Dân tộc Mảng (Hứa Văn Mai)

Người Mảng (tên gọi khác: Mảng Ư, Xá Mảng, Niểng O, Xá Bá O, Xá lá vàng.
Nhóm địa phương: Mảng Gứng, Mảng Hệ. Người Mảng là một dân tộc thiểu số thuộc nhánh Bắc Môn-Khmer của ngữ tộc Môn-Khmer.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Mảng ở Việt Nam có dân số 3.700 người, cư trú tại 14 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Mảng cư trú tập trung tại tỉnh Lai Châu (3.631 người, chiếm 98,1% tổng số người Mảng tại Việt Nam), ngoài ra còn có ở Đồng Nai (17 người), Đắk Lắk (15 người), các tỉnh khác không quá 10 người.

Xưa nay vùng Nặm Ban (Dum Bai) thuộc xã Nặm Ban, huyện Sìn Hồ tỉnh Lai Châu vẫn được gọi là “quê hương” của người Mảng. Nhiều truyền thuyết, truyện kể còn lưu truyền cho đến ngày nay giúp chúng ta có thể nhận ra người Mảng là một trong những dân cư bản địa ở vùng Tây Bắc.

Sơn nữ Mảng.

Có khoảng 500 người Mảng sinh sống tại huyện Kim Bình, Châu tự trị dân tộc Cáp Nê-Di Hồng Hà, tỉnh Vân Nam, Trung Hoa. Tại đây, họ được gộp nhóm chung trong nhóm không phân loại.

Người Mảng là cư dân “ăn nương” chuyên sống bằng nông nghiệp nương rẫy theo lối sống du canh du cư. Việc chọn nương, đánh dấu sở hữu được tiến hành từ sau tết. Tháng 3-4 phát cỏ, để khô, nỏ; tháng5-6 đốt rồi gieo hạt. Công cụ làm nương có rìu, dao, gậy chọc lỗ. Năng suất lúa thường thấp do đất đai cằn cỗi, rừng non, đời sống bấp bênh, thiếu ăn quanh năm. Mấy năm gần đây họ đã biết làm nương cuốc; một số nơi làm ruộng bậc thang, năng suất lúa ổn định hơn. Chăn nuôi, thủ công… chưa phát triển. Hái lượm, săn bắt trong suốt 4 mùa vẫn giữ vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế. Người Mảng nuôi trâu, bò, dê, gà, lợn. Nhiều sản phẩm đan lát của người Mảng như bem, cót, gùi rất được các dân tộc khác ưa chuộng. Phổ biến nhất là họ dùng gùi, có dây đeo trên trán sau gáy có ách.


Mang gùi (dong buê) có dây quai vắt qua trán và sỏ qua tấm ván ách tì lên gáy là đặc trưng của cách vận chuyển sản phẩm của người Mảng. Cách đeo gùi này thấy ở nhiều dân tộc trong nước và trên thế giới.Mang gùi (dong buê) có dây quai vắt qua trán và sỏ qua tấm ván ách tì lên gáy là đặc trưng của cách vận chuyển sản phẩm của người Mảng. Cách đeo gùi này thấy ở nhiều dân tộc trong nước và trên thế giới.
Người đứng đầu tổ chức xã hội truyền thống là Pơgia. Ông ta cùng Hội đồng các trưởng họ điều khiển mọi hoạt động văn hoá tôn giáo, xã hội trong bản. Về sau tổ chức xã hội này bị phá vỡ, chịu sự chi phối của tổ chức xã hội Thái. Tuy nhiên tổ chức Bản (Muy) vẫn duy trì theo tập quán truyền thống. Bản có trưởng bản trông coi về thu thuế tạp dịch. Trong bản thường có một dòng họ lớn, các trưởng họ cùng với hội đồng già làng điều hành mọi hoạt động xã hội, tôn giáo theo tập quán. Người Mảng có năm họ chính, mỗi họ lấy một con vật làm vật tổ.

Ngoài Tết Nguyên đán ra, người Mảng ăn Tết Cơm mới sau vụ gặt tháng10 âm lịch. Hàng năm, dân bản còn cúng ma bản và ma nhà để yêu cầu yên. Ðặc biệt ở họ tồn tại hàng loạt nghi lễ liên quan đến nông nghiệp: lễ gieo nương; cúng hồn lúa, mẹ lúa; cúng sau vụ thu hoạch… Vào các dịp Lễ, Tết, trẻ em chơi cầu lông, đánh quay. Thanh niên có nơi chơi ném còn.


Người Mảng coi trọng hủ tục thần thánh hóa để cúng bái, gọi hồn, chữa bệnh…Người Mảng coi trọng hủ tục thần thánh hóa để cúng bái, gọi hồn, chữa bệnh…
Ma nhà được cúng vào dịp Tết hoặc khi trong nhà có người đau ốm. Trời là đấng sáng tạo tối cao. ở đây có cả truyền thuyết về sự xuất hiện loài người theo mô típ truyện quả bầu. Người ta quan niệm vũ trụ có bốn tầng: Trên trời là thế giới thần linh sáng tạo, mặt đất là thế giới người và các loại ma, dưới đất là người lùn xấu xí và dưới nước là thế giới thuồng luồng. Người Mảng tin có nhiều ma, trong đó ma nhà có vị trí đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó họ cũng thờ ma Ðẳm- tổ tiên, dòng họ.

Mặc dù nhà người Mảng rất tạm bợ, nhà sàn, gỗ tạp, kỹ thuật thô sơ, nhưng từ khâu chọn đất, san nền, dựng cột cho đến lợp đều phải nhờ thầy bói xem ngày, giờ rồi mới tiến hành dựng nhà. Lễ mừng nhà mới là ngày vui của cả bản. Lễ này gồm nhiều đặc trưng nghi lễ phức tạp thể hiện đặc trưng tộc người.

Người Mảng có truyền thống ăn xôi nếp. Xôi nếp được đồ trên ninh, chín dỡ ra rồi cho vào cái cơ đựng cơm đan bằng tre mây. Cơi đựng cơm được đan tròn có nắp đậy và chân đế cao để cách ly giữa đáy và bề mặt đặt giỏ. Người ta sử dụng cơi đựng xôi trong các bữa ăn ở nhà hay trên nương. Khi ăn, cơi để cạnh mâm, dùng tay bốc xôi trong cơi, nắm lại thành nắm nhỏ chấm vào thức ăn. (Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)Người Mảng có truyền thống ăn xôi nếp. Xôi nếp được đồ trên ninh, chín dỡ ra rồi cho vào cái cơ đựng cơm đan bằng tre mây. Cơi đựng cơm được đan tròn có nắp đậy và chân đế cao để cách ly giữa đáy và bề mặt đặt giỏ. Người ta sử dụng cơi đựng xôi trong các bữa ăn ở nhà hay trên nương. Khi ăn, cơi để cạnh mâm, dùng tay bốc xôi trong cơi, nắm lại thành nắm nhỏ chấm vào thức ăn.
(Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)
Người Mảng ăn 2 bữa (trưa-tối), bắp là lương thực chính, bắp trộn sắn hoặc trộn với ít gạo. Lá sắn non đồ muối là thức ăn gần như quanh năm của người Mảng. Họ ưa hút thuốc lào, uống rượu trắng.

Tang lễ của người Mảng gồm nhiều nghi thức phức tạp, từ khâm liệm cho đến khi chôn cất. Xưa, quan tài chủ yếu dùng vỏ cây hoặc tre ghép. Sau này, người ta dùng thân cây khoét rỗng hay dùng hòm ván gỗ.

Y phục truyền thống vẫn được giữ gìn mặc dù nhiều người mặc giống người Thái hoặc Việt. Nét độc đáo trong y phục phụ nữ Mảng là tấm choàng quấn quanh thân được cắt may bằng vải thô màu trắng, ở giữa thêu hàng chỉ đỏ. Ðầu để trần, tóc buộc thành chỏm trên đầu bằng dây có tua khá đẹp, chân quấn xà cạp.

Trang phục người Mảng.

Người Mảng có làn điệu dân ca “Xoỏng” rất được nhiều người ưa thích. Các truyện dã sử, truyện sử thi kể về lịch sử dân tộc được người già kể say sưa.

Người Mảng vốn dĩ sống biệt lập xưa nay. Họ sinh sống trên địa bàn có địa hình chia cắt, hiểm trở, cách biệt với các dân tộc khác trong vùng, vì vậy điều kiện sống còn nghèo nàn, lạc hậu. Cộng thêm những quan niệm, luật tục vốn có từ xa xưa, nên dân số người Mảng đã dần bị già hóa một cách nghiêm trọng.

Bà chủ nhà tự tay trải lễ và cầu khấn, căn dặn hồn lúa.Bà chủ nhà tự tay trải lễ và cầu khấn, căn dặn hồn lúa.

Lễ cúng hồn lúa của người Mảng, Lai Châu

Người Mảng ở bản Nậm Ô, xã Nậm Ban, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu hiện vẫn giữ được những lễ hội, nghi thức của cư dân làm nông nghiệp. Điển hình nhất trong số đó là lễ cúng hồn lúa.

Lễ cúng hồn lúa của người Mảng thường diễn ra vào dịp lúa trên nương chín. Trước khi gặt, các gia đình chọn ngày tốt của bà chủ nhà để làm lễ cúng hồn lúa (lúa mới).

Vào buổi sáng ngày đã chọn, hai vợ chồng chủ nhà lên đám nương của gia đình để làm lễ cúng. Lễ vật mang theo là: một nắm xôi nếp, đuôi cá suối nướng (hoặc một miếng thịt gà, hay một quả trứng gà luộc) được để trong một cái cà tá.

Hai vợ chồng chủ nhà chọn một khóm lúa có ba cây lúa, bông chắc hạt. Bà chủ nhà vặn các thân lúa quấn vào nhau rồi cuộn tròn từ gốc lên ngọn khóm lúa, tiếp đó lấy hép cắt 3 bông lúa bỏ vào cà tá. Sau đó bà lấy một hòn đá đè lên cạnh khóm lúa đã cuộn và dặn dò: Hồn lúa hãy ở lại chỗ này, không được đi đâu nhé…

Ba chủ nhà lấy gói xôi, thịt (hoặc trứng) gà luộc đặt bên khóm lúa mời hồn lúa ăn và khấn xin: Hồn lúa ở đây không được đi đâu, chim bay không được bay theo, con cào cào bay không được bay theo, con cua bò đi không được bò đi nhé. Và xin hồn lúa cho phép gia đình gặt lúa.

Làm lễ dặn dò hồn lúa xong thì mọi người cùng hưởng lộc.Làm lễ dặn dò hồn lúa xong thì mọi người cùng hưởng lộc.
Trong lúc chờ hồn lúa hưởng lễ, vợ chồng chủ nhà cùng con cháu đi kiểm tra nương lúa rồi trở về thừa lộc của hồn lúa. Việc thừa lộc bà ăn trước, sau đó mới đến chồng và con cháu. Thừa lộc xong thì mọi người tiến hành gặt lúa. Lúa được gặt từ xung quanh vị trí cúng hồn lúa ra bên ngoài nương.

Trong lúc gặt có người qua lại đám nương chào hỏi, hay gọi thì tuyệt đối không ai được trả lời. Nếu bà có việc hay về nhà, dừng gặt đi ra khỏi nương thì phải nhấc hòn đá đè lên khóm lúa. Khi trở lại gặt, bà phải làm động tác lấy hòn đá đè lên khóm lúa đã cuốn. Gặt lúa phải để lại mấy khóm lúa cạnh nương bên lối đi về nhà. Người Mảng quan niệm nếu gặt hết thì hồn lúa sẽ theo về nhà và sẽ thất lạc, năm sau mùa màng sẽ thất bát…

Buổi chiều, trở về, bà chủ nhà tự tay giã những hạt thóc vừa tuốt trên nương để nấu cơm. Vẫn không trò chuyện với ai trong gia đình. Mọi người cũng “phớt lờ” hành động của bà, không thắc mắc, không hỏi han. Chờ mọi người trong nhà đã đi ngủ, tắt hết đèn điện, bà mới bỏ nồi cơm ra và lặng lẽ ăn trong bóng tối, không để rơi vãi một hạt. Tuy nhiên, cũng không ăn hết chỗ cơm trong nồi, mà phải để thừa một ít. Theo quan niệm của người Mảng, kiêng rơi vãi, một phần là tránh việc thất thoát thóc lúa, một phần nữa là tránh những vong hồn vất vưởng có thể vào nhà mình nhặt đồ ăn mà làm cho người nhà mình ốm đau. Ăn phải để lại một chút, với ý nghĩa là thóc lúa nhiều, vụ này ăn không hết, còn thừa đến vụ sau.

Lễ gọi hồn lúa và lễ ăn cơm kiêng của người Mảng diễn ra trong 3 ngày. Trong 3 ngày ấy, người phụ nữ đi mời hồn lúa về phải kiêng ăn muối, kiêng rau xanh, phải đun nước lá thơm để tắm rửa. 3 ngày sau, gia đình, khách khứa mới được ăn cơm gạo mới. Nếu nhà nào không kiêng, hồn lúa sẽ giận, không về nhà đó nữa. Hồn lúa mà không về thì vụ sau sẽ mất mùa, đói kém…

Một ngôi nhà của người Mảng.Một ngôi nhà của người Mảng.

Những kiêng kị trong ngôi nhà của dân tộc Mảng
Cũng như các tộc người khác, văn hóa tâm linh luôn là một phần không thể thiếu được trong đời sống hàng ngày của người Mảng. Những kiêng kị trong ngôi nhà ở của họ cũng mang một phần của yếu tố tâm linh.

Theo quan niệm của người Mảng từ xưa đến nay đều kiêng kị đưa lá xanh và thịt tươi vào nhà. Nếu đưa vào thì phải đưa cửa phụ, nhà một cửa thì phải che giấu kín mới đem vào được. Vì theo lý của dân tộc Mảng, nếu đưa lá xanh vào nhà mà để tổ tiên biết thì sẽ trách phạt mọi thành viên trong gia đình như bị ốm đau, bệnh tật, đi đường bị tai nạn…

Trong gia đình có người chết, khi đưa đi chôn thì phải đưa ra cửa phụ, nếu nhà một cửa thì phải dỡ bỏ một lối đi đối diện với cửa chính để mang người chết ra. Người Mảng quan niệm, đầu của người ngủ luôn hướng dọc ra cửa chính, chân thì hướng ra cửa phụ, nên khi chết cũng đưa ra theo chiều của chân.

Khi xuống suối lấy 3 hòn đá về kê bếp nấu, tuyệt đối khi nấu không được làm hòn đá đổ. Theo lý của người Mảng nếu hòn đá bị đổ thì mọi người trong gia đình sẽ bị ốm đau.

Quan niệm của dân tộc Mảng cũng không cho con dâu vào phòng của bố mẹ chồng. Anh trai chồng cũng không được vào phòng em dâu. Ngược lại, bố chồng cũng không được vào phòng của con dâu, em dâu không được vào phòng của anh chồng. Nếu bố chồng, con dâu và anh chồng vào phòng nhau thì thường là xấu hổ, vì đó là nơi sinh hoạt kín đáo, riêng tư của mỗi cặp vợ chồng. Mặt khác, nếu xảy ra trường hợp như vậy, thì tổ tiên và con ma nhà sẽ bắt phạt người trong gia đình ốm đau. Điều này cũng phản ánh rõ tục lệ của người Mảng là em trai có thể lấy được chị dâu nếu anh trai chết. Còn anh trai tuyệt đối không được lấy em dâu khi em trai chết.

Đồng thời, không được để con gái đã lấy chồng rồi, hay chửa hoang ở trong nhà đẻ. Phải làm lán tạm ra ngoài để đẻ, sau 3 ngày thì mới được mang vào nhà. Vì đứa trẻ ấy không thuộc dòng họ và con cháu nhà mình.

Theo lý của người Mảng thì cấm giết và cho con hoẵng vào nhà. Truyền thuyết của dân tộc Mảng kể lại: “Ngày xưa, không có dụng cụ để chọc lỗ trỉa hạt giống. Một hôm, dậy sớm lên nương thì thấy dấu chân của con hoẵng để lại trên đất, nên họ tra hạt vào đấy mà nảy mầm xanh tốt, cho năng suất cao. Hàng năm cũng theo dấu chân con hoẵng để gieo hạt. Vì vậy mà cấm kị không được ăn và cho con hoẵng vào nhà. Nếu ăn thịt thì không có con hoẵng đi trên đất nương và không có dấu chân để trỉa hạt. Nếu cho con hoẵng vào nhà thì con hoẵng không chịu lên nương để có vết chân cho mọi người trỉa hạt, mùa màng sẽ thất thu”. Ngày nay, cộng đồng dân tộc Mảng vẫn giữ được tục lệ kiêng kị này.

Trong quá trình ở rể, nếu vợ, chồng, hoặc con cái chết ở trong nhà bố mẹ vợ thì phải dựng lán tạm ở cạnh nhà để ra ở và làm ma cho người chết, tuyệt đối không được để trong nhà. Vì người chết không phải con cháu, và con ma của gia đình.

Những kiêng kị trong ngôi nhà ở của người Mảng có phần mang yếu tố tâm linh. Cũng như các tộc người khác, văn hóa tâm linh luôn là một phần không thể thiếu được trong đời sống hàng ngày của người Mảng. Nó có mặt, hiện diện ở mọi nơi, mọi lúc và mọi chỗ. Thông qua văn hóa tâm linh, con người nói chung và người Mảng nói riêng yên tâm hơn, hiệu quả hơn trong công việc và trong cuộc sống.

Những nghi lễ độc đáo trong đám cưới người Mảng ở Lai Châu
Các nghi lễ trong đám cưới của người Mảng ở Lai Châu là những phong tục độc đáo được lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Là dân tộc có số dân ít nhất trong 54 dân tộc Việt Nam, với hơn 3.000 người và chỉ có duy nhất ở huyện Mường Tè và huyện Nậm Nhùn (Lai Châu), người Mảng sinh sống trên địa bàn có địa hình chia cắt, hiểm trở, cách biệt với các dân tộc khác trong vùng. Họ có nhiều phong tục tập quán rất độc đáo như nghi lễ trên nương, lên nhà mới, đặc biệt là nghi lễ vòng đời của một con người từ lúc sinh ra, lễ đặt tên, lễ trưởng thành với tục xăm miệng, lễ gọi hồn chữa bệnh, nghi lễ hôn nhân, nghi lễ tang ma… Trong số đó phải kể đến các nghi lễ trong đám cưới.

Ông mối và đại diện nhà trai quỳ lạy nhà gái trước khi thưa chuyện.Ông mối và đại diện nhà trai quỳ lạy nhà gái trước khi thưa chuyện.
Người Mảng thường tổ chức cưới khi mùa màng đã thu hoạch xong. Ngày cưới, nhà trai mang lễ vật sang và tổ chức cưới tại nhà gái. Đám cưới diễn ra trong 4 ngày, 2 ngày tại nhà gái và sau đó lại tổ chức 2 ngày ở nhà trai.
Để lấy vợ, chàng trai người Mảng cần phải có người làm mối. Sau khi tổ chức hôn lễ nhà trai phải mang sang nhà gái một số lễ vật như: Bạc trắng, lợn, gà, gạo nếp, rượu cần, cá suối sấy khô và đặc biệt không thể thiếu hai bó thịt sóc hoặc chuột sấy khô.

Cô dâu chú rể phải tự nấu đồ ăn cho mình và ăn riêng.Cô dâu chú rể phải tự nấu đồ ăn cho mình và ăn riêng.
Những lễ vật mà nhà trai mang sang để tổ chức cưới, nhà gái đem chia lại cho anh em và người trong bản mỗi người một phần. Bố mẹ chú rể không được đến dự ở nhà gái, người Mảng quan niệm Lễ vật họ mang đến là đổi lấy con dâu, nếu họ đến và ăn những thức ăn đó sẽ ảnh hưởng đến đôi vợ chồng sau này. Vì vậy, khi ở nhà cô dâu 2 ngày chú rể không ăn thức ăn ở đó mà tự nấu ăn riêng.

Nhà gái sẽ tìm mọi cách mời rượu, bôi nhọ nồi vào mặt ông mối và những người trong đoàn đón dâu để mong điều may mắn.Nhà gái sẽ tìm mọi cách mời rượu, bôi nhọ nồi vào mặt ông mối và những người trong đoàn đón dâu để mong điều may mắn.
Một số nét độc đáo trong đám cưới của người Mảng là tục châm thuốc mời gia đình hai họ và khách khứa; hất nước, rượu, bôi nhọ nồi… vào mặt những người trong đoàn đưa, đón dâu cho may mắn… Ở nhà trai, mọi thủ tục cơ bản giống như khi cưới bên nhà gái, song cặp vợ chồng trẻ không phải ăn riêng ở riêng như bên nhà gái.

Ngày nay, quan niệm hôn nhân của người Mảng còn rất lạc hậu. Người Mảng quan niệm rằng: “Khi con gái đi lấy chồng sinh con, những đứa con ấy mang họ khác thì không còn là con ma của nhà mình, nên con của anh em trai và con của chị em gái được quyền tự do tìm hiểu xây dựng gia đình”. Chính hôn nhân cận huyết, cùng với sự thiếu hiểu biết của người Mảng nên nạn tảo hôn rất nhiều, dẫn đến suy thoái giống nòi.

Một thanh niên nhà trai hả hê khi được hưởng đủ cả: Nước, rượu, nhọ và…bùn.Một thanh niên nhà trai hả hê khi được hưởng đủ cả: Nước, rượu, nhọ và…bùn.

Đám cưới độc đáo của người Mảng ở Lai Châu
Bộ ảnh “Đám cưới của rượu, nước, nhọ và bùn” phản ánh tục ‘cướp vợ’ của người dân tộc Mảng ở Lai Châu vừa giành giải Nhất cuộc thi ảnh “Đất và Người” do Báo NTNN tổ chức như một lát cắt về đời sống văn hóa của dân tộc “bí ẩn” bậc nhất vùng Tây Bắc.

Đám cưới của chú rể Lò Văn Ca, 20 tuổi ở bản Nậm Sập, xã Nậm Pì, cô dâu Lò Thi Kem, 18 tuổi ở bản Huổi Van, xã Nậm Hàng, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu… được đón nhận sinh lực từ niềm vui chung, trong sự hả hê không kìm nén được của người thân.

Những tục cướp, trộm và cả… đánh nhau để giành lấy cô dâu trong ngày hôn lễ, có ở nhiều dân tộc, thể hiện giá trị của cô gái, sự luyến tiếc của gia đình, trai bản… Những cuộc đuổi bắt, “trận chiến” ấy cũng đủ cả tiếng la hét, chạy rầm rập … rồi thất bại vì: “Nhà trai nó mạnh quá”, xứng đáng cho cô dâu về nhà ấy.

Lễ vật mà nhà trai đi hỏi vợ gồm: Bạc trắng khoảng 15 đồng, 200kg lợn, gà từ 9 – 11 con, rượu cần 1 chum, gạo nếp 15kg, 4 sải vải. … Quan trọng hơn cả trong số lễ vật là 2 bó con sóc hoặc chuột khô (30 con).Lễ vật mà nhà trai đi hỏi vợ gồm: Bạc trắng khoảng 15 đồng, 200kg lợn, gà từ 9 – 11 con, rượu cần 1 chum, gạo nếp 15kg, 4 sải vải. … Quan trọng hơn cả trong số lễ vật là 2 bó con sóc hoặc chuột khô (30 con).

Lợn nhà trai mang sang được thịt, làm cỗ cho đám cưới và chia cho tất cả các gia đình trong bản để: “tất cả mọi người đều được ăn thịt cưới”.Lợn nhà trai mang sang được thịt, làm cỗ cho đám cưới và chia cho tất cả các gia đình trong bản để: “tất cả mọi người đều được ăn thịt cưới”.

Cuối ngày thứ hai, chuẩn bị đón dâu, nhà gái lấy nhọ nồi bôi lên mặt mọi thành viên nhà trai để- ‘Giấu không cho ông trời biết mà ngăn trở’.Cuối ngày thứ hai, chuẩn bị đón dâu, nhà gái lấy nhọ nồi bôi lên mặt mọi thành viên nhà trai để- ‘Giấu không cho ông trời biết mà ngăn trở’.

"Cuộc chiến dữ dội" giành cô dâu cũng bắt đầu.“Cuộc chiến dữ dội” giành cô dâu cũng bắt đầu.

Cả phụ nữ cũng lao vào… cuộc chiến ấy.Cả phụ nữ cũng lao vào… cuộc chiến ấy.

Rượu, bùn “lộc” cho các thành viên họ nhà trai.Rượu, bùn “lộc” cho các thành viên họ nhà trai.

Và nước… không thể thiếu để đôi trẻ đông con nhiều cháu, làm ruộng, nương dễ dàng…Và nước… không thể thiếu để đôi trẻ đông con nhiều cháu, làm ruộng, nương dễ dàng…

Trong khi mọi người đang vui, chú rể… lặng lẽ đưa cô dâu đi.Trong khi mọi người đang vui, chú rể… lặng lẽ đưa cô dâu đi.
Kỳ lạ tục xăm cằm phụ nữ của người Mảng xưa, Lai Châu

Xăm cầm một tục lệ độc đáo của người Mảng được lưu truyền trong dân gian. Xăm cầm một tục lệ độc đáo của người Mảng được lưu truyền trong dân gian.
Tục xăm cằm của người Mảng (Lai Châu) xưa đã trở thành nét văn hóa tâm linh độc đáo và là nghi lễ không thể thiếu đối với mỗi thanh niên, nam nữ người dân tộc Mảng khi đến tuổi trưởng thành.

Tỉnh Lai Châu có khoảng 3.000 người Mảng cư trú. Người Mảng hiện là tộc người ít ỏi về số lượng nhân khẩu, nhưng lại có nhiều nét văn hóa độc đáo và kỳ lạ. Trong số đó phải kể đến tập tục xăm mặt đã thất truyền từ mấy chục năm trước.

Tục xăm cằm của người Mảng bắt nguồn từ truyền thuyết sau: Ngày xưa ở bản Mảng nọ có đôi vợ chồng trẻ chịu thương, chịu khó, biết thương yêu nhau, sống rất hạnh phúc. Họ sinh ra một bé trai kháu khỉnh. Nhưng cũng từ khi sinh con chị vợ lại sinh thêm căn bệnh lười, tham lam và ngoa ngoắt. Mọi công việc nặng nhẹ chị đều dồn hết lên vai người chồng, nhà có gì ngon chị ta ăn bằng no, bằng chán mà không để ý đến chồng. Đã thế mỗi khi không hài lòng chị ta lại lu loa, đay nghiến, ăn vạ ầm ĩ…

Từ khi vợ thay đổi tính tình, anh chồng rất buồn và tủi thân. Anh kể nỗi khổ của mình với trời đất, và cầu xin cho người vợ thay đổi tính nết để gia đình được sống hạnh phúc như trước đây… động lòng trước lời cầu xin của anh, thần Chông Gô Chươi Lụa đã dạy cho anh một cách nhằm thay đổi tính tình người vợ.

Theo lời dặn, về nhà anh chồng lấy 2 chiếc lá xanh cắm ở 2 đầu cầu thang và dùng sợi dây mà thần Chô Gô Chươi Lụa đưa cho để chuẩn bị khâu miệng vợ. Về phía chị vợ, từ khi biết chuyện thì khiếp sợ không dám hé răng cãi câu nào. Chị thấy ân hận vì đã đối xử với chồng không tốt. Vốn sẵn lòng thương yêu vợ, anh chồng không đành lòng khâu miệng vợ như lời thần dặn mà chỉ dùng kim châm thành từng lỗ xung quanh miệng vợ. Sau đó anh lấy lá cây chàm dùng để nhuộm vải giã nát bôi lên những vết kim châm giả làm những vết chỉ đen.

Từ sau hôm đó, chị vợ đã thay đổi hẳn tính nết, biết kính yêu cha mẹ, chịu thương, chịu khó, nhường nhịn chồng, con, sống chan hòa với mọi người. Cũng từ đấy, đôi vợ chồng trẻ trở lại những ngày sống hạnh phúc như khi mới cưới.

Tập tục xăm cằm của người Mảng chứa đựng những bí ẩn không thể lý giải.Tập tục xăm cằm của người Mảng chứa đựng những bí ẩn không thể lý giải.

Thấy cuộc sống của đôi vợ chồng kia ngày càng hạnh phúc, người dân trong bản ai nấy đều vui mừng và mong muốn con cái mình khi lớn lên cũng có cuộc sống viên mãn như đôi vợ chồng kia. Nhớ lời của thần Chô Gô Chươi Lụa, mong được thần che chở, giúp đỡ nên dân làng cũng học theo cách làm của người chồng. Lâu dần việc làm đó trở thành tục xăm cằm.
Trải qua sự kết tinh của thời gian cùng với những quan niệm về tâm linh vốn có trong cuộc sống thường ngày, tục xăm cằm của người Mảng đã trở thành nét văn hóa tâm linh độc đáo và là nghi lễ không thể thiếu đối với mỗi thanh niên, nam nữ người dân tộc Mảng khi đến tuổi trưởng thành.
Theo quan niệm của người Mảng, xăm cằm biểu tượng cho sức mạnh của đấng tối cao, là sự che chở, giúp đỡ cho con người chống lại những rủi ro, tai kiếp của thiên nhiên và cầu mong về một đức tính hiền dịu, đảm đang của mỗi người.

Nó thể hiện sự trưởng thành trong suy nghĩ, trách nhiệm hơn trong hành động của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Đồng thời, nó cũng thể hiện tinh thần, trách nhiệm, niềm tự hào của bậc làm cha, làm mẹ đối với các thành viên. Họ cũng quan niệm, bất cứ người nào, khi trưởng thành nếu không xăm cằm, ngoài việc không khẳng định được sự trưởng thành của mình, khi chết sẽ không qua được cổng trời.

Với những quan niệm tâm linh đó, thanh niên dân tộc Mảng khi đến tuổi trưởng thành (từ 12 – 18 tuổi) đều được các cao niên có uy tín hay bố mẹ nhắc nhở và tổ chức xăm cằm theo một nghi lễ chứa đựng những bí ẩn không thể lý giải.

Tuy tập tục xăm mặt của người Mảng đã thất truyền từ mấy chục năm trước nhưng dù sao nó cũng là một tục lệ độc đáo được lưu truyền trong dân gian còn ẩn chứa nhiều điều bí

Hứa Văn Mai (sưu tầm)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét