Dân tộc Rơ Măm cư trú chính tại làng Le,
xã Mo Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum. Tiếng Rơ Măm thuộc ngữ chi Ba Na của ngữ
tộc Môn-Khmer. Là cư dân sống lâu đời ở vùng đất này. Ðầu thế kỷ XX dân số của
tộc này còn khá đông, phân bố trong 12 làng, ở lẫn với người Gia Lai.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, người Rơ Măm ở Việt Nam có dân số 436 người, có mặt tại 7 trên tổng số 63
tỉnh, thành phố. Người Rơ Măm cư trú tập trung tại tỉnh Kon Tum (419 người, chiếm
96,1% tổng số người Rơ Măm tại Việt Nam), các tỉnh khác có rất ít như Sài Gòn
(9 người), Đồng Nai (3 người).
Đơn vị cư trú của người Rơ Măm là đê
(làng), đứng đầu là một ông già trưởng làng do dân tín nhiệm. Làng Le của người
Rơ Măm nay chỉ còn khoảng 10 ngôi nhà ở, có cả nhà rông. Mỗi nhà có từ 10 đến
20 người gồm các thế hệ, có quan hệ thân thuộc với nhau. Các cặp vợ chồng dù vẫn
sống chung dưới một mái nhà, nhưng đã độc lập với nhau về kinh tế.
Cho dù những ngôi nhà kiểu cũ không còn nữa,
nhưng hàng năm các cột nêu ngày lễ đâm trâu, cái nọ tiếp cái kia vẫn đang và sẽ
còn mọc lên với hàng cột vượt lên trên chiều cao của mái nhà, những hàng cây.
Ðó là sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại ở làng Le của người Rơ
Măm hôm nay.Cho dù những ngôi nhà kiểu cũ không còn nữa, nhưng hàng năm các cột
nêu ngày lễ đâm trâu, cái nọ tiếp cái kia vẫn đang và sẽ còn mọc lên với hàng cột
vượt lên trên chiều cao của mái nhà, những hàng cây. Ðó là sự kết hợp hài hoà
giữa truyền thống và hiện đại ở làng Le của người Rơ Măm hôm nay.
Người Rơ Măm sinh sống bằng nghề làm rẫy,
lúa nếp là lương thực chủ yếu. Khi gieo trồng, đàn ông cầm hai gậy nhọn chọc lỗ,
đàn bà theo sau bỏ hạt giống và lấp đất, săn bắt và hái lượm vẫn giữ vai trò
quan trọng trong đời sống kinh tế. Trong số các nghề phụ gia đình, nghề dệt vải
phát triển nhất nhưng ngày nay đã suy giảm vì người Rơ Măm đã quen dùng các loại
vải công nghiệp bán trên thị trường.
Nhà ở đều có hành lang chính giữa, chạy suốt
chiều dài sàn, ở trung tâm nhà có một gian rộng là nơi tiếp khách và diễn ra
các sinh hoạt văn hóa nói chung của các gia đình.
Việc cưới xin của gia đình Rơ Măm gồm 2 bước
chính: ăn hỏi và lễ cưới. Sau lễ cưới vài ba ngày, vợ chồng có thể bỏ nhau,
nhưng khi đã sống với nhau lâu hơn thì họ không bỏ nhau.
Khi có người chết, sau 1-2 ngày đưa đi mai
táng. Nghĩa địa nằm về phía Tây của làng, các ngôi mộ được sắp xếp có trật tự,
khi chôn, tránh để người dưới mộ “nhìn” về phía làng. Người Rơ Măm không bao giờ
làm nghĩa địa phía Đông, vì sợ cái chết sẽ “đi” qua làng như hướng đi của mặt
trời.
Nét tiêu biểu trong kiến trúc nhà mồ truyền
thống của người Rơ Măm là hình tượng những cặp ngà voi, được đẽo gọt công phu,
trên đỉnh 4 cây cột dựng ở góc nhà mồ.Nét tiêu biểu trong kiến trúc nhà mồ truyền
thống của người Rơ Măm là hình tượng những cặp ngà voi, được đẽo gọt công phu,
trên đỉnh 4 cây cột dựng ở góc nhà mồ.
Người Rơ Măm có phong cách riêng trong tạo
dáng và trang trí trang phục truyền thống, đặc biệt là trang phục nữ. Họ còn có
tục “cà răng, căng tai”. Đến tuổi trưởng thành, trai gái đều cưa cụt 4 hay 6
răng cửa hàm trên. Hiện nay lớp trẻ đã bỏ tục này. Phụ nữ thích đeo khuyên, hoa
tai, vòng tay và đeo những chuỗi cườm ở cổ.
Nam Rơ Măm cắt tóc ngắn, ở trần, đóng khố.
Vạt trước khố dài tới gối, vạt sau dài tới ống chân. Khố thường dùng màu trắng
nguyên của vải mộc. Lưng được xăm hoa văn kín, nhất là những người cao tuổi.
Nữ Rơ Măm thường để tóc dài búi sau gáy.
Áo là loại cộc tay vai thẳng (không khoét cổ như Brâu), thân thẳng, hình dáng gần
vuông giống áo Brâu. Áo màu sáng (màu nguyên của sợi bông) các đường viền cổ và
cửa tay cộc màu đỏ. Gấu áo có dải băng trang trí (cao 1/4 thân áo) bằng màu đỏ,
hoa văn hình học. Váy là loại váy hở màu trắng nguyên sợi bông. Bốn mép váy và
giữa thân váy có các đường viền hoa văn màu đỏ với mô típ hoa văn hình học và sọc
ngang. Họ thường đeo hoa tai vòng to, nặng xệ xuống. Người khá giả đeo hoa tai
bằng ngà voi, người nghèo đeo hoa tai bằng gỗ. Vòng tay là loại bằng đồng nhiều
xoắn. Trang phục truyền thống Rơ Măm phần chính là màu sắc và phong cách trang
trí áo, váy phụ nữ.
Khi nuôi con, đặc biệt lúc địu con đi xa,
những phụ nữ Rơ Măm đeo trên đầu chiếc vòng có tác dụng trừ tà ma, theo quan niệm
của họ. Trên chiếc vòng, ngoài các chùm chỉ màu, những quả lục lạc nhỏ bằng đồng,
còn có một củ tham hụi mầu vàng, được gia đình trồng trên rẫy.Khi nuôi con, đặc
biệt lúc địu con đi xa, những phụ nữ Rơ Măm đeo trên đầu chiếc vòng có tác dụng
trừ tà ma, theo quan niệm của họ. Trên chiếc vòng, ngoài các chùm chỉ màu, những
quả lục lạc nhỏ bằng đồng, còn có một củ tham hụi mầu vàng, được gia đình trồng
trên rẫy.
Tín ngưỡng dân gian của người Rơ-măm chủ yếu
liên quan đến nghề làm rẫy, trồng lúa. Các nghi thức cúng lễ trong quá trình sản
xuất, từ khi phát, đốt rẫy cho đến khi đưa lúa về nhà kho là những sinh hoạt
văn hóa cộng đồng dân làng hết sức quý báu còn lưu giữ được đến ngày nay.
Lễ cúng mừng lúa mới là lễ to nhất và cũng
là tết của người Rơ Măm nhằm tạ ơn Yàng đã cho một vụ mùa bội thu, lúa đầy gùi,
có bắp đầy kho. Người Rơ Măm quan niệm “vạn vật hữu linh”, cả linh hồn con người
sau khi chết cũng là lực lượng siêu nhiên đầy quyền lực và bí ẩn. Ðó là những đối
tượng mà họ thờ cúng để cầu mong một cuộc sống tốt đẹp hơn. Một trong những lực
lượng siêu nhiên được người dân thờ cúng nhiều nhất là thần lúa. Họ cúng thần
lúa vào ngày bắt đầu trỉa giống, khi lúa lên đòng, trước ngày tuốt lúa… để cầu
mong một mùa rẫy bội thu.
Người Rơ-măm có ca dao, tục ngữ, một số điệu
dân ca và truyện cổ. Nhạc cụ của người Rơ-măm gồm chiêng, trống và đàn, sáo….
Những làn điệu dân ca, những bài hát giao duyên của nam nữ thanh niên, những
câu chuyện kể của người già với bộ nhạc cụ gồm chiêng, trống và các loại đàn,
sáo… được làm ra từ nguồn tre, nứa trong rừng là yếu tố chính tạo dựng nên nền
văn nghệ dân gian của tộc Rơ Măm nơi đây.
Đặc biệt tộc Rơ Măm là một trong hai tộc
có dân số ít ỏi nhất (tộc kia là Ơ Đu) trong 54 dân tộc anh em nhưng số lượng cồng
chiêng cổ của họ được người trong tộc bảo toàn gìn giữ còn lại nhiều hơn tất cả
các tộc khác.
Già A Ren rất tự hào về hai bộ chiêng quý
của gia đình. Ảnh TH.Già A Ren rất tự hào về hai bộ chiêng quý của gia đình. .
Người Rơ Măm giữ gìn bản sắc văn hoá
Cồng chiêng là linh hồn của các lễ hội, gắn
liền với đời sống văn hoá, tâm linh của dân tộc, nên các gia đình trong làng đều
một lòng gìn giữ; đồng thời tiếp tục duy trì những lễ hội, phong tục, tập quán
tốt đẹp để tạo “đất” cho cồng chiêng tiếp tục sống…
“Cả làng còn giữ được gần 100 bộ chiêng,
dù cuộc sống còn khó khăn, rất nhiều người cũng đã lân la đến hỏi mua, nhưng
dân làng không ai bán những bộ chiêng quý cả. Cồng chiêng là linh hồn của các lễ
hội, gắn liền với đời sống văn hoá, tâm linh của dân tộc, nên các gia đình
trong làng đều một lòng gìn giữ; đồng thời tiếp tục duy trì những lễ hội, phong
tục, tập quán tốt đẹp để tạo “đất” cho cồng chiêng tiếp tục sống” – Trưởng thôn
A Giói ở làng Le (xã Mô Rai, huyện Sa Thầy) khẳng định quyết tâm bảo tồn những
giá trị văn hoá của người Rơ Măm.
Cồng chiêng – tài sản quý của mỗi gia đình
Làng Le là địa bàn cư trú của 120 hộ dân với
khoảng 460 nhân khẩu người Rơ Măm, đây là 1 trong 2 dân tộc ít người nhất của tỉnh,
nhưng ở đây người dân lại lưu giữ, bảo tồn được số lượng cồng chiêng lớn. Cùng
với đó là không gian văn hoá cồng chiêng cũng được dân trong làng giữ gìn và
phát triển.
Theo đánh giá của Phòng Văn hoá – Thể thao
huyện Sa Thầy, xã Mô Rai là địa phương có số lượng cồng chiêng nhiều nhất trong
huyện với 189 bộ chiêng, riêng làng Le đã có gần 100 bộ, trong đó có 80 bộ
chiêng Hoăn và 20 bộ chiêng Lào. Có nhà còn giữ được tới 2- 3 bộ chiêng như nhà
ông A Glá, A Giói, A Ren…
Có một thời gian, nhiều địa phương đã bị
dòng chảy của đời sống văn hóa hiện đại tràn đến, người dân bị cuốn theo, ngày
càng thờ ơ với giá trị văn hóa truyền thống và vì thế tình trạng “chảy máu” cồng
chiêng diễn ra tràn lan, âm thanh của cồng chiêng vắng dần trong đời sống văn
hoá, tinh thần của đồng bào các DTTS. Không ít gia đình, thôn làng đã bán đi những
bộ chiêng quý; một bộ phận giới trẻ không còn quan tâm tới văn hoá cồng chiêng
và những nét phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc mình.
Thế nhưng, ở làng Le, “cơn bão” ấy dường
như không hề ảnh hưởng tới, bởi người dân ở đây rất coi trọng giá trị của cồng
chiêng và những lễ hội, sinh hoạt văn hoá gắn liền với cồng chiêng. “Dù đời sống
kinh tế của người dân làng Le chưa thể nói là đã khá giả, nếu đem bán hay đổi
những bộ chiêng cổ đi có thể giúp nhiều gia đình bớt khó; thế nhưng, vì yêu quý
tài sản mà cha ông đã để lại, vì sợ văn hoá cồng chiêng bị mai một nên mọi người,
mọi nhà bảo nhau giữ gìn” – Trưởng thôn A Giói tự hào khoe.
Nghe lời giới thiệu của ông A Giói, chúng
tôi tìm đến nhà già A Ren. Già cho biết, nhà ông hiện còn 2 bộ chiêng cổ, mỗi bộ
có 11 chiếc, với ông những bộ chiêng này là tài sản vô giá, dù người ta trả bao
nhiêu cũng không đổi.
Nhà Rông thờ thần Yang Plút và là nơi tổ
chức lễ hội ăn mừng lúa mới. Ảnh ĐV.Nhà Rông thờ thần Yang Plút và là nơi tổ chức
lễ hội ăn mừng lúa mới. Ảnh ĐV.
Già A Ren nói rằng: Có người đòi đổi bằng
trâu nhưng mình từ chối. Trâu bò quý thật, nhưng cồng chiêng là tài sản ông cha
truyền lại nhiều đời, mình có trách nhiệm giữ gìn để còn truyền lại cho con
cháu. Ngày trước, cùng với lúa, trâu, cồng chiêng cũng là loại tài sản mà các
gia đình thể hiện sự giàu có, nhà nào nhiều chiêng nghĩa là nhà đó khấm khá. Nếu
không có cồng chiêng, những lễ hội là nơi gắn kết cộng đồng cũng sẽ không còn ý
nghĩa, đời sống tinh thần, tâm linh cũng sẽ bị mai một mất thôi.
Cùng với việc gìn giữ cồng chiêng, người
dân làng Le còn biết bảo ban nhau học tập, truyền dạy lại cho lớp trẻ cách đánh
cồng chiêng, nhất là những bài chiêng dùng trong các lễ hội của dân tộc Rơ Măm.
“Nếu có dịp đến làng Le vào những ngày cuối tuần hay kỳ nghỉ hè, mọi người sẽ dễ
dàng thấy cảnh lũ trẻ say sưa học đánh cồng chiêng; người già thì nhiệt tình
truyền dạy. Lớp trước dạy lớp sau, cứ thế, bao đời nay, người dân làng Le đã giữ
gìn khá tốt văn hoá cồng chiêng” – Trưởng thôn A Giói cho biết thêm.
Bảo tồn những nét văn hoá đẹp
Người Rơ Măm trước đây vốn có rất nhiều tục
lệ; nhưng ngày nay, đời sống văn hoá ngày càng phát triển, người Rơ Măm cũng đã
từng bước từ bỏ những hủ tục và chỉ lưu giữ những tục lệ, nét văn hoá đẹp, độc
đáo của dân tộc.
Theo già làng A Breng, người Rơ Măm luôn
chú tâm lưu giữ những lễ hội văn hóa đặc sắc của dân tộc mình, trong đó có 3 lễ
hội quan trọng nhất liên quan vòng đời của cây lúa rẫy là: chọc tỉa, cúng mừng
lúa lên đòng và cúng lúa mới. Theo quan niệm của người Rơ Măm, lúa rẫy là món
quà của trời ban, chỉ cần chọc lỗ bỏ hạt xuống mà không cần bón phân, nhọc công
chăm sóc, vậy mà lúa vẫn tốt, vẫn mang về những mùa bội thu nuôi sống người
dân, thế nên từ lúc tra hạt đến khi thu hoạch họ đều làm lễ tạ ơn Yang Plút (tức
thần Ngà voi), theo dân làng thì đây vị thần đã mang may mắn đến cho làng.
Lễ hội chọc tỉa được diễn ra khi các gia
đình chuẩn bị cho vụ sản xuất mới. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi nhà
mà có thể làm lễ to hay nhỏ, nhà khá giả thì đập một trâu hay một con heo, nhà
khó khăn thì giết một con gà, cốt yếu là ở tấm lòng cúng thần, cầu mong một năm
mưa thuận gió hòa để cây lúa phát triển tốt, cho nhiều hạt.
Đến khi lúa chuẩn bị trổ bông, các gia
đình cũng làm một cái lễ đơn giản để cúng Yang Plút, cảm ơn thần đã phù hộ để
cây lúa lên xanh tốt và cầu mong thần tiếp tục phù hộ để một vụ mùa bội thu.
Lễ ăn lúa mới là lễ to nhất, quan trọng nhất
trong các lễ hội của người Rơ Măm, nó được diễn ra khi mùa lúa rẫy đã kế thúc,
lúa đã được phơi khô và cất vào kho, đây cũng được coi là tết của người Rơ Măm.
Cùng với lễ hội, tục lệ ma chay cũng được
người Rơ Măm lưu giữ cho đến ngày nay. Theo lời kể của già làng A Breng, khi
trong nhà có người chết, các gia đình sẽ đánh chiêng để thông báo với dân làng
đến chia buồn, giúp đỡ. Nghĩa địa của người Rơ Măm luôn nằm về phía tây của
làng, bởi theo quan niệm nếu đặt về phía Đông thì khi mặt trời mọc và đi qua
làng, linh hồn người chết cũng sẽ đi theo vào làng, như vậy sẽ không mang điều
tốt đến cho làng. Các ngôi mộ của người Rơ Măm cũng được sắp xếp có trật tự khi
chôn, tránh để người dưới mộ “nhìn” về phía làng. Tuy nhiên, tục lệ ma chay
ngày nay của người Rơ Măm cũng đã có những thay đổi tích cực, đó là các gia
đình không còn chôn chung người chết như trước…
Biên giới Mô Rai mùa này nắng gắt, nắng
xém cả mặt người. Người Rơ Măm ở làng Le cũng mới vừa kết thúc vụ thu hoạch lúa
và tổ chức lễ hội ăn mừng lúa mới. Họ sống lặng lẽ dưới chân núi Chư Mom Ray, nỗ
lực phát triển kinh tế và luôn cố gắng bảo tồn, gìn giữ những giá trị văn hoá tốt
đẹp của dân tộc mình trước những tác động của cơn lốc văn hoá hiện đại đang
tràn về.
Lễ hội Mở cửa kho lúa của người Rơ Măm, Kon Tum
Lễ hội Mở cửa kho lúa của người Rơ Măm
(Kon Tum) là một trong những sinh hoạt cộng đồng, chứa đựng nhiều giá trị văn
hóa tâm linh đặc sắc.
Hàng năm, khi công việc thu hoạch lúa rẫy
đã xong (tức là khoảng tháng 11-12 dương lịch), khi hạt lúa, hạt bắp, hạt kê đã
được đem về cất kỹ trong nhà lúa trên rẫy, người Rơ Măm chuẩn bị các nghi thức
cho việc tổ chức lễ hội Mở cửa kho lúa. Lễ hội được tổ chức trong 3 ngày:
Ngày thứ nhất của lễ Mở cửa kho lúa
Vào buổi sáng tinh mơ, các gia đình mang lễ
vật heo, gà, rượu… lên rẫy để Mở cửa kho lúa. Đến nơi, đàn bà nhóm lửa, đàn ông
chuẩn bị các điều kiện và nghi lễ cần thiết. Ông chủ làm cầu thang cho hồn lúa
theo đó bò về nhà. Chủ nhà khấn xong, lấy rượu trong ghè tưới trước cửa kho
lúa, lấy máu con vật hiến sinh vẩy lên cửa kho và mở cửa kho để người đàn bà lấy
những gùi lúa đầu tiên. Sau đó, chủ nhà cài cành lá xanh lên cửa kho làm dấu và
mọi người gùi lúa về làng.
Lễ đâm trâu của người Rơ Măm, Kon Tum.Lễ đâm trâu
của người Rơ Măm, Kon Tum.
Lúc này, tại nhà Rông, già làng tiến hành
nghi lễ cộng đồng với sự có mặt của tất cả các chủ gia đình. Khi già làng làm lễ
xong, các chủ gia đình lấy ý thiêng từ “Ngọn lửa thần” về nhà mình để nhóm lửa
tại từng bếp gia đình và chuẩn bị cho bữa cơm mới đầu năm.
Buổi chiều cùng ngày, tiến hành dựng cây
nêu. Sau đó, già làng và những người cao tuổi dắt con trâu được chọn và nuôi
riêng trước đó cả tháng ở cánh rừng vào cột lễ làm vật hiến sinh cho Giàng. Mỗi
gia đình mang tối những ghè rượu ngon xếp thành hàng trong không gian
Lễ
hội Đâm trâu
Trong tiếng cồng chiêng rộn ràng, tiếng hò
reo ngân vang, dân làng vung gạo vào con vật hiến sinh. Già làng sẽ buộc con
heo nhỏ vào cây nêu, cắm cần rượu nghi lễ và xin phép được giết con trâu cúng
Giàng. Đội chiêng-xoang nối thành vòng tròn lớn, ngược chiều kim đồng hồ quanh
cây nêu. Già làng làm những động tác nghi thức, sau đó người thanh niên khỏe mạnh
được làng tuyển chọn hoàn thành công việc thiêng liêng của cộng đồng.
Con vật hiến sinh ngã xuống trong tiếng hò
vang của dân làng, không khí lễ hội lúc này lên tới đỉnh điểm, niềm hoan hỉ của
dân làng khi đã cảm thấy được Giàng chứng giám.
Lễ Mở kho lúa
Ngày cuối của lễ hội diễn ra nhiều nghi thức
quan trọng. Nếu như ngày đầu là sự hối hả để chuẩn bị, ngày thứ hai là ngày hội
tưng bừng, thì ngày này, con người như được cởi mở tất cả… Ngày thứ ba cũng còn
được gọi là ngày ăn đầu trâu, già làng làm lễ hạ Giàng. Đám rước Giàng và đầu
trâu lên nhà Rông, già làng làm lễ tại nhà Rông.
Khi phần nghi lễ đã qua đi và nhanh chóng
nhường chỗ cho phần hội, con người hòa nhập vào nhau.Khi phần nghi lễ đã qua đi
và nhanh chóng nhường chỗ cho phần hội, con người hòa nhập vào nhau.
Một nghi thức rất quan trọng được già làng
tiến hành một cách cẩn thận là Lễ rửa Giàng. Sau khi khấn xong, già làng đặt
Giàng lên đúng vị trí trang trọng nhất trên nóc nhà Rông trong niềm vui mãn
nguyện của lòng thành đã được chứng giám.
Những bầu nước được các thiếu nữ gùi về từ
giọt nước đầu làng, họ té nước vào nhau, càng nhiều càng may mắn, từ già làng đến
con trẻ đều háo hức đón những dòng nước mát, giọt nước của may mắn, mạnh khỏe
và yên vui…
Khi phần nghi lễ đã qua đi và nhanh chóng
nhường chỗ cho phần hội, con người hòa nhập vào nhau. Người ta trao đổi với
nhau về mọi mặt của cuộc sống, hiềm thù được xua tan đi, thương yêu thêm thắm lại…
Đặc biệt, lễ hội là một sân khấu nghệ thuật đặc sắc của các nghệ nhân dân gian
hôm qua còn còng lưng gùi lúa, thì hôm nay, lúc này trong ảnh lửa bập bùng của
đêm lễ hội, họ là những diễn viên thực thụ…
Lễ hội Mở kho lúa là một trong những lễ hội
lớn nhất của người Rơ Măm, đánh dấu sự hoàn tất một chu trình sản xuất nông
nghiệp khô, trong một hoàn cảnh sống đặc biệt, gắn với thiên nhiên khắc nghiệt
và núi rừng mênh mông vô tận, là tài sản văn hóa vô giá của người Rơ Măm.
Già làng A Reng “tắm” huyết cho Yang Plút - Ảnh Phạm
Anh.
Chiếc ngà voi hóa thạch thần bí của người
Rơ Măm
Ở giữa nhà rông, già làng A Reng long trọng
mang Yang Plút từ cái giỏ ra đặt giữa sàn nhà rông. Đó là một chiếc ngà voi hóa
thạch, dài chừng 0,5 m, to như bắp đùi người trưởng thành.
Người Rơ Mâm gọi chiếc ngà voi hóa thạch
là Yang PLút, xem nó như báu vật bất khả xâm phạm của dân tộc mình. Chiếc ngà
voi thần bí này được thờ tại một căn nhà rông giữa làng Le, xã Mô Rai, H.Sa Thầy,
Kon Tum.
Rước thần về làng
Nghe nhiều chuyện từ cái ngà voi (Yang
Plút) này, nhưng phải đến lễ hội mừng lúa mới năm nay (diễn ra từ ngày
29-31/10) do Sở VH-TT-DL Kon Tum kết hợp với chính quyền địa phương phục dựng,
chúng tôi mới có dịp đến tận nhà rông của người Rơ Mâm ở làng Le để chờ xem
Yang Plút.
Anh Hạnh, một người Huế sinh sống tại đây
4 năm, có quán buôn bán trước nhà rông bảo nhà rông không có cửa, nhưng đố ai
dám vào nhà này tự tiện xem Yang Plút chứ đừng nói chi đến chuyện trộm cắp nó.
Già trẻ làng Le này, ai cũng xem đó là báu vật bất khả xâm phạm, ngay cả người
trong làng cũng chỉ thấy nó qua lễ hiến tế thần.
Già A Blong (63 tuổi) kể Yang Plút là vật
thiêng của làng có cách đây hàng trăm năm. Ngày trước, dù rời làng bao nhiêu lần
đi chăng nữa, nhưng Yang Plút vẫn không rời dân làng.
Già A Blong nói, ông bà đời trước kể lại rằng
có một người dân làng dắt chó đi săn trong rừng, con chó cứ đến một vị trí
trong rừng là sủa liên tục. Sau đó, cả ngày, con chó và chủ nó đi quanh quanh
trong rừng, cuối cùng cũng đến điểm con chó sủa hồi sáng.
Người dân làng vào bụi xem thì thấy có ngà
voi tại đó mới mang về giấu ở rìa làng, rồi báo chủ làng ra xem. Khi chủ làng
xem xong thì tối ấy nằm mơ thấy Yang Plút hiện về bảo “tao muốn ở lại với làng
mày, sẽ phù hộ cho dân làng mày. Có điều muốn rước tao về thì phải cho tao uống
máu từ tim con trâu, con dê, con heo, con gà…”.
Ngày hôm sau, chủ làng họp hội đồng già
làng lại và làm theo lời Yang Plút nói trong mơ. Từ khi rước về, Yang Plút được
“ở” trong nhà rông của làng, hằng ngày tịch mịch, không ai được tự tiện vào ra ồn
ào, mà để cho thần nghỉ ngơi. Từ đó cho đến giờ, cứ tới lễ hội ăn lúa mới (lễ hội
lớn nhất của người Rơ Mâm) thì dân làng lại tế thần bằng huyết tim từ trâu, dê,
heo, gà và rượu ghè (rượu cần) cầu mong Yang Plút phù hộ cho dân làng cơm no áo
ấm, không có tai ương hỏa hoạn xảy ra với dân làng.
Và cũng từ đây, ngôi mộ nào của người Rơ
Mâm sau lễ bỏ mả cũng đều có khắc tượng nhà mồ có hình sừng voi ở trên. Đến rừng
ma của làng Le, chúng tôi thấy dưới tán rừng rậm rạp cây gòn, cây nứa, dù mộ cũ
hay mới cũng đều có biểu tượng ngà voi trên tượng nhà mồ.
Những chuyện ly kỳ
Chứng kiến lễ hiến tế trước Yang Plút, mới
biết người Rơ Mâm quý linh vật này như thế nào. Buổi chiều trước ngày hiến tế,
dân làng “xin đất” rồi dựng 3 cây nêu, sau đó dắt con trâu trắng, con dê cột
vào cây nêu và trói con lợn treo ở cây nêu lớn. Tiếp theo, già làng A Reng dẫn
đội cồng chiêng vào nhà rông mời thần Yang Plút ra ngoài “vui chơi” với dân
làng.
Chiều tối hôm ấy, tất cả dân làng Le đều
mang gạo đi xung quanh 3 cây nêu ném vào trâu, dê, heo và khấn vái Yang Plút chứng
giám. Từ chiều đến suốt đêm, quanh ánh lửa bập bùng, dân làng già trẻ trai gái
nhảy múa, uống rượu cần ngây ngất.
Uống rượu suốt đêm, nhảy múa suốt đêm
nhưng đến sáng hôm sau, dân làng Le vẫn không quên lễ hiến tế thần Yang Plút.
Dân làng Le sau khi lấy huyết từ tim của các con vật trâu, dê, heo và gà liền
trộn chung trong cái thau làm lễ “tắm” cho Yang Plút.
Hôm ấy, trong tiếng chiêng, tiếng trống rộn
ràng nhưng không kém trang nghiêm ở nhà rông làng Le, khách thập phương và cả
dân làng tụ tập để chứng kiến Yang Plút, bởi đây là cơ hội không dễ gì có được.
Ở giữa nhà rông, già làng A Reng long trọng
mang Yang Plút từ cái giỏ ra đặt giữa sàn nhà rông. Đó là một cái ngà voi hóa
thạch, dài chừng 0,5 m, to như bắp đùi người trưởng thành. Sau đó, già làng A
Reng lấy máu heo gà… tắm cho Yang Plút, miệng thì thầm “nói chuyện”, đại khái
đây là lòng tôn kính của dân làng, Yang Plút hãy “ăn” đi và phù hộ, độ trì cho
dân làng.
Già A Blong kể trước đây trước nhà rông
luôn trồng một cây thuốc và già làng lấy lá thuốc này tắm cho Yang Plút. Thế
nhưng sau này, do chiến tranh loạn lạc hoặc bị ăn cắp mà cây thuốc không còn nữa.
Còn xung quanh Yang Plút, có nhiều chuyện kỳ lạ khó giải thích. Ấy là hồi chiến
tranh, nhà rông bị thiêu cháy toàn bộ, Yang Plút thì được dân làng đem di tản,
nhưng cái cột nhà rông treo cái giỏ đựng Yang Plút thì không hề bị cháy. Dân
làng dựng lại nhà rông rồi lại bị bom cháy mấy lần nữa nhưng lần nào cây cột
treo cái giỏ đựng Yang Plút cũng vẫn nguyên vẹn.
Cũng theo lời kể của già A Blong, trước
đây khi chưa có Yang Plút, làng Le vốn có hòn đá thiêng to như bắp tay. Khi rước
Yang Plút về cho “ở chung” với hòn đá thì trong giỏ lại “đẻ” thêm mấy chục hòn
đá nhỏ khác, to thì như nắm tay, nhỏ thì như đầu ngón chân cái, có hòn như
thiên thạch, hình dẹp chứ không tròn, mà ta hay gọi là búa trời. Đến nay có tổng
cộng 34 hòn đá nhỏ như thế, và hòn đá cuối cùng xuất hiện vào tháng 9/2013.
photo
Trang phục dân tộc Rơ Măm.Trang phục dân tộc Rơ
Măm.
Trang phục dân tộc Rơ Măm
Dù dân số chỉ còn khoảng vài trăm người
nhưng đồng bào Rơ Măm vẫn bảo tồn những giá trị truyền thống trong trang phục,
có phong cách tạo dáng và trang trí, nhất là trên trang của người phục nữ.
Nhìn chung đàn ông, con trai Rơ Măm thường
cắt tóc ngắn ở trần và đóng khố, vạt trước buông dài gần tới đầu gối, vạt sau
dài gần tới ống chân. Khố thường dùng màu trắng nguyên của vải mộc. Lưng được
xăm hoa văn kín, nhất là những người cao tuổi.
Trong khi đó, phụ nữ Rơ Măm thích mặc áo
và váy quấn dài đến ống chân, hoặc quá đầu gối, có trang trí các đường viền màu
hoặc đỏ làm nổi bật lên trang phục và nét duyên dáng của nữ giới nơi đây. Khi
trời lạnh thì choàng thêm chiếc mền, hay mảnh vải cho đỡ lạnh, nếu khi đi chơi,
đi lễ hội thì mặc áo cộc tay, không trang trí hoa văn, không thêu không nhuộm
mà giữ nguyên màu trắng của vải mộc.
Cùng với váy, trang phục của phụ nữ Rơ Măm
không thế thiếu chiếc áo. Áo là loại cộc tay vai thẳng (không khoét cổ như
Brâu), thân thẳng, hình dáng gần vuông giống áo Brâu. Áo màu sáng (màu nguyên của
sợi bông) các đường viền cổ và cửa tay cộc màu đỏ. Gấu áo có dải băng trang trí
(cao 1/4 thân áo) bằng màu đỏ, hoa văn hình học.
Phụ nữ Rơ Măm thích đeo vòng tai bằng ngà
voi, hoặc bằng gỗ quý cùng nhiều đồ trang sức khác như hoa tai, vòng tay… Tục
đeo hoa tai đã có từ lâu. Người khá giả thì đeo hoa tai bằng ngà voi, người
nghèo đeo hoa tai bằng gỗ. Theo lời ông cha truyền lại, vùng đất tộc người Rơ
Măm sinh sống hiếm ngà voi nên họ phải đổi nồi đồng (loại nồi 7, nồi 8),
chiêng, ché… để đổi lấy hoa tai hoặc vòng tai bằng ngà voi.
Không những thế, phụ nữ Rơ Măm cũng thích
xâu lỗ dái tai để đeo vòng, đeo hoa. Có người đeo những chiếc hoa tai có đường
kinh 5- 6 cm, làm cho dái tai sệ xuống gần chấm vai. Hiện nay, tập tục này đang
bị mai một dần. Cả nam và nữ đồng bào Rơ Măm còn thích đeo vòng tay bằng đồng nhiều
xoắn và đeo những chuỗi hạt cườm trên cổ.
Trai gái đến tuổi trưởng thành phải thực
hiện tục cưa răng cửa của hàm trên, từ 4 đến 6 chiếc. Phần lớn thanh niên trẻ
ngày nay đều từ bỏ tục lệ cưa răng lạc hậu.
Trong cộng đồng người Rơ Măm, riêng nghề dệt
phát triển khá mạnh, đủ khả năng và kỹ thuật trồng cây bông vải trên rẫy, cung
cấp cho nhu cầu may mặc của mỗi gia đình, về kinh tế hàng hóa chưa phát triển.
Nhà nào cũng có một vài rẫy bông và được chăm sóc cẩn thận. Trước kia, họ hoàn
toàn tự túc vải mặc nhưng gần đây, khi nền kinh tế thị trường phát triển, đồng
bào Rơ Măm thường mua vải công nghiệp về may quần áo.
Trứng kiến vàng.Trứng kiến vàng.
Ẩm thực độc đáo của người Rơ Măm ở Kon Tum
Ẩm thực của người Rơ Măm ở Kon Tum không
chỉ là món ăn thức uống hàng ngày mà còn là đồ lễ quan trọng tế thần, thể hiện
tấm lòng của con người, dân làng đối với thần linh.
Người Rơ Mâm là một trong những dân tộc có
số dân ít ỏi tại Việt Nam, địa bàn cư trú chính tại làng Le (xã Mo Rai, huyện
Sa Thầy). Nơi đây có những dãy đồi lượn sóng bị chia cắt bởi nhiều sông suối nhỏ
tạo nên thung lũng hẹp, khung cảnh yên bình. Nhờ đó, ẩm thực của người Rơ Mâm
có đầy đủ các sản vật của núi rừng, sông suối, từ các loại rau quả đến côn
trùng, thịt thú rừng. Có thể kể đến một số món ăn tiêu biểu cho ẩm thực người
Rơ Mâm như: Gỏi kiến vàng, Mây đắng nấu cá nhép, Thịt và tiết canh dúi.
1. Gỏi kiến vàng
Người Rơ Mâm dùng kiến vàng và trứng để nấu
canh, trộn gỏi, xào với thịt thú rừng,…nhưng giữ được hương vị thơm ngon nguyên
chất nhất chính là Gỏi kiến vàng.
Kiến vàng có rất nhiều quanh khu vực cư
trú của người Rơ Mâm, không những là loài thiên địch giúp chống lại sự phá hoại
của côn trùng mà còn là món ăn rất ngon, bổ dưỡng. Khi lấy tổ kiến vàng xuống,
người ta đặt một chậu nước phía dưới, lấy gọng dao gõ nhẹ cho kiến rơi xuống chậu,
rồi nhẹ nhàng tách đôi, lấy trứng kiến ra để riêng. Trứng kiến vàng màu trắng đục,
to bằng hạt gạo, có mùi thơm nhè nhẹ.
Cách làm khá đơn giản: Cá suối bắt loại vừa
phải, bằng ba ngón tay, đem về làm sạch, băm nhuyễn, vắt cho cạn nước để đỡ mùi
tanh. Kiến vàng và trứng giã sơ qua, để ngoài nắng một lúc cho se se lại. Lấy
muối hột, ớt xanh, tiêu rừng trộn chung cá với kiến vào, thêm chút thính gạo (bột
gạo rang cháy xém), dậy lên mùi thơm. Khi ăn lấy lá sung cuốn lại vừa miếng và
thưởng thức, vị ngọt của cá suối hòa vào vị béo của trứng kiến, vị cay xé của
tiêu ớt tạo nên món ăn ngon tuyệt vời.
Mây đắng nấu cá nhép.Mây đắng nấu cá nhép.
2. Mây đắng nấu cá nhép
Đây là món ăn thể hiện sự độc đáo trong ẩm
thực của người Rơ Mâm, khi họ kết hợp một cách khéo léo giữa sản vật núi rừng với
sản vật của dòng sông: mây đắng và cá nhét. Mây đắng mọc chằng chịt trong rừng,
dây leo dài đến hàng chục mét, có gai nhọn dày đặc quanh thân. Người dân tộc
thường dùng những cây mây già để đan lát vật dụng như ghế, giỏ, rổ rá,…Còn phần
đợt non, màu trắng ngà bụ bẫm dài khoảng 60-80cm thì khéo léo ngắt về nấu ăn. Đọt
mây được tước bỏ vỏ cứng bên ngoài đi, ngâm trong nước một lúc để không bị thâm
đen, giữ màu trắng ngà đẹp mắt.
Đọt mây nấu cá nhép có màu nâu sánh, thơm
thơm, bùi ngậy rất ngon, cách nâu như sau: Cá nhép dưới suối bắt lên, sơ chế
qua rồi tẩm chút muối hột, đem phơi nắng. Đọt mây sắt nhỏ, trộn với cá nhét,
thêm muối hột, bột ngọt. Món đọt mây nấu cá nhép không thể thiếu một chút thính
gạo (gạo rang cho chín rồi giã nhỏ), chính thính gạo tạo cho món ăn mùi thơm nồng,
rất hấp dẫn. Nấu trong khoảng 15 phút là đem ra dùng được, vị đắng dịu của đọt
mây non, ngọt mềm của cá nhép, mùi thơm của thính gạo, tất cả hòa quyện thành vị
mềm ngon, bùi bùi rất vừa vặn.
Ngoài ra, người Rơ mâm còn sử dụng đọt mây
non để nấu canh hoặc nấu với các loại thịt rừng, làm gỏi, xào,… Dù chế biến
theo cách nào thì đọt mây vẫn giữ được vị đắng dịu đặc trưng, tạo nên sức hấp dẫn
riêng cho món ăn.
Tiết canh dúi.Tiết
canh dúi.
3.
Các món ăn từ thịt dúi
Với
người Rơ Mâm thì thịt dúi là loại thực phẩm thông dụng và được chế biến thành
nhiều món ăn. Nhưng độc đáo nhất phải kể đến tiết canh dúi: thịt được lọc ra
đem luộc chín, băm nhỏ, trộn với tiết. Tiết canh dúi của người dân tộc Rơ Mâm
không giống với tiết canh thông thường ở chỗ họ gia giảm thêm khá nhiều các loại
gia vị như sả, ớt, muối, bột ngọt,
và nhất định không thể thiếu chút bột bắp khô (bột ngô). Tiết canh dúi hơi khô
chứ không ướt như các loại tiết canh khác, có màu đỏ thâm, gia vị át đi vị tanh
khó chịu, mới đầu ăn có cảm giác hơi ngang ngang, khó chịu nhưng khá đậm đà và
dễ ăn.
Chỉ bằng những sản vật thông thường nơi
mình sống người Rơ Mâm cũng đã xây dựng cho mình nét ẩm thực độc đáo thú vị và
ngày càng thu hút được du khách khắp nơi đến thưởng thức.
Triệu Thị Bắc (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét