Một cô gái dân tộc Mạ
Hình
ảnh của Văn hóa người Mạ
Người
Mạ thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer sống tập trung ở lưu vực sông Đồng Nai, thuộc
các huyện ở phía tây nam tỉnh Lâm Đồng với số dân khoảng gần 30.000 người.
Ngoài tộc danh thống nhất là Mạ còn gọi là Châu Mạ hay Chô Mạ. Người Mạ gồm các nhóm khác nhau như Mạ Ngăn, Chô Tơ,
Chô Sốp, Chô Rô...
Người Mạ sống thành từng buôn có từ 5-10
nhà sàn dài. Mỗi nhà sàn là nơi chung cư các thế hệ cùng huyết thống, đứng đầu
là quăng buôn (trưởng làng). Nhà sàn dài khoảng 30-40m, làm bằng gỗ, có hai
mái, lợp cỏ tranh hay lá mây. Mỗi sàn có từ 15 tới 20 bếp. Nhà sàn người Mạ hiện
nay phổ biến chỉ cao hơn mặt đất khoảng 40-60cm. Cũng có nơi nhà sàn thấp gần
như nhà trệt (nhà đất).
Y phục truyền thống của người Mạ mang những
sắc thái chung về loại hình của các dân tộc Tây Nguyên. Nữ mặc váy dài quá bắp
chân. Nam đóng khố, về mùa nắng nóng thì ở trần. Khố có 2 loại: dài và ngắn. Có
loại đơn giản chỉ có một màu chàm sẫm và hai đường hoa văn đơn sơ chạy dọc theo
rìa mép. Song cũng có loại được thêu dệt nhiều đường hoa văn dọc theo rìa mép
và hai dải hoa văn ở hai đầu khố.
Nam nữ đều mặc áo chui đầu. Nữ mặc áo vừa
sát vào thân và dài đến thắt lưng, kín tà, hai vạt sau, trước đều nhau, cổ thấp
bằng vai. Áo nam thường rộng hơn một chút, hở tà, vạt sau dài hơn vạt trước và
dài che kín mông. Áo có nhiều loại: áo dài tay, áo ngắn tay, áo cộc tay. Mùa lạnh,
người già yếu còn khoác lên mình một tấm mền cho ấm.
Thuở trước, người Mạ có tục cà răng căng
tai nhưng nay đã bãi bỏ. Có điều ngày nay nam nữ vẫn thích đeo nhiều vòng đồng ở
cổ tay. Riêng nữ giới thích đeo xâu chuỗi hạt cườm có nhiều màu sắc ở cổ cùng
những chiếc vòng đồng truyền thống.
Trong hôn nhân, nhà trai chủ động đi hỏi
cưới. Lễ thành hôn được tổ chức ở nhà gái trước sự chứng kiến của hai họ, chủ
làng và ông mối. Sau lễ cưới, nếu là rể nghèo không đủ sính lễ nộp cho nhà vợ
trong ngày cưới thì thời gian cư trú bên nhà vợ phải kéo dài cho đến khi những
sính lễ trên được thanh toán.
Người Mạ tin ở vạn vật hữu linh. Họ thờ
nhiều vị thần như thần sông, thần núi, thần lửa, thần lúa... nhưng Giàng là vị
thần cao nhất. Các lực lượng siêu hình mà họ gọi chung là Giàng đều quan niệm
là thần thiện, trái lại là thần ác, ma quái gọi là “chác”.
Những cuộc lễ cúng thần nông nghiệp được
tiến hành theo chu kỳ canh tác của nông lịch Mạ. Một lễ cầu mùa vào thời kỳ
gieo hạt và một lễ ăn mừng cơm mới được tổ chức vào lúc thu hoạch lúa để tạ ơn
thần linh. Và, cũng để làm vui lòng thần linh, họ tổ chức lễ hiếu sinh tức lễ
ăn trâu hay chém trâu thật linh đình.
Trong một năm, người Mạ có rất nhiều lễ
cúng, quan trọng nhất là lễ cúng Yang Bơnơm và Yang Koi
Trong những lúc nông nhàn, người già thường
kể trường ca. Có những thiên trường ca diễn tả suốt hai, ba đêm liền mới hết.
Trường ca Mạ một mặt phản ánh cuộc đấu tranh của con người với thiên nhiên để
khắc phục khó khăn qua các hoạt động sản xuất, một mặt phản ánh cuộc đấu tranh
xã hội để hướng tới sự công bằng, tín nghĩa, chống thói hư tật xấu.
Ngoài ra, tâm hồn người Mạ còn được thể hiện
rõ nét hơn, sống động hơn ở những bài dân ca trữ tình mà họ gọi là “tam pớt”, một
thể loại hát giao duyên giữa nam và nữ. Dân ca thường đi đôi với nhạc cổ để
tăng thêm sức truyền cảm. Nhạc cụ truyền thống của người Mạ chủ yếu là bộ
chiêng đồng gồm 6 chiếc to nhỏ khác nhau và đều không có núm .
Khi hòa tấu còn có trống da đánh giáo đầu,
giữ nhịp và đổ hồi khi kết thúc. Kèn bầu của người Mạ có loại 6 ống, dài ngắn
khác nhau, và được kết thành 2 bè: bè trên 4 ống và bè dưới 2 ống. Ngoài ra người
Mạ còn sử dụng một số nhạc cụ khác như: kèn bằng sừng trâu (tù và), đàn lồ ô 6 ống,
sáo trúc 3 lỗ gắn vào trái bầu khô.
Ngày nay, tuy tiếp xúc nhiều với người
Kinh và nhiều dân tộc khác nhưng văn hóa Mạ vẫn được bảo lưu và phát huy theo sự
phát triển chung của đất nước. Văn hóa Mạ thật sự đã đóng góp một phần quan trọng
trong nền văn hóa đa dân tộc Tây Nguyên – Trường Sơn.
Minh
Bắc (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét