Nhà dài người M'Nông
Tổng số dân: 112.451 người
Khu vực có số dân đáng kể: Việt Nam:
102.741 (2009), Campuchia: 37.500 (2008)
Ngôn ngữ: M'Nông, khác
Tôn giáo: Kitô giáo, Phật giáo tiểu thừa,
vật linh
Người dân tộc M'Nông hay còn gọi là người
Bu-dâng, Preh, Ger, Nong, Prâng, Rlăm, Kuyênh, Chil Bu Nor, nhóm M'Nông-Bu
dâng, là sắc tộc cư trú ở trung phần Việt Nam và đông bắc Campuchia. Tại Việt
Nam dân tộc M'Nông là một trong 54 dân tộc tại Việt Nam. Tại Campuchia họ được
xếp vào khối Khmer Lơ hay Khmer vùng cao.
Người M'Nông nói tiếng M'Nông, một ngôn ngữ
thuộc ngữ tộc Môn-Khmer của ngữ hệ Nam Á.
Dân số và địa bàn cư trú.
Tại Việt Nam, người dân tộc M'Nông là một
dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Địa bàn cư trú của người M'Nông bao gồm
những phần đất thuộc các huyện miền núi tây-nam tỉnh Đăk Lăk, Đăk Nông, Quảng
Nam, Lâm Đồng và Bình Phước (chiếm trên 99,3%) của Việt Nam, nhưng tập trung
đông nhất là tại các huyện của tỉnh Đăk NôngLỗi chú thích: Mã <ref> sai;
thẻ ref không có tên thì phải có nội dung.
Dân số của người dân tộc M'Nông theo điều
tra dân số năm 1999 là 92.451 người.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, người dân tộc M’Nông ở Việt Nam có dân số 102.741 người, cư trú tại 51
trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người M’Nông cư trú tập trung tại các tỉnh:
Đăk Lăk (40.344 người, chiếm 39,3% tổng số người M’Nông tại Việt Nam), Đăk Nông
(39.964 người, chiếm 38,9% tổng số người M’Nông tại Việt Nam), Lâm Đồng(9.099
người), Bình Phước (8.599 người), Quảng Nam (13.685 người).
Tại Campuchia
Tại Campuchia, người dân tộc M'Nông được gọi
là Phong, Phnong, Bunong, Budong, Phanong. Người Phnong năm 2002 có khoảng
20.000 người theo SIL International,[3], năm 2008 có 37.500 người theo 2008
Cambodian census. Họ chủ yếu sinh sống trong tỉnh Mondulkiri, giáp biên giới với
các tỉnh Đăk Nông và Đăk Lăk của Việt Nam.
Đặc điểm kinh tế
Người dân tộc M'Nông làm rẫy là chính, ruộng
nước chỉ có ở vùng ven hồ, đầm, sông. Những con vật nuôi thông thường ở trong
các gia đình là trâu, chó, dê, lợn, gà và một số nhà nuôi cả voi. Người dân tộc
M'Nông ở Bản Đôn có nghề săn voi và thuần dưỡng voi nổi tiếng. Nghề thủ công của
người dân tộc M'Nông có dệt vải sợi bông do phụ nữ đảm nhiệm và đan lát các dụng
cụ như gùi, giỏ, mùng... do đàn ông làm.
Một buôn làng của người M'Nông R'lăm (buôn Jun)
bên hồ Lăk
Mỗi làng thường có vài chục nóc nhà, ông
trưởng làng đóng vai trò to lớn trong dân làng. Mọi người sống theo kinh nghiệm
và tập tục truyền lại từ nhiều đời. Nam nữ, trẻ, già ai cũng thích rượu cần và
thuốc lá cuốn.
Hôn nhân gia đình
Người dân tộc M'Nông theo chế độ mẫu hệ,
con cái mang họ mẹ, trong gia đình người vợ giữ vị trí chính, nhưng người chồng
không bị phân biệt đối xử, họ sống tôn trọng nhau. Cha mẹ về già thường ở với
con gái út.
Theo nếp cũ, đến tuổi trưởng thành, người dân
tộc M'Nông phải cà răng mới được yêu đương lấy vợ lấy chồng. Phong tục cưới xin
gồm 3 bước chính là dạm hỏi, lễ đính hôn, lễ cưới. Nhưng cũng có nơi đôi vợ chồng
trẻ ở phía nào là tùy thỏa thuận giữa hai gia đình. Người dân tộc M'Nông thích
nhiều con, nhất là con gái. Sinh con sau một năm mới đặt tên chính thức.
Tục lệ ma chay
Trong tang lễ, người dân tộc M'Nông có tập
quán ca hát, gõ chiêng trống bên áo quan suốt ngày đêm. Sau khi hạ huyệt, họ
dùng cây, que và lá cây trải kín miệng hố rồi mới lấp đất lên trên. Qua 7 ngày
hoặc một tháng, gia chủ làm lễ đoạn tang.
Các nhóm địa phương của người dân tộc M'nông
Dân tộc M'nông thuộc chủng
Indonesian. Có tầm vóc thấp, nước da ngăm đen, môi hơi dày, râu thưa, mắt nâu đen, tóc đen, thẳng. Nhiều người
có tóc xoăn.
Ngôn ngữ M'nông thuộc ngữ tộc Môn-Khmer miền
núi phía Nam. Trong vốn từ vựng M'nông bộc lộ rõ sự ảnh hưởng của tiếng Chăm,
qua ngôn ngữ Ê Đê và Gia Rai, là những ngôn ngữ thuộc nhóm Malay-Polynesia, bên
cạnh sự ảnh hưởng sâu đậm hơn của nhóm Môn-Khmer...
Trong quá trình lịch sử phát triển tộc người
của mình, do địa bàn cư trú phân tán trên một vùng rừng núi hiểm trở, việc giao
lưu giữa các vùng M'nông rất khó khăn, hạn chế, đã phân chia cư dân M'nông ra rất
nhiều nhóm địa phương. Nhưng các nhóm này vẫn tự nhận một tên gọi chung là dân
tộc M'nông.
Nhà truyền thống của người M'nông Gar ở huyện Lăk,
tỉnh Đăk Lăk
Những nhóm địa phương của người dân tộc M'nông
có thể kể đến như:
M'nông R'Lăm, ở huyện Lăk, tỉnh Đăk Lăk.
Mnông R'lăm có sự hòa huyết giữa yếu tố Eđê và Mnông. Mnông R'lăm tập trung
quanh hồ Lăk tiếp thu kỹ nghệ làm gốm của người Eđê, kiến trúc nhà sàn dài,
trang phục và cả phần lớn yếu tố ngôn ngữ. Có ý kiến cho rằng do sự cộng cư với
nhóm Eđê Bih người dân tộc Mnông Rlam đã chuyển sang trồng lúa nước, làm gốm, dệt
chiếu, ở nhà sàn dài và tiếp thu khá nhiều phong tục tập quán Eđê so với các
nhóm Mnông khác.
M'nông Gar, ở Tây Bắc Lâm Đồng và vùng hồ
Lăk thuộc tỉnh Đăk Lăk
M'nông Chil, cư trú trên địa bàn huyện Lạc
Dương, Đức Trọng, Lâm Hà và huyện Lăk thuộc tỉnh Đăk Lăk...
M'nông Nông, ở Đăk Nông, Đăk Min tỉnh Đăk
Lăk.
M'nông Préh, ở Đăk Nông, Đăk Min, Krông
Nô, Lăk, tỉnh ĐăkLăk
M'nông Kuênh, ở huyện Krông Pách, tỉnh Đăk
Lăk.
M'nông Prâng, ở Đăk Nông, dăk Min, Lăk và
EA Súp, tỉnh ĐăkLăk
M'nông Bu đâng, ở Bản Đôn, Đăk Lăk.
M'nông Bu Nor, ở các huyện Đăk Nông, Đăk
Min, tỉnh Đăk Lăk.
M'nông Din Bri, ở vùng tả ngạn sông EA
Krông, tỉnh Đăk Lăk
M'nông Đíp, ở tỉnh Bình Phước và Đăk Lăk.
M'nông Bíat, ở tỉnh Bình Phước và bên kia
biên giới Campuchia-Việt Nam.
M'nông Bu Dêh, ở vùng giáp ranh giữa tỉnh
Bình Phước và tỉnh Dăk Lăk.
M'nông Si Tô, ở Đăk Song, tỉnh Đăk Nông.
M'nông káh, ở các huyện Lăk, Đăk Nông,
M'Drăk, tỉnh Đăk Lăk.
M'nông Phê Dâm, ở vùng Quảng Tín, huyện
Đăk Nông, tỉnh Đăk Lăk
Ngoài ra, còn có một số nhóm địa phương
khác của người dân tộc M'nông như: M'nông Rơ Đe, M'nông R'ông, M'nông
K'Ziêng... cư trú ở Campuchia.
Do có nhiều nhóm địa phương như vậy, nên cộng
đồng dân tộc M'nông có nhiều phương ngữ, nhưng chủ yếu là phương ngữ M'nông miền
Đông và phương ngữ M'nông miền Tây; Sự khác nhau giữa các phương ngữ đó là
không đáng kể; Giữa các phương ngữ đó đều dễ dàng nghe và hiểu tiếng nói của
nhau.
Nhà cửa
Người dân tộc M'Nông có cả nhà sàn và nhà
trệt, ngôi nhà trệt của người M'Nông khá đặc biệt bởi chân mái thường buông xuống
gần đất, nên cửa ra vào có cấu trúc vòm như tổ tò vò.
Văn hóa
Người dân tộc M'nông là cư dân nông nghiệp
từ lâu đời. Trong sinh hoạt kinh tế truyền thống, phương thức phát rừng làm rẫy
(mir) chiếm vị trí trọng yếu. Cây lương thực chính của người M'Nông là lúa tẻ.
Số lượng lúa nếp gieo trồng không đáng kể. Ngoài lúa ra, ngô, khoai, sắn cũng
được họ trồng thêm trên rẫy để làm lương thực phụ và nhất là dùng cho chăn nuôi
heo, gà...
Công cụ làm rẫy của người M'nông Gar,
M'nông Chil chủ yếu là: Chà gạc (Viêh), rìu (sùng), gậy chọc lỗ (Rmul), cuốc,
Wăng Wít (dụng cụ làm cỏ) và cào...
Việc săn thú phát triển ở vùng M'nông Gar,
ở địa phương với nhiều kinh nghiệm săn lùng, săn rình và gài cạm bẫy để bắt thú
rừng. Đặc biệt là nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng của người M'nông. Voi rừng
săn được, đem về thuần dưỡng biến thành vật nuôi trong gia đình và được dùng
làm phương tiện vận chuyển đường rừng rất hữu hiệu. Xưa kia, người M'nông còn
dùng voi làm chiến tượng trong chiến tranh bộ lạc...
Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm như: trâu,
bò, dê, lợn, gà, vịt ở người M'nông Gar, M'nông Chil chủ yếu là dùng vào các lễ
hiến sinh mà mỗi năm các gia đình người M'nông thường phải tổ chức nhiều lần
theo chu kỳ nông nghiệp cổ truyền và đời sống của họ...
Nhà của người M'nông Gar, thường có mái
buông chùm gần sát mặt đất, có kiến trúc mái cửa vòm như cửa tò vò, trông rất đẹp
mắt.
Thông thường, mỗi ngôi nhà của người
M'nông Gar, M'nông Chil ở địa phương là nơi cư trú của nhiều hộ gia đình có
quan hệ huyết thống về phía mẹ.
Ở người M'nông Gar, M'nông Chil, ngoài
cách nấu cơm bằng những nồi đất nung, họ còn có thói quen ăn món cháo chua vào
bữa trưa. Khi đi làm rẫy, cháo chua thường được đựng trong vỏ quả bầu khô mang
theo... Thức ăn thông thường của người M'Nông là muối ớt., cá khô, thịt thú ăn
được và các loại rau rừng...
Rượu cần, là một nhu cầu phổ biến đối với
người dân tộc M'nông. Nam, nữ, trẻ, già ai cũng thích rượu cần và thuốc lá cuốn...
Xã hội truyền thống của người M'nông còn bảo
lưu những dấu ấn khá sâu đậm của chế độ mẫu hệ. Người phụ nữ đóng vai trò chủ động
trong hôn nhân. Sau lễ cưới, người con trai thường ở bên nhà vợ. Con cái sinh
ra đều theo dòng họ mẹ và quyền thừa kế tài sản đều thuộc về những người con
gái trong gia đình.
Trước đây, người dân tộc M'nông theo tín
ngưỡng đa thần, đặc biệt là các vị thần nông nghiệp và các vị chư thần giống
như các vị thần của người Cơ Ho, người Mạ. Đạo Thiên chúa và nhất là đạo Tin
lành đã thâm nhập và phát triển vào vùng người dân tộc M'nông.
Trang phục
Trang phục truyền thống của người đàn ông
M'Nông ngày xưa là đóng khố, áo chui đầu, hiện nay trang phục này chỉ sử dụng
trong các dịp lễ hội. Đàn bà M'Nông mặc váy quấn buông dài trên mắt cá chân. Khố,
váy, áo của người M'Nông có màu chàm thẫm được trang trí bằng các hoa văn truyền
thống, màu đỏ rất đẹp mắt.
Người M'nông thích mang nhiều đồ trang sức
như: vòng cổ, vòng tay, vòng chân, hoa tai, nhẫn bằng đồng hay bằng bạc...
Riêng nữ giới còn thích quàng lên cổ những
chuỗi hạt cườm ngũ sắc Những chiếc vòng đồng là cái mà hầu như người M'nông nào
cũng có. Đó là kỷ vật của các lễ hiến sinh, hay lễ kết nghĩa anh em, bạn bè. Nó
còn tượng trưng cho sự giao ước với thần linh thay lời hứa hôn của đôi trai gái
theo tập quán cổ truyền của dân tộc?
Tập quán cưa bằng một số răng cửa đối với
thanh niên nam, nữ đang trưởng thành và xâu thủng lỗ tai để mang đồ trang sức.
Hoa tai thường là một khúc ngà voi, hay một khúc tre vàng óng hay một thỏi gỗ
quý. Dái tai của một số lão ông, lão bà có khi xệ xuống chạm vai và như thế được
coi là đẹp, là người sang trọng. Cùng với tập tục cà răng, căng tai là tập quán
nhuộm răng đen và ăn trầu giống như người Kinh...
Hoàng Mai (sưu tầm trích: Bách khoa toàn thư)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét