Trang phục phụ nữ Khơ Mú trong lễ tết.
Người Khơ Mú ở Yên Bái sống tại 2 huyện
Văn Chấn và Trạm Tấu, nhưng chủ yếu tập trung tại xã Nghĩa Sơn, huyện Văn Chấn.
Cộng đồng người Khơ Mú tại Yên Bái tuy ít, sống rải rác và chịu ảnh hưởng nhiều
của người Thái song đời sống văn hoá của người Khơ Mú vẫn là một kho tàng lớn cần
được bảo tồn và phát huy.
Người Khơ Mú còn có tên gọi khác là Xá cẩu
hay Tày hạy. Người Khơ Mú chưa có chữ viết riêng, ngôn ngữ thuộc nhóm Môn - Khơ
Me (ngữ hệ Nam Á). Dân tộc Khơ Mú có truyền thống hái lượm gắn bó với nương rẫy
khác với văn minh lúa nước gắn với ruộng đồng của người Thái, nên dân gian có
câu "Xá ăn theo lửa, Thái ăn theo nước". Người Khơ Mú trồng lúa
nương, trồng ngô, khoai sắn, bầu bí, các loại cây có củ quả… Phương tiện làm là
rìu, dao, cuốc xẻng, phương tiện tra hạt là gậy gỗ đặc để chọc lỗ bỏ hạt. Ngoài
trồng trọt, đồng bào còn chăn nuôi trâu, lợn, gà. Do canh tác nương rẫy nên nghề
đan lát phát triển và trở thành nghề truyền thống, nhất là đan các vật dụng để
gùi, thồ… Trong đó eng là phương tiện vận chuyển thông dụng tiện lợi được đan rất
cầu kì. Eng như chiếc gùi của người Mông nhưng miệng loe, có quai to, giữa có một
miếng vải đệm, vắt qua trán người, tạo nên điểm trên lưng và trán, làm cân đối
giữa lực cơ thể và trọng lượng hàng hoá trên eng.
Người Khơ Mú cũng làm nhà sàn, thường làm
ba gian và có phần sơ sài hơn nhà của người Thái và người Mường. Đáng chú ý là
trong nhà có ba chiếc bếp ở ba gian. Chiếc bếp ở gian giữa, giáp hàng cột cái
là bếp quan trọng nhất, hay còn gọi là bếp thờ, bếp cúng. Bàn thờ ma nhà được đặt
trên gác bếp thờ. Bếp ở gian ngoài cửa chính đi vào là bếp nấu nướng thông thường
hằng ngày. Còn bếp trong cùng chỉ để xôi cơm và nấu rượu vào những sự kiện quan
trọng của gia đình biểu thị sự no đủ, sung túc. Khách lạ không được đến bếp thờ
và bếp xôi cơm, nấu rượu, vì theo quan niệm của người Khơ Mú thì dễ đem điều rủi
đến cho chủ nhà.
Trong quan hệ hôn nhân được người Khơ Mú
chú trọng. Nam, nữ thanh niên đến tuổi cập kê thì được tự do tìm hiểu, yêu
đương. Nhờ vậy mà gia đình trẻ Khơ Mú sống gắn bó, hạnh phúc. Lễ cưới truyền thống
của người Khơ Mú có nhiều lễ thức khác nhau như: Lễ thức tự do yêu đương tìm hiểu,
dạm hỏi, đặt mối, nghi thức xin ở rể, lễ cưới và lễ lại mặt. Người Khơ Mú có tục
cưới rể từ một năm trở lên tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nhà.
Các dòng họ người Khơ Mú thường mang tên một
loài cây, hay tên một loài thú, tên một loài chim. Mỗi dòng họ đều coi loài
cây, loài thú, hay loài chim đó là tổ tiên ban đầu của dòng họ mình nên họ
kiêng giết, ăn thịt các loại thú, chim, cây đó.
Thế giới tâm linh của người Khơ Mú rất tin
vào các loại ma (hrôi). Trong tâm linh người Khơ Mú rất tin vào các loại
"ma", đặc biệt là "ma trời", "ông sét”, “ma đất”, “ma
rừng”, “ma nương”, “ma nhà", "ma tổ tiên"… Trong một năm, đồng
bào có những nghi lễ tôn giáo chính như: cúng ma nương, ma bản, thờ cúng tổ
tiên và các nghi lễ liên quan đến lao động sản xuất.
Trong trang phục của người Khơ Mú ở Yên
Bái chịu ảnh hưởng nhiều của ttrang phục người Thái đen. Cũng có khăn piêu, áo
cỏm đen, váy dài bằng vải đen, nhưng áo cỏm của người Khơ Mú có hàng mắc pém
hình khối chữ nhật đối diện, dọc 2 bên mắc pém có bộ dải hình các hình tròn nhỏ,
tượng trưng cho mặt trời, ở giữa dải có đính những đồng tiền bạc thể hiện sự
mong ước giàu sang phồn thịnh luôn được vị thần mặt trời sưởi ấm, che chở. Khăn
đội đầu giống khăn piêu của người Thái. Khi đội, các cô gái Khơ Mú gập đôi theo
chiều dọc của khăn rồi quấn quanh đầu và luồn một đầu khăn qua vành quấn vắt ra
ngoài phía trước trán.
Làn điệu dân ca quen thuộc nhiều người ưa
thích là Tơm. Làn điệu này mang đậm tính sử thi, trữ tình, cách hát theo kiểu đối
đáp. Hát Tơm sử dụng nhiều trong các lễ hội, cưới xin, các việc trọng đại của
làng bản, dòng họ và của gia đình. Một đoạn trong hát Tơm xin dâu trong lễ cưới
của người Khơ Mú:
-"Tại sao bà không quay lại ngồi bên
đây? Bà không muốn cho con gái về làm dâu bên nhà tôi sao?"
-"Nghe tiếng bà em thích lắm, trong
lòng em nó bảo thế. Con về nhà làm dâu, nó chưa biết việc thì mong gia đình bên
đó chỉ bảo."
-"Nghe tiếng bà rất hay. Hôm nay là
ngày tốt tháng lành nên mới được ngồi cùng nhau, cảm ơn ông bà đã sinh ra con
gái nuôi khôn lớn cho tới hôm nay, con trai chúng tôi may mắn được quen biết,
được gặp mặt và mới có ngày hôm nay"
-"Con
gái còn nhỏ, chưa biết gì, lớn
lên thì đi lấy chồng, sợ nó không biết làm ăn, sợ nó không biết cách sống, trồng
cấy… mong ông bà bên đó chỉ bảo dạy dỗ…"
Người
Khơ Mú thích xoè, múa, thổi các loại sáo, các bộ gõ bằng tre, nứa tự tạo, đặc
biệt là thổi kèn môi.
Dân
tộc Khơ Mú có truyền thống văn hoá,
phong phú. Tuy cuộc sống vật chất của người Khơ Mú còn nghèo, nhưng cuộc sống tinh
thần, các lễ hội dân gian khá dồi dào và luôn được đồng bào ưa thích và nhiệt
tình tham gia. Đời sống văn hoá của người Khơ Mú là một kho tàng văn hoá cần được
giữ gìn và phát huy.
Vi Đức Thịnh (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét