Photo
Dân số: 436 người (theo kết quả điều tra
dân số năm 2009 của Tổng cục thống kê)
Ngôn ngữ: tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ
Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), chịu ảnh hưởng nhiều yếu tố ngôn ngữ của dân tộc
Khơ Me và gần gũi với tiếng nói của một số nhóm trong dân tộc Xơ Ðăng. Người Rơ
Măm hiện sử dụng thành thạo tiếng nói của nhiều dân tộc, trong đó có tiếng phổ
thông.
Lịch sử: Những người già làng cho biết họ
là cư dân đã sinh sống ở khu vực này từ xa xưa. Ðầu thế kỷ XX dân số của tộc
này còn khá đông, phân bố trong 12 làng, ở lẫn với người Gia Lai. Hiện họ chỉ sống
tập trung trong một làng.
Cho dù những ngôi nhà kiểu cũ không còn nữa,
nhưng hàng năm các cột nêu ngày lễ đâm trâu, cái nọ tiếp cái kia vẫn đang và sẽ
còn mọc lên với hàng cột vượt lên trên chiều cao của mái nhà, những hàng cây.
Ðó là sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại ở làng Le của người Rơ
Măm hôm nay.
Hoạt động sản xuất: Người Rơ Măm sống bằng
nghề làm rẫy, trồng lúa nếp là chính, thêm một ít lúa tẻ, ngô và sắn. Họ sử dụng
dao phát, rìu để đốn hạ cây, dùng lửa để đốt dọn rẫy, khi gieo trỉa dùng hai gậy
chọc lỗ và một ống đựng hạt. Ðôi bàn tay vẫn là công cụ chính để tuốt lúa. Săn
bắt và hái lượm còn giữ vai trò kinh tế quan trọng. Việc bắt cá dưới suối khá
hiệu quả với đôi tay, rổ, đó và lá độc. Trong số những nghề phụ gia đình, nghề
trồng bông, dệt vải được chú ý phát triển nhất. Vải họ dệt ra trước kia đủ cung
cấp cho nhu cầu mặc của gia đình ngoài ra còn là hàng hoá trao đổi lấy dầu đốt,
muối ăn và các công cụ lao động bằng sắt mà họ không làm ra được.
Ăn: Tập quán ăn bốc còn tồn tại khá phổ biến
vào thời điểm hiện nay. Người dân thích cơm nếp đốt trong ống tre, nứa ăn với
canh và muối ớt. Họ lấy nước từ các mạch ngầm, đựng trong những chiếc vỏ bầu
khô để uống, không cần đun sôi. Những ngày lễ tết, hội hè cư dân uống rượu cần
chế từ các loại gạo, sắn, bắp...
Mặc: Trong xã hội truyền thống, đàn ông Rơ
Măm mặc khố, phía sau buông đến ống chân. Phụ nữ quấn váy và ở trần, một số mặc
áo cộc tay. Váy và khố đều có màu trắng của vải mộc, không nhuộm. Phụ nữ ưa đeo
hoa tai làm bằng ngà voi, nứa hoặc gỗ. Nam nữ thanh niên đều cắt 4 hoặc 6 chiếc
răng cửa của hàm trên, khi bước vào tuổi trưởng thành.
Ở: Làng truyền thống của người Rơ Măm được
dựng theo một trật tự cố định. Nhà ở là loại nhà sàn dài, cất kế tiếp, xung
quanh ngôi nhà chung. Cửa chính của mọi ngôi nhà đều quay nhìn vào nhà rông và
nhà ở của các gia đình là khu sân chơi. Quanh làng có hàng rào bảo vệ. Mỗi nóc
nhà thường có nhiều bếp. Mỗi cặp vợ chồng ở trong một buồng có vách ngăn, với một
bếp riêng. Gian chính giữa nhà là nơi tiếp khách... Tại làng Le, xã Mo Rai, huyện
Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, hiện nay mỗi gia đình sống trong một ngôi nhà cao to, rộng,
thoáng, vách gỗ, mái ngói, do Nhà nước xây dựng.
Phương tiện vận chuyển: Gùi là phương tiện
vận chuyển chính của người Rơ Măm, sử dụng sức mạnh của đôi vai và lưng. Gùi được
đan cải hoa văn bằng nan nhuộm đen. Có loại gùi dành riêng cho việc vận chuyển
công cụ săn bắt, đi rừng, làm rẫy của đàn ông. Có loại gùi lại chỉ sử dụng để vận
chuyển váy, áo, đồ trang sức phụ nữ đem theo khi đi dự lễ tết, hội hè...
Quan hệ xã hội: Ðứng đầu làng là một già
làng, người cao tuổi nhất trong làng, do dân tín nhiệm bầu ra. Làng truyền thống
là một công xã láng giềng. Mọi thành viên quan hệ với nhau dựa trên cơ sở bình
đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Họ không chỉ quan hệ với nhau trong khuôn khổ
làng mà còn quan hệ với làng khác, dân tộc khác qua việc trao đổi hàng hoá và
trao đổi hôn nhân. Quan hệ xã hội ở đây còn lưu giữ khá đậm các tàn dư của thời
kỳ mẫu hệ vào giai đoạn đang chuyển nhanh sang chế độ phụ quyền.
Cưới xin: Việc cưới xin của người Rơ Măm
thường phải qua hai bước chính ăn hỏi và đám cưới. Lễ cưới được tổ chức đơn giản,
chỉ là bữa ăn uống cộng cảm của dân làng để chứng kiến và chúc mừng bữa ăn
chung đầu tiên của cô dâu, chú rể. Tính chất hôn nhân của họ đang ở giai đoạn
tiến lên chế độ phụ hệ. Sau ngày cưới đôi vợ chồng trẻ sống bên nhà vợ 4-5 năm
rồi về ở bên nhà chồng hoặc cư trú luân phiên cả hai bên. Việc ly dị rất ít xảy
ra.
Khi nuôi con, đặc biệt lúc địu con đi xa,
những phụ nữ Rơ Măm đeo trên đầu chiếc vòng có tác dụng trừ tà ma, theo quan niệm
của họ. Trên chiếc vòng, ngoài các chùm chỉ màu, những quả lục lạc nhỏ bằng đồng,
còn có một củ tham hụi mầu vàng, được gia đình trồng trên rẫy.
Nét tiêu biểu trong kiến trúc nhà mồ truyền
thống của người Rơ Măm là hình tượng những cặp ngà voi, được đẽo gọt công phu,
trên đỉnh 4 cây cột dựng ở góc nhà mồ.
Sinh đẻ: Trước kia phụ nữ Rơ Măm sinh đẻ
trong ngôi nhà nhỏ ở ngoài rừng. Ðứa trẻ ra đời được cắt rốn bằng nứa hoặc một
loại lá cây sắc. Mỗi làng có một hay hai bà đỡ là những người phụ nữ đã tuổi,
nhiều kinh nghiệm trong việc sinh nở. Phụ nữ phải kiêng một số thức ăn có nhiều
mỡ, từ khi có thai cho đến lúc đứa trẻ tròn 3 năm tuổi. Gần đây, họ sinh con tại
nhà. Ngày đó người lạ không được vào, nếu ai vi phạm sẽ bị giữ lại trong nhà đến
hết thời gian kiêng cữ và đứa trẻ sẽ được đặt tên trùng với tên người khách lạ.
Ma chay: Người Rơ Măm thường dùng trống để
báo tin trong nhà có người chết. Xác chết được đặt ở mặt trước ngôi nhà, đầu hướng
vào trong, mặt nhìn nghiêng. Việc chôn cất sẽ được tiến hành vào một hai hôm
sau. Các ngôi mộ xếp theo hàng lối sao cho mặt người chết không nhìn hướng vào
làng. Một số ít ngôi mộ chôn chung, từ 2 đến 3 người, thường là những người
thân trong gia đình. Trong lễ bỏ mả có hai người đeo mặt nạ (một nam, một nữ)
đánh trống nhảy múa. Mặt nạ nam có hai sừng trên đầu, mặt nạ nữ có hai chiếc
răng nanh. Kết thúc lễ bỏ mả, hai chiếc mặt nạ được treo lại trên nhà mồ...
Thờ cúng: Người Rơ Măm quan niệm "vạn
vật hữu linh", cả linh hồn con người sau khi chết cũng là lực lượng siêu
nhiên đầy quyền lực và bí ẩn. Ðó là những đối tượng mà họ thờ cúng để cầu mong
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Một trong những lực lượng siêu nhiên được người dân
thờ cúng nhiều nhất là thần lúa. Họ cúng thần lúa vào ngày bắt đầu trỉa giống,
khi lúa lên đòng, trước ngày tuốt lúa... để cầu mong một mùa rẫy bội thu.
Lễ tết: Trong tất cả những nghi lễ được tiến
hành theo chu kỳ sản xuất hay chu kỳ đời người đều có hiến tế các con vật như:
gà, lợn hoặc trâu. Ngày lễ lớn nhất thường được tổ chức sau khi thu hoạch mùa rẫy.
Các gia đình trong làng làm lễ mừng kế tiếp nhau, có thể mỗi ngày một gia đình
hay 4-5 ngày một chủ hộ giết lợn, gà, thậm chí tổ chức đâm trâu mời bà con
trong làng tới dự. Sau lễ mừng lúa mới là thời điểm diễn ra hàng loạt đám cưới
của nam nữ thanh niên và lễ bỏ mả cho người đã chết.
Văn nghệ: Những làn điệu dân ca, những bài
hát giao duyên của nam nữ thanh niên, những câu chuyện kể của người già với bộ
nhạc cụ gồm chiêng, trống và các loại đàn, sáo... được làm ra từ nguồn tre, nứa
trong rừng là yếu tố chính tạo dựng nên nền văn nghệ dân gian của cư dân nơi
đây.
Lý Thị Ninh (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét