Người H’mông là một trong những dân tộc thiểu
số có dân số đông ở miền Bắc Việt Nam. Cùng với 53 dân tộc anh em, người H’mông
luôn luôn là một phần của sự thống nhất khối đại đoàn kết dân tộc và góp phần
làm phong phú cho nền văn hoá các dân tộc Việt Nam.
1. Quá trình di cư của người H’mông vào Việt
NamNgười H’mông ở Việt Nam hiện nay đều có nguồn gốc từ phương Bắc. Theo các
truyền thuyết của Trung Quốc thì người H’mông xuất hiện sớm nhất ở khu vực
trung và hạ lưu sông Trường Giang.
Cách đây 5000 năm đã có liên minh bộ lạc do
tù trưởng Suy Vưu làm thủ lĩnh. Suy Vưu tức là Vua của Cửu Lê. Cũng trong thời
kỳ này có liên minh bộ lạc khác do Hiên Viên đứng đầu, nổi lên ở thượng nguồn
sông Hoàng Hà. Hai liên minh bộ lạc này luôn xung đột với nhau, cuối cùng Cửu
Lê bị bại trận, Hiên Viên xưng Hoàng đế (vào khoảng 2.700 năm TCN).Ở thời kỳ của
vua Nghiêu, Thuấn, Vũ (theo truyền thuyết) lại xuất hiện liên minh mới là “Tam
Miêu”, “Hữu Miêu” hoặc “Miêu Dân” và khá hùng mạnh. Họ đã đứng lên chiến đấu rất
kiên cường chống lại các thế lực nhà nước do các Vua đứng đầu.
Trong các thế kỷ
16 đến 11 T.Cn, phần lớn người dân “Tam Miêu” cùng các tộc người khác ở miền
trung lưu Trường Giang được gọi là “Kinh Sở”, có thời kỳ còn gọi là “Nam Man”,
đời sống kinh tế khá phát đạt, có một bộ phận được gọi là “Kinh man” rất cường
thịnh. Đến các triều Ân, Chu, nhà nước Trung Quốc vẫn coi Kinh Man là thù địch.
Từ đó trở đi, sự đối địch giữa Nam Man và Bắc Địch ngày một gia tăng, làm cho
tình hình Trung Quốc không lúc nào được yên ổn.Như vậy từ Cử Lê đến Tam Miêu,
Nam Man, Kinh Sở đều có mối liên hệ về nguồn gốc với nhau. Có thể coi đó là tổ
tiên của người H’mông hiện nay. Lúc đầu người H’mông cư trú ở phía bắc sông
Hoàng Hà, giai đoạn phát triển nhất của họ là Tam Miêu, về sau do sự phát triển
và mở rộng lãnh thổ của người Hán, họ lui dần xuống phía nam của con sông này.
Sau nhiều cuộc chiến diễn ra rất khốc liệt giữa người Hán với người H’mông, người
H’mông luôn thua trận và phải rút về lưu vực sông Dương Tử, rồi vượt qua con
sông này đi về phía Nam và Tây Nam, khu vực giáp giới với 5 tỉnh của Trung Quốc
hiện nay là Hồ Nam (Tương), Quý Châu (Kiềm), Tứ Xuyên (Xuyên), Hồ Bắc (Ngạc) và
Quảng Tây (Quế), lấy Nguyên Giang làm trung tâm.
Theo các nhà dân tộc học Việt Nam thì phần
lớn những người H’mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc đều di cư trực tiếp từ Quý
Châu, Quảng Tây và Vân Nam (Trung Quốc) sang. Riêng một số nhóm ở Thanh Hoá,
Nghệ An di cư đến Việt Nam qua Lào. Người H’mông đến Việt Nam bằng các con đường
khác nhau và chia thành nhiều đợt, trong đó có 3 đợt chính:
– Đợt thứ nhất, khoảng 100 hộ, thuộc các họ
Lù, Giàng từ Quý Châu đến khu vực các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang,
thời gian vào quãng cuối đời Minh, đầu đời Thanh của lịch sử Trung Quốc, tương
đương với những năm có phong trào của người Miêu ở Quý Châu chống lại chính
sách “cải tổ quy lưu” và bị thất bại, cách đây trên 300 năm. Từ đây, họ bắt đầu
tiếp tục di cư vào sâu hơn đến các tỉnh thuộc Đông Bắc Việt Nam
– Đợt thứ hai, khoảng trên 100 hộ, trong
đó có những hộ thuộc họ Vàng, họ Lý cũng vào khu vực Đồng Văn. Còn một nhóm
khác số người ít hơn, thuộc các họ Vàng, Lù, Chấu, Sùng, Hoàng, Vừ vào khu vực
Si Ma Cai, Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Sau đó có khoảng 30 hộ gồm các họ Vừ, Sùng
chuyển sang phía Tây Bắc Việt Nam. Thời gian của đợt di chuyển này cách đây
trên 200 năm. Một số hộ người H’mông này sau đó tiếp tục di cư rải rác đến các
tỉnh của Tây Bắc Việt Nam
– Đợt thứ ba, số người Hmông di cư vào Việt
Nam đông nhất, gồm khoảng trên 10 ngàn người. Phần lớn họ từ Quý Châu, có một số
từ Quảng Tây và Vân Nam sang, chủ yếu vào các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái…
Thời gian của đợt di cư này tương đương với thời kỳ của phong trào “Thái Bình
Thiên Quốc”, trong đó có người Miêu tham gia, chống lại nhà Mãn Thanh từ năm
1840 đến 1868. Về sau, họ tiếp tục di cư đến các huyện của các tỉnh thuộc Đông
Bắc và Tây Bắc Việt Nam.
Về sau hàng năm vẫn có người H’mông di cư
lẻ tẻ sang Việt Nam. Các con đường di chuyển của đồng bào là vào Đồng Văn rồi
xuống Tuyên Quang. Riêng các nhóm H’mông cư trú ở hai tỉnh Thanh Hoá và Nghệ An
và các huyện giáp biên giới Lào của Sơn La như Mai Sơn, Mộc Châu, Sốp Cộp, Sông
Mã cũng từ Lào và các tỉnh miền núi miền Bắc vào trên dưới 100 năm trở lại đây.
Từ sau ngày đất nước ta thực hiện công cuộc
đổi mới (1986), tình hình di chuyển của người H’mông luôn gia tăng, theo hai hướng
Bắc – Nam và Đông – Tây. Vì vậy, số địa phương có người H’mông sinh sống ngày
càng tăng lên đáng kể.
2. Vài nét về dân số người H’mông ở Việt
Nam
Trước năm 1960, dù có một số tài liệu được
công bố về dân tộc H’mông, vẫn chưa có một công trình nào xác định được chính
xác dân tộc H’mông ở Việt Nam có bao nhiêu người. Chỉ đến ngày 1 – 3 – 1960, với
cuộc Tổng điều tra dân số toàn miền Bắc, người ta mới biết được người H’mông có
105.521 người. Đến cuộc tổng điều tra dân số toàn miền Bắc lần thứ hai ngày 1 –
4 – 1974, người H'mông có 348.722 người.
Như vậy, sau 14 năm dân số người H’mông
tăng thêm 243.201 người. Tại cuộc Tổng điều tra dân số toàn quốc lần thứ nhất
(1 – 10 – 1979), dân số H’mông là 411.074 người. Ở cuộc Tổng điều tra dân số
toàn quốc lần thứ hai (1 – 4 – 1989), dân số H’mông là 558.053 người, vậy là
sau khoảng 10 năm, dân số H’mông tăng thêm 146.979 người, bình quân hàng năm
trong giai đoạn này tăng 3.2%. Đến cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam
lần thứ ba (1 – 4 – 1999), dân số H’mông là 787.604 người, sau 10 năm tăng thêm
229.551 người, bình quân tăng hằng năm là 3.4%. So với các dân tộc ở Việt Nam,
tốc độ tăng dân số bình quân của người H’mông thuộc loại cao.
Người H’mông không những có tỉ lệ phát triển
dân số cao mà còn có tốc độ di chuyển dân cư khá lớn. Nếu như năm 1960 họ chỉ
có mặt ở 398 xã, năm 1979 có mặt ở 677 xã, thì năm 1989 họ đã có mặt ở 802 xã
và năm 1999 có mặt ở trên 1.000 xã. Chỉ tính ở cuộc Tổng điều tra dân số và nhà
ở năm 1999, họ đã có mặt ở tất cả các vùng trong cả nước, đông nhất là khu vực
Đông Bắc 445.782 người (56.60%), tiếp đến là Tây Bắc 289.000 người (36.69%), Bắc
Trung Bộ 39.373 người (4.99%), Tây Nguyên 12.392 người (1.57%), đồng bằng Sông
Hồng 533 người, Đông Nam Bộ 431 người và đồng bằng sông Cửu Long 53 người.
H’mông là một dân tộc có dân số tương đối
đông (trên 9 triệu người), cư trú ở nhiều nước khác nhau trên thế giới, trong
đó đông nhất là ở Trung Quốc (khoảng 7,5 triệu người). Ở Việt Nam, người H’mông
có trên 80 vạn, ở Lào – khoảng 25 vạn, ở Thái Lan – 15 vạn… Trong vài ba thập
niên gần đây, người H’mông còn có mặt ở một số nước ngoài châu Á như: Pháp, Mỹ,
Canada, Ốtxtrây lia …
Ở nước ta, người H’mông nằm trong nhóm các
dân tộc nói ngôn ngữ H’mông – Dao (gồm ba dân tộc: H’mông, Dao và Pà Thẻn). Trước
năm 1979, họ được gọi là người Mèo. Ở Trung Quốc, người H’mông được gọi là người
Miêu. Ở Lào gọi là người Mẹo. Hiện nay, ngoài Trung Quốc, còn ở hầu hết các nước
trên thế giới, họ đều được gọi là H’mông.
Gần đây có người cho rằng, nên gọi dân tộc
này là Mông, thay cho H’mông, nhưng cũng có những ý kiến khác không tán thành
và cho rằng bản thân trong chữ viết của họ, người H’mông viết tên dân tộc mình
là Hmôngz; lại có ý kiến cho rằng Mông là một tục từ không được đẹp và ảnh hưởng
đến tinh thần tự tôn của dân tộc này. Một số nhà khoa học nước ngoài có lưu ý,
nếu viết là Mông thì có thể nhầm với dân tộc Mông ở Mông Cổ và Trung Quốc… Vì vậy,
theo chúng tôi viết tên dân tộc này là H’mông, đó là cách viết chính xác nhất.
Hiện nay ở nước ta có các nhóm H’mông như sau:
1. H'mông Đơ hoặc H'mông Đâu (H'mông trắng).
2. H'mông Đu (H'mông Đen).
3. H'mông Si (H'mông Đỏ).
4. H'mông Dua (H'mông Xanh).
5. H'mông Lềnh (H'mông Hoa).
6. H'mông Xúa (H'mông Lai).
7. Ná Mẻo (H'mông Nước).
Riêng nhóm Ná Mẻo, cho đến nay cũng có các
ý kiến khác nhau, vì sống tách biệt với cộng đồng H’mông nói chung và sống kề cận
với các dân tộc nói ngôn ngữ Tày – Thái, Việt – Mường nên hiện có những đặc điểm
riêng, có thể là một nhóm dân tộc H’mông hoặc là một nhóm của dân tộc khác, cần
được nghiên cứu tiếp.
H’mông Đơ hoặc H’mông Đâu (H’mông trắng)
Tộc người H’Mông sinh sống chủ yếu ở Sa Pa
là người H’Mông Đen do quần áo của họ toàn màu đen nhưng trang phục của họ lại
khác hẳn người H’Mông Đen ở nơi khác, vì thế thường được gọi là người H’Mông Sa
Pa. Người đàn ông thường mặc quần màu đen hoặc xanh đen (màu chàm) giống nhau,
áo cánh ngắn tay bên ngoài khoác áo không tay kiểu như áo gilê có vạt dài quá
mông. Trên đầu đội một cái mũ bé tí, tròn, nông, ôm lấy đỉnh đầu trông như cái
mũ của Giáo hoàng, có chiếc đen tuyền, có chiếc còn viền một vòng thêu thổ cẩm.
Mũ của đám con trai còn được khâu thêm vào các dải vải màu hoặc các đồng tiền lủng
lẳng. Người phụ nữ cũng mặc đồ đen, trên đầu cũng đội một chiếc khăn đen, vành
thẳng đứng như một cuộn giấy cao vượt đỉnh đầu. Bên ngoài là một chiếc áo khoác
không có tay, vạt dài gần tới gối như của đàn ông. Chiếc áo khoác này được lăn
ép bằng sáp ong vì thế có màu đen ánh bạc. Để giữ gìn, nhiều khi người ta mặc lộn
mặt trái có màu trắng ra ngoài. Đặc biệt nhất là phụ nữ H’Mông Sa Pa lại mặc quần
ngắn ngang đầu gối chứ không mặc váy. Họ cuốn xà cạp quanh bắp chân rất khéo bằng
một băng vải hẹp.
H’mông Đu (H’mông Đen)
Phong tục văn hoá của dân tộc H’mông.
Đồng bào có câu "Lửa cháy đến đâu người Mông theo đến đó" hay "Người chạy theo nương" để nói về cuộc sống du canh nương rẫy. Sản phẩm
nông nghiệp chính là ngô, lúa nương, khoai, mạch ba góc, ý dĩ, lạc, vừng, đậu
và các loại rau… ở một vài nơi có ruộng bậc thang. Các loại quả táo, đào, mận,
lê cũng rất nổi tiếng và đồng bào còn trồng cả các loại cây thuốc như tam thất,
xuyên khung, đảm xâm…
Nghề dệt vải lanh là một trong những hoạt
động sản xuất đặc sắc của người H’mông. Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công
như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng; làm giấy bản,
đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ
công H’mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp, làm ra những sản phẩm nổi tiếng
như lưỡi cày, dao, cuốc, xẻng, nòng súng đạt trình độ kỹ thuật cao.
Người H’mông sống quần tụ trong từng bản
có vài chục nóc nhà, họ thường thích sống khép kín, nhiều nơi đồng bào xây tường
đá ngang đầu quanh nhà ở. Nhà cửa là loại nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai
đến ba cửa. Phổ biến là nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh. Quanh làng vẫn
còn lại đến ngày nay những ngôi nhà của người H’mông giàu có, trình tường xung
quanh, cột gỗ thông kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói âm
dương có gác lát ván.
Các vùng người H’mông sinh sống thường có
chợ phiên, vừa là nơi trao đổi hàng hoá, vừa là nơi thể hiện nhu cầu giao lưu
tình cảm, sinh hoạt. Người H’mông quen dùng ngựa thồ hàng và cưỡi đi chợ, gùi
có hai quai đeo vai. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình người
H’mông. Chợ tình được tổ chức mỗi năm một lần (chợ tình Sa Pa) là một nét văn
hoá đẹp đặc sắc của người H’mông.
Người H’mông rất coi trọng dòng họ, họ
quan niệm: người cùng dòng họ là những người anh em có cùng tổ tiên, có thể đẻ
và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau, cưu mang nhau. Mỗi dòng họ
cư trú quây quần thành một cụm, có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung.
Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người
trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin
nghe.
Người H’mông cũng như nhiều dân tộc ít người
khác tồn tại tín ngưỡng đa nguyên. Thờ cúng tổ tiên là thờ những người trong
gia đình đã chết ba đời trở lại. Thờ cúng tổ tiên ở tất cả gia đình những người
con trai đã tách ra ở riêng chứ không phải chỉ con trưởng. Bên cạnh thờ cúng tổ
tiên, người H’mông còn tồn tại một hệ thống ma nhà với những lễ thức cúng bái
riêng biệt.
Hôn nhân gia đình của người H’mông theo tập
quán tự do kén chọn bạn đời. Những người cùng dòng họ không lấy nhau. Thanh
niên nam nữ được lựa chọn bạn đời. Việc lựa chọn bạn đời được biểu hiện ở tục
“cướp vợ” trước đây. Người thanh niên cùng bạn bè cướp người con gái yêu thích
về ở nhà mình vài hôm rồi thông báo cho gia đình nhà gái biết. Vợ chồng người
H’mông rất ít bỏ nhau, họ sống với nhau hòa thuận, cùng làm ăn, cùng lên nương,
xuống chợ…
Trang phục của người phụ nữ H’mông rất sặc
sỡ, đa dạng giữa các nhóm dân tộc, gồm: váy, áo xẻ ngực có yếm lưng, tấm xiêm
che trước bụng, thắt lưng, khăn quấn đầu, xà cạp quấn hai bụng chân. Váy hình
nón cụt, xếp nếp xòe rộng chữ thập trong các hình vuông, nhưng váy mang hình ống,
khi mặc mới xếp nếp thắt lưng ngoài cạp; Áo mở chếch ngực về phía bên trái, cài
một khuy, cánh tay, cổ áo, gấu áo đều thêu hoa văn…Đồ trang sức bao gồm khuyên
tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn.
Trang phục của đàn ông H’mông giống như
đàn ông Nùng: quần dài, đũng chân què cạp lá tọa, áo ngắn ống rộng cổ đứng mổ bụng
khuy cài, quần áo đều màu chàm.
– Dân tộc H’mông hay Mông, Na Miẻo còn có
các tên gọi khác là Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.- Nhóm địa phương: Mông Đơ
(Mông Trắng), Mông Lềnh (Mông Hoa), Mông Sí (Mông Đỏ), Mông Đú (Mông Đen), Mông
Súa (Mông Mán), Mông Xanh.- Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông – Dao- Theo Tổng
điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Mông ở Việt Nam có 1.068.189 người, cư
trú tập trung tại các tỉnh Hà Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng
…
Người H’mông có đời sống văn nghệ khá
phong phú, đặc biệt là văn học truyền miệng có rất nhiều thể loại, như Truyện
thần thoại về anh hùng văn hóa tìm ra loại giống và dạy người H’mông cách trồng
ngô, lúa, trồng lanh làm vải mặc … Truyện cổ tích về các con vật chiếm khá nhiều,
đặc biệt là truyện về hổ…
Người H’mông say đắm dân ca dân tộc mình,
đó là Tiếng hát tình yêu (gầu plềnh), Tiếng hát cưới xin (gầu xuống)… mà họ thường
hát khi lao động nương rẫy, trong lúc se sợi dệt vải, trong khi đi chợ, đi hội.
Trong những dịp lễ hội, đặc biệt là hội Gầu
tào (đón năm mới), những bài hát dân ca này không chỉ thể hiện bằng lời mà còn
có thể giãi bày thông qua những nhạc cụ dân tộc (sáo, khèn, kèn lá, đàn môi…).
Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để
thanh niên trao đổi tâm tình. Sau một ngày lao động mệt mỏi, thanh niên dùng khèn,
đàn môi gửi gắm và thể hiện tiếng lòng mình với bạn tình, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc
sống, của quê hương, đất nước.
Trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, dân tộc
H’mông là một trong những dân tộc ít bị mai một hơn về bản sắc văn hóa truyền
thống của dân tộc. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế như hiện nay, để phát triển
mà không bị hoà tan, mất bản sắc, thì việc bảo tồn văn hoá dân tộc đòi hỏi phải
có sự nghiên cứu, tâm huyết, bền bỉ, lâu dài. Có như thế những giá trị văn hoá
sẽ mãi mãi được gìn giữ và phát huy./.
Tài liệu tham khảo:
1. Lã Văn Lô (1973): Bước đầu tìm hiểu các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
2. Người Hmông ở Việt Nam. Nxb Thông tấn,
Hà Nội, 2005.
3. Lò Giàng Páo (1997): Tìm hiểu văn hoá
vùng các dân tộc thiểu số. Nxb Văn hoá, Hà Nội.
Trang phục của người H’mông
Người H’mông có nhiều chi: H’mông Đơ (trắng),
H’mông Lềnh (vàng), H’mông Sy (Đỏ), H’mông Súa (Hoa), H’mông Đu (Đen). Một bộ
trang phục cổ truyền của phụ nữ gồm váy hình nón cụt, xếp nếp, phần mông bó chặt,
phần thân váy xòe rộng. Áo có cổ lật ra phía sau gáy. Thắt lưng buông hai dải
dài phía sau. Tấm vải che đằng trước váy. Vuông vải che ở phía mông. Khăn quấn
đầu. Xà cạp và tấm áo khoác ngoài không có tay, có cổ lật ra phía sau gáy. Tất
cả các chi trong dân tộc H’mông đều có kỹ thuật thêu khá tinh vi và có truyền
thống giỏi trong trang trí bằng hình chắp vải mầu, vẽ sáp ong trên vải để lấy họa
tiết mầu trắng trên nền mầu chàm. Hầu hết các họa tiết được thêu, vẽ, chắp vải
trên nền vải lanh trắng hoặc vải đỏ, có định hình sẵn là các bộ phận của áo,
váy. Sau khi hoàn thiện đồ án trang trí từng bộ phận riêng lẻ, người ta mới may
ráp, hoàn chỉnh váy, áo… Đó là cách làm riêng của người H’mông, khác các dân tộc
anh em đã thể hiện trang trí ngay trên thành phẩm của mình.
Quần áo của người Mông chủ yếu may bằng vải
tự dệt, đậm đà tính cách tộc người trong tạo hình và trang trí với kỹ thuật đa
dạng. Chỉ với 4 màu chủ đạo xanh, đỏ, trắng, vàng của chỉ tơ tằm mà họa tiết của
trang phục đã tỏa ra muôn sắc màu, tạo cảm giác trầm ấm. Trang phục của phụ nữ
Mông có họa tiết hoa văn đẹp từ khăn đội đầu đến xà cạp quấn chân. Phụ nữ Mông
trắng trang phục có họa tiết tập trung ở cổ áo, nẹp áo, thắt lưng, bồ giáo phía
trước. Phụ nữ H’Mông Hoa trang trí họa tiết ở trang phục phong phú hơn, ở cả
khăn đội đầu, cổ áo, nẹp áo, thắt lưng, bồ giáo, thân váy, xà cạp… kỹ thuật
thêu hoa văn của người H’Mông rất phức tạp và vì thế, nó thể hiện sự tinh tế của
người phụ nữ H’Mông. Cách bố cục và họa tiết trên trang phục của người Mông còn
thể hiện sức sống, bản lĩnh của người Mông trước thiên nhiên…
Trang phục của người H'mông rất sặc sỡ, đa
dạng giữa các nhóm.
Phụ nữ H'mông Trắng trồng lanh, dệt vải
lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để
chỏm, đội khăn rộng vành.
Phụ nữ H'mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu
hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu.
Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.
Phụ nữ H'mông Ðen mặc váy bằng vải chàm,
in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.
Phụ nữ H'mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ H'mông
Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra
ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.
Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp
ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình
chữ thập.
Trang phục nam: Nam thường mặc áo cánh ngắn
ngang hoặc dưới thắt lưng, thân hẹp, ống tay hơi rộng. Áo nam có hai loại: năm
thân và bốn thân. Quần nam giới là loại chân què ống rất rộng so với các tộc
trong khu vực. Đầu thường chít khăn, có nhóm đội mũ xung quanh có đính những
hình tròn bạc chạm khắc hoa văn, có khi mang vòng bạc cổ, có khi không mang.
Trang
phục nữ: Phụ nữ H’Mông thường mặc áo
bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo không khâu hoặc cho vào trong váy. Váy
là loại váy kín, nhiều nếp gấp, rộng, khi xòe ra có hình tròn. Váy được mang
trên người với chiếc thắt lưng vải được thêu trang trí ở đoạn giữa. Khi mặc váy
thường mang theo tạp dề. Tạp dề mang trước bụng phủ xuống chân là ‘giao thoa’
giữa miếng vải hình tam giác và chữ nhật; phần trang trí hoa văn là miếng vải
hình tam giác cân phía trên, miếng hình chữ nhật là màu chàm đen, kích thước
tùy từng bộ phận người H’mông. Phụ nữ thường để tóc dài quấn quanh đầu, có một
số nhóm đội khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ trang sức bao gồm khuyên tai,
vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn.
Vifash
(tổng hợp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét