Tổng số dân: 92.000
Khu vực có số dân đáng kể: Việt Nam 85.436
(2009),
Campuchia 6.500 (2008)
Ngôn ngữ: Tiếng Xtiêng, tiếng Việt
Tín ngưỡng dân gian: Kitô giáo
Người Xtiêng hay còn gọi là người S'tiêng
hay Giẻ Xtiêng (không nhầm với người Giẻ Triêng) là một dân tộc trong số 54 dân
tộc tại Việt Nam.
Ngôn ngữ: Tiếng Xtiêng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer trong
ngữ hệ Nam Á.
Dân số và địa bàn cư trú
Dân tộc Xtiêng có dân số khoảng 66.788 người[2]
(1999), cư trú tập trung tại một số huyện thuộc các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai
và Tây Ninh (chiếm trên 99,3%).
Tại Campuchia có khoảng 6.500 người
Xtiêng, theo 2008 Cambodian census[1].[3] (Xem: Khmer Loeu).
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, người Xtiêng ở Việt Nam có dân số 85.436 người, có mặt tại 34 trên tổng số
63 tỉnh, thành phố. Người Xtiêng cư trú tập trung tại tỉnh Bình Phước (81.708
người, chiếm 95,6% tổng số người Xtiêng tại Việt Nam), Tây Ninh (1.654 người),
Đồng Nai (1.269 người), Lâm Đồng (380 người), Bình Dương (153 người)[4]...
Đặc điểm kinh tế
Về hình thái kinh tế, có thể tạm chia dân
tộc này thành hai nhóm là nhóm Bù Đéc ở vùng thấp, biết làm ruộng nước và dùng
trâu, bò kéo cày từ khá lâu và nhóm Bù Lơ ở vùng cao, làm rẫy là chủ yếu, sống
gần gũi với người M'Nông, người Mạ.
Thức ăn chủ yếu của họ là gạo, rau, cá,
tôm. Trước đây người Xtiêng thường ăn bằng tay nhưng gần đây đã ăn bằng bát
đĩa. Họ hay dùng rượu cần trong dịp hội hè.
Tổ chức cộng đồng
Ngày nay người Xtiêng ở nhiều nơi đã định
canh định cư, từng gia đình làm nhà ở riêng. Họ Điểu là họ phổ biến khắp vùng
Xtiêng. Làng Xtiêng có truyền thống tự quản, đứng đầu là một già làng am hiểu tập
tục, có uy tín lớn, tháo vát và thường là người giàu có ở làng. Mức giàu được
tính bằng tài sản như: trâu, bò, chiêng, cồng, ché, vòng, trang sức và còn rất
nhiều thứ khác nữa
Hôn nhân gia đình
Người Xtiêng lấy vợ, lấy chồng khác dòng họ.
Thông thường con trai từ tuổi 19-20, con gái từ tuổi 15-17 bắt đầu tìm bạn đời.
Sau lễ cưới chú rể về nhà cô dâu. Hiện nay, ở một số vùng con gái cũng về nhà
chồng.
Người Xtiêng ưa thích âm nhạc, nhạc cụ thường
thấy nhất là bộ chiêng 6 cái. Chiêng không được gõ ở ngoài nhà, trừ ngày lễ đâm
trâu. Chiêng dùng trong hội lễ, cả trong bộc lộ tình cảm, hòa giải xích mích giữa
các gia đình. Ngoài chiêng còn có cồng, khèn bầu cũng được người Xtiêng ưa
thích. Cuối mùa khô, họ hay chơi thả diều.
Nhà cửa
Nhà ở của người Xtiêng không đồng nhất giữa
các khu vực. Chẳng hạn ở Bù Lơ người Xtiêng sống trong nhà đất dài với gia đình
lớn theo chế độ phụ hệ; ở Đắc Kia người Xtiêng cư trú trong nhà sàn, nha nua va
nhà đất ngắn với gia đình nhỏ; ở Bù Đeh người Xtiêng lại sống trong nhà sàn dài
với gia đình lớn theo chế độ mẫu hệ.
Bộ
khung nhà người Xtiêng dù nhà sàn
hay đất đều trên cơ sở vì hai cột (không có kèo). Căn cứ vào cấu tạo của
bộ khung nhà đất của người Xtiêng hiện nay còn thấy thì nhà đất của người
Xtiêng là rất thô sơ. Nhà đất của
người Xtiêng chỉ như là một cái chòi, mái được kéo gần sát mặt đất. Cửa ra vào
rất thấp, mở ở hai đầu hồi và một cửa ở mặt trước nhà, mái trên cửa cũng phải cắt
bớt hoặc làm vòng lên như ở nhà người Mạ.
Trang phục
Trang phục của người Xtiêng khá đơn giản,
đàn bà mặc váy, đàn ông đóng khố. Mùa đông người ta choàng một tấm vải để chống
rét. Người Xtiêng để tóc dài búi sau gáy, tai sâu lỗ, hoa tai bằng gỗ, ngà voi
và xăm mặt, xăm mình với những hoa văn giản đơn. Mọi người nam, nữ, già, trẻ đều
thích đeo các loại vòng. Trẻ em còn nhỏ đeo lục lạc ở hai cổ chân.
Nông minh Hằng (sưu tầm, trích Bách khoa toàn thư)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét