhưng
quan trọng nhất vẫn là con người và cách ứng xử của con người đối với lễ hội.
Lễ hội "Xến Xó Phốn":
Lễ hội cầu mưa (hay còn gọi là
lễ hội Xến Xó Phốn) vùng Tây Bắc được ra đời và hình thành cùng kho tàng văn
hóa phi vật thể của người Thái. Qua bao đời chắt lọc, gạn đục khơi trong để có
được tinh hoa, những giá trị về phong tục tập quán, tín ngưỡng. Lễ hội cầu mưa
ngày nay mang đủ bản sắc văn hóa của người Thái Tây Bắc.
Lễ hội gồm 2 phần lễ và hội,
phần lễ để cúng thần linh cai quản mưa nắng không mang yếu tố dị đoan mà chỉ mượn
yếu tố tâm linh để dạy bảo con người, phần hội tạo nên những tiếng cười thoải
mái nhằm giáo dục nhân cách, phẩm hạnh để con người vươn tới cái đẹp, của đạo đức
truyền thống mà người Thái đã có.
Người Thái ở vùng Tây Bắc quan
niệm rằng thần linh cai quản mưa gió thương những đứa trẻ sinh ra không có cha
để làm nhà cho nên đã không làm mưa khiến cho trời hạn hán, vì vậy trời không
mưa là lỗi của những người phụ nữ chửa hoang. Vì vậy dân bản phải làm lễ cầu
mưa, cúng lễ các vị chủ nước, chủ sông suối (thuồng luồng, tiếng Thái gọi là Tô
Ngược) để mời các thần linh về nghe nguyện vọng của con người đồng thời trách
phạt những người phụ nữ đó đã không biết giữ mình. Những lời cầu xin, trách móc
được truyền tụng và đúc kết thành các bài cúng và các trò chơi trong lễ hội cầu
mưa.
Người đóng vai trò chính trong
lễ hội là bà Mè mải. Mở đầu lễ cầu mưa, đoàn người đi đến các nhà xin lễ vật. Đến
nhà thứ nhất, mè mải nói:
Ở nhà đấy bà thím ơi
Chúng tôi đến xin cơm đấy
nhé
Rau chua xiểm cũng xin
Canh khoai nhạt cũng xin
Chủ nhà thứ nhất trả lời:
Ngày cúng chủ nước sông tôi có
chút lễ bằng rau, bằng cỏ để cùng xin cầu mưa
Mè mải đáp lời:
Cảm ơn chủ nhà nhé!
Lời cảm ơn vừa dứt chủ nhà té
nước gạo lên người hoặc dùng hạt bông tung vào đoàn người giả làm mưa.
Đoàn người luôn miệng hô to:
“Có mưa rào, mưa ra gạo ra lúa”. Sau đó đoàn người tiếp tục đến nhà thứ 2, thứ
3… và lặp lại bài cúng trên. Đến khi đã có đủ lễ vật, đoàn người rước Tô Ngược
đến địa điểm cúng lễ và bà mè mải bắt đầu cúng bài cúng cầu mưa với nội dung mời
chủ nước chủ sông về ăn lễ vật và lắng nghe nguyện vọng của dân bản cầu xin trời
làm mưa cho đến khi sấm sét nổi lên và trời mưa xuống thì chuyển sang phần hội.
Ở phần hội, cả bản làng cùng
chơi ném còn, uống rượu cần và hát các bài hát về tình yêu đôi lứa… Cùng với
Lễ hội cầu an bản Mường, Lễ hội cầu mưa của người dân tộc Thái miền Tây Bắc là
một sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng rất quan trọng đối với cộng đồng người dân tộc
ở nơi đây. Lễ hội thường được tổ chức vào đầu mùa mưa (khoảng cuối tháng 10, đầu
tháng 11 âm lịch hàng năm (gần tết Nguyên Đán) được biểu hiện qua tiếng sấm, tức
là lời phán quyết của vua trời, qua hình tượng thủy thần, thuồng luồng...Lễ hội
có liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh của cả bản mường, đến
mùa màng, sức khỏe và sự làm ăn của cộng đồng năm ấy, nên được tổ chức rất trọng
thể, vui vẻ, thu hút sự tham gia của đông đảo bà con dân tộc ở bản, mường.
Tết của dân tộc Thái:
Sáng ngày 27 hoặc 28, ông trưởng
bản chủ trì tổng vệ sinh cho cả bản. Tối 29 bắt đầu gói bánh chưng. Người Thái
thường gói hai loại bánh chưng màu đen và màu trắng. Để làm bánh màu đen, họ đốt
rơm lên, lấy tro giã lẫn gạo nếp rồi sàng sẩy sạch muội tro mà vẫn giữ lại màu
đen. Nhiều nơi không cho nhân bánh. Người ta quan niệm hương vị của Tết ở trong
bánh chưng chủ yếu thể hiện ở hương vị của lá dong, và đó cũng là cái chủ yếu để
dâng lên tổ tiên (ma nhà).
Sáng 30, các nhà luộc bánh
chưng và thịt lợn. Tối 30 là bữa cơm tất niên, có sự góp mặt của bà con, bạn
bè, rồi cả đêm người ta thức uống rượu, nhang không bao giờ tắt. Sau lễ cúng
giao thừa bằng thịt, bánh, các đồ thổ cẩm, bạc nén..., nhà nào có chiêng hay cồng
thì mang ra gõ tại nhà.
Cũng không thể không nhắc tới
phong tục gọi hồn của người Thái. Vào tối 28, 29 hoặc 30, gia đình người Thái
thịt hai con gà, một để cúng tổ tiên, con còn lại dùng để gọi hồn cho mọi người
trong nhà. Để gọi hồn, thầy cúng lấy của mỗi người một chiếc áo, bó lại một đầu
với nhau, vắt lên vai, tay thầy cầm một thanh củi đang cháy, rồi mang ra đầu
làng gọi hồn hai ba lần, sau đó về chân cầu thang lại gọi một lần nữa. Xong việc,
thầy cúng đích thân buộc một sợi chỉ đen vào tay mỗi thành viên gia đình để trừ
tà, sợi chỉ đó phải để tự đứt, nếu dứt đứt thì chủ nhân dễ bị ốm.
Sáng mùng một người Thái dậy sớm,
múc nước luộc bánh chưng cho mỗi người uống một ít, có lẽ để phòng đau bụng!
Các người nữ trong nhà hôm mùng 1 được đem xôi đã đồ ra quạt ở giữa gian cúng
ma nhà (bình thường họ không được bén mảng đến khu vực đó!). Sau đó người ta dọn
ra hai hoặc ba mâm cúng, mâm đặt trên cao là để cúng tổ tiên nhà chồng, còn mâm
thấp cúng tổ tiên nhà vợ. Cúng xong, tất cả con trai lui vào trong để cho phụ nữ
ăn trước, và chỉ như thế mỗi ngày mùng 1 thôi. (Hàng ngày, phụ nữ ăn cùng hoặc
ăn sau đàn ông). Bữa cơm Tết của người Thái có một món không thể thiếu, đó là
cá, với các món nướng, chua, khô... Người Kinh mùng 1 kiêng đến nhà, nhưng người
Thái thì mùng 1 đã đi nườm nượp đến nhà nhau chúc Tết. Họ chỉ kiêng vứt lá dong
xuống gậm sàn, kiêng quét nhà vào ngày mùng 1. Tối ngày mùng 1 họ đã làm lễ tạ.
Từ chiều mùng 1, thanh niên bắt đầu đi chơi, và muốn đi chơi đến bao giờ thì
đi, đến làng nào ăn uống ở làng ấy, có khi đi đến qua cả mùng 10 mới về. Các
trò chơi khá náo nhiệt, gồm đánh cầu lông (cầu lông gà), ném còn; khắc loỏng...
Dân tộc Dao:
Lễ hội "Trầu Sun":
Hàng năm cứ vào ngày Hợi tháng giêng (mồng 5 Tết), dân tộc Dao Đỏ ở Làng Chành, xã Xuân Giao (Bảo Thắng - Lào Cai) lại rộn ràng mở hội “Trầu Sun”.
Đây là hội chơi xuân truyền thống của đồng bào Dao Đỏ, mục đích của hội là thực hiện các
nghi lễ cúng báo thần làng, đất trời phù hộ cho một năm mới, mở đầu chu kỳ sản
xuất mới mưa thuận, gió hoà mùa màng tốt tươi, người yên vật thịnh, trâu bò đầy chuồng, gà vịt đầy sân…
Từ sáng sớm, thầy cúng chính cùng đại diện các hộ gia đình chuẩn bị đầy đủ các mâm lễ cúng thần trời đất, thần làng … Sau khi đoàn đội lễ đến tại khu đất rộng đầu làng (nơi diễn ra hội làng), thầy cúng thay mặt dân làng thắp
hương khấn báo thần làng, trời đất phù hộ cho dân làng mở hội cầu mùa, cầu
phúc, cầu tài cầu cho con trai làng trên, congái làng dưới, thuận duyên, bén lứa
nên vợ, nên chồng, nhà nhà ấm no hạnh phúc…
Sau khi kết thúc phần lễ, diễn
ra cuộc thi văn hoá – văn nghệ, thi đấu các môn thể thao truyền thống, như đẩy
gậy, kéo co, bắn nỏ, đánh quay. Đội văn nghệ các xã tổ chức thi múa, hát, trích
đoạn nghi lễ cấp sắc người Dao… Các trò chơi, trò diễn càng sôi nổi hấp dẫn
bởi sự góp mặt của cộng đồng các dân tộc ở 7 xã, thị trấn cùng đông đảo đồng
bào các dân tộc từ khắp các địa phương lân cận đến xem và cổ vũ cho các tiết mục
biểu diễn văn nghệ và thi đấu thể thao.
Lễ hội nhảy lửa:
Lễ hội nhảy lửa của người Dao
thường được chọn để tổ chức từ mồng 2 đến mồng 5 tháng giêng âm lịch.
Đúng giờ đẹp, giờ tốt, phần chính lễ được bắt đầu, những đồ lễ mang tính dân tộc, theo tập quán người Dao đỏ được bày ra một chiếc bàn dài, nơi được coi là chỗ trang nghiêm nhất, trước chiếc sân rộng.
Ngay giữa sân, một đống củi to đã được thanh niên mang đến, xếp gọn gàng, như đống
củi thường đốt trong những đêm lửa trại. Ông chủ lễ bắt đầu ngồi xuống ghế,
niên phụ lễ và bài cúng thần lửa được cất lên bằng những câu cầu may cho một
năm mới, một cuộc sống bình yên, hạnh phúc, cầu mong "mưa thuận, gió
hoà", muôn nhà khoẻ mạnh. Rồi sau đó là nhân ngày đầu xuân, chủ lễ mong cầu
thần lửa mang hơi ấm của mình về sưởi ấm dân làng, về vui cùng lễ hội. Trong
lúc chủ lễ cầu khấn, cũng là lúc người phụ lễ dùng một gióng vầu tre đã được
chuẩn bị từ trước, được chẻ đôi, cầm chặt vào nhau như chưa hề chẻ ra, gieo xuống
bàn hay xuống đất. Hình thể như ông thầy cúng của dân tộc Kinh làm lễ,
"gieo quẻ xin âm dương", khi hai mảnh tre hay vầu cùng ngửa, hay cùng
sấp thì cũng có nghĩa là thần lửa đã đồng ý về vui cùng dân bản, còn một sấp, một
ngửa thi phải xin lại, đến lúc nào được thì thôi.
Bắt đầu vào buổi lễ, cũng là
lúc đống củi được đốt lên, đến khi này, đống củi đã trở thành một đống than hồng
rừng rực cháy. Những người muốn được nhảy lửa đã ngồi "hầu lễ" từ đầu
buổi lễ, họ lấy que tre gõ liên tục vào những nửa ống vầu đã chuẩn bị sẵn và sẵn
sàng ngồi xin thần lửa cùng vui nhảy lửa, chủ lễ lại tiếp tục "gieo quẻ
xin âm dương", đến khi thần lửa đồng ý. Và thường thì từng đôi một nhảy lửa,
họ đi chân không trên đống than, họ nhảy, họ lăn vòng trên than hồng khi lửa
còn lem lém bốc cháy theo từng bước chân của họ. Và khi những đôi bắt đầu được
thần lửa đồng ý cho nhảy lửa thì cũng là lúc các đôi khác tiếp tục vào
"hầu lễ" để được là người nhảy lửa tiếp theo, cứ đôi nọ, nối tiếp đôi
kia cho đến khi đống than hồng tắt lịm dưới những đôi chân trần đen nhẻm do
than để lại. Và cũng thật kỳ lạ, chẳng có ai bỏng chân, tay, cháy quần áo, mắt
ai cũng như say lờ đờ, ánh lửa mùa xuân như vẫn rừng rực cháy trong lòng họ. Và
tình xuân thì đang rực cháy trong hàng trăm đôi mắt các cô gái người Dao dõi
theo những chàng trai chưa có vợ, đang nhảy lửa, để rồi xong hội xuân, họ tìm đến
nhau, nhen nhóm tình yêu, thương trộm, nhớ thầm để rồi nếu hợp duyên, bén số sẽ
nên vợ, nên chồng. Mùa xuân sau, họ lại địu con, theo chồng xuống cùng lễ hội
khai xuân, mong thần lửa mang về cho họ hơi ấm tình yêu, hơi ấm của mùa màng no
ấm, hạnh phúc.
Lễ hội cầu mùa:
Lễ hội Cầu mùa là một lễ hội của người Dao Tuyển là nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Dao Tuyển,
không cầu kỳ nhưng mang nhiều yếu tố tâm linh sâu sắc của cả cộng đồng.
Trước khi mở hội người già
trong bản, phân công là những người có uy tín, người cao tuổi làm bàn thờ cho
ngày lễ. Cột bàn thờ được làm bằng bốn cây gỗ, xung quanh đan bằng nan nứa,
phía bên trong đặt ba ống bầu to dùng làm bát hương. Ba bát hương đó thể hiện
có trời có đất có con người, trong có đặt một ít tiền vàng mã. Dưới gầm bàn thờ
là một bó ngọn mía như muốn cho mọi điều ngon ngọt.
Khi vào lễ, bốn người trẻ tuổi
ăn mặc chỉnh tề đội lễ từ bốn hướng đi về nơi được chọn làm lễ. Trên mâm lễ là
gà luộc, bánh chưng, bánh mật, tiền vàng mã. Trong các mâm lễ người ta quan niệm
phải có nam có nữ vì thế nhất thiết là các con gà trên mâm lễ có cả gà trống,
gà mái. Thầy mo đọc bài cầu khấn trời đất cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt
tươi, bội thu, con cháu học hành thành đạt, nhà nhà no đủ. Cầu mong mọi sự bình
yên, giảm đói nghèo.
Tất cả mọi người cùng nhau
tham gia các trò chơi dân gian kéo co, đẩy gậy, ném còn. Trong trò chơi ném còn
người Dao quan niệm rằng nếu ai ném quả còn qua vòng đầu tiên trong lễ hội là
người đó gặp nhiều may mắn trong năm.
Dân tộc H’Mông:
Lễ hội Gầu tào:
Lễ hội Gầu Tào là một lễ hội của người đồng bào dân tộc H'Mông. Nội dung chính cho lễ hội là cầu phúc hoặc cầu mệnh. Trong đó:
Hội cầu phúc: Một gia chủ nào đó không có con, thưa con hoặc sinh con một bề, sẽ làm lễ nhờ thày cúng bói xin cho mở hội Gầu tào nhằm cầu mong có con.
Hội cầu mệnh: Một gia chủ nào đó bị ốm đau bệnh tật, con cái yếu ớt, thậm chí có con bị chết, mùa màng, vật nuôi lụi dần, cũng nhờ thầy cúng bói xin mở hội Gầu tào.
Thời gian mở hội thường trong khoảng từ ngày mồng một đến ngày 15 tháng giêng. Nếu hội tổ chức
3 năm liền thì mỗi năm tổ chức 3 ngày liền, hội làm gộp một năm sẽ tổ chức 9
ngày.
Ngay từ cuối tháng chạp, khi
được thầy cúng bói xin mở hội. Gia đình mở hội cầu phúc hay cầu mệnh, trong gia
đình cử ra một người chặt cây làm cây nêu. Đầu tiên lễ dựng nêu được tổ chức.
Nơi trồng cây nêu (cũng là địa điểm mở hội). Cây nêu được chôn nơi cao nhất thường
là đỉnh đồi. Khi dựng xong, gia chủ còn làm lễ cúng ở ngay chân cột nêu mời tổ
tiên các thần phù hộ cho có con, mọi thành viên đều khỏe mạnh, bằng an kế tục
việc làm ăn, làm mặc theo dòng họ. Cây nêu được dựng lên, các làng gần, làng xa
biết rằng tết năm nay sẽ mở hội Gầu tào. Mọi người đều hiểu chuẩn bị dự hội.
Sau phần của thầy mo, làm
những thủ tục lễ bái, hầu hết là dùng những từ hoa mỹ (pàng lỳ) thanh cao, những
câu ví mỹ miều, những câu tục ngữ (lù txà) khoa trương. Mọi người tụ tập đến
bãi mở hội. Khắp bãi dựng thêm nhiều lều lợp lá cây cho người già ăn uống chúc
tụng. Bãi bằng nhất được dọn ra cho trẻ em đánh quay.
Các nơi khác trong bãi, tổ chức
các trò chơi cho ngày hội được quy định trước. Các nơi này mỗi nơi đều có quán
xử (chủ sự) quản lý chung. Ngoài ra cần có xừ quan (quản lý) chăm lo việc ăn uống,
có hấu pầu tờ (quản củi đuốc), hấu pầu giê (trông nom xay giã dần sàng) cùng với
xừ quan.
Kết thúc lễ hội, chủ nhà làm lễ,
cây nêu được hạ xuống. Thày mo đốt thẻ giấy, hốt than cho vào gáo nước, vừa đi
vừa cầu khấn. Sau mỗi đoạn khấn vái, thày lại hấp một ngụm nước phun ra xung
quanh. Mảnh vải đỏ thì mang về treo trong nhà cầu mong hồng phúc đời đời.
Tết của người H’Mông:
Hàng năm khi hoa đào, hoa mận
nở trắng rừng cũng là lúc người dân tộc H’Mông bắt đầu đón tết. Tết H’Mông rơi
vào cuối tháng một, đầu tháng Chạp âm lịch (30/11 âm lịch). Tết thường kéo dài
trong nhiều ngày với nhiều sinh hoạt cộng đồng mang đậm nét văn hóa dân tộc
H’Mông.
Khác với truyền thống của các
dân tộc khác, người H’Mông không đón giao thừa. Đối với họ, tiếng gà gáy đầu
tiên của sáng sớm mùng Một mới là mốc đánh dấu một năm mới bắt đầu.
Tối hoặc nửa đêm 30, người ta
cúng ma nhà (tổ tiên) bằng một con lợn sống, một con gà còn sống (và phải là gà
trống, mà tốt nhất là gà trống tơ). Sau đó mới mang lợn và gà ấy đi giết thịt
(nhà nào giàu có thì thịt một con lợn từ 28, 29 để ăn trước). Thịt xong đem
cúng một mâm thịt chín, rồi ăn cơm uống rượu đến khi nghe thấy tiếng gà gáy đầu
tiên.
Bánh dày kẹp với giò hoặc chả đón Tết của người H’Mông
Tết của người H’Mông cũng có một vài tục lệ gần giống người Kinh như: Không quét rác,
đổ rác ra ngoài nhà trong 3 ngày đầu năm (người Kinh là trong ngày mồng 1),
trang trí nhà cửa sặc sỡ, mừng tuổi trẻ nhỏ.
Tuy nhiên người H’Mông cũng có
tục lệ độc đáo khác là: Các bữa ăn trong 3 ngày Tết đều không được có rau mà chỉ
có thịt lợn, thịt gà. Ngày mồng một, phụ nữ không được cầm kim chỉ, con
gái không phải làm việc gì trong 3 ngày tết, chỉ đi chơi, đi hát văn nghệ
trong các lễ hội.
Trong ngày Tết, bên cạnh nghi
lễ tín ngưỡng còn có nhiều trò chơi dân gian quen thuộc nhưng đầy tính thượng
võ như chơi cù, ném pao, bắn nỏ, đua ngựa, múa khèn, chọi chim họa mi…
Tổng kết:
Tây Bắc, một vùng văn hoá, xứ
sở hoa ban, quê hương xoè hoa, miền đất dịu ngọt của những thiên tình sử Tiễn dặn
người yêu nhưng cũng đầy tiếng than thở của những thân phận người Tiếng hát làm
dâu, một một vùng đất mang nhiều vẻ đẹp văn hóa độc đáo và hấp dẫn. Bằng những
nét văn hóa rất riêng ấy, Tây Bắc đã góp phần làm nên sự đa dạng và phong phú của
văn hóa Việt Nam.
Những thông tin thực sự hữu ích
Trả lờiXóamáy xông tinh dầu bằng điện
máy khuếch tán tinh dầu silent night
máy xông tinh dầu đuổi muỗi
máy khuếch tán tinh dầu hà nội
Thật thú vị
Trả lờiXóacửa lưới dạng xếp
cửa lưới chống muỗi
lưới chống chuột
cửa lưới chống muỗi hà nội