Tên gọi khác: Châu Ro, Dơ Ro, Chro, Thượng.
Dân số:
26.855 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng
nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử: Họ
là lớp cư dân cư trú từ xa xưa ở miền núi Nam Ðông Dương.
Người
Chơ Ro cư trú ở vùng núi thấp, nhiều sống suối. Họ không chỉ dùng lá độc cùng
các loại công cụ như: rổ, đó... để đánh bắt tôm cá mà còn đan đó đnông để nhốt
cá, dự trữ thức ăn
Hoạt động sản xuất: Người Chơ Ro chủ yếu làm rẫy, canh tác theo lối phát đốt
rồi chọc lỗ tra hạt. Cách phân bố các loại cây trồng trên rẫy khá độc đáo. Vòng
ngoài cùng của rẫy thì trồng một số loại cây dây leo như: bầu, bí, mướp, đậu
ván... vòng trong trồng sắn. Toàn bộ diện tích còn lại phía trong là trồng lúa
có xen canh vừng. Hiện nay, ngoài lúa rẫy, một số nơi đã làm ruộng nước có trâu
cày. Việc săn bắn, hái lượm thường tập trung vào thời gian nông nhàn (khoảng
tháng 6, 7 âm lịch). Nghề làm vườn, chăn nuôi trong gia đình và thủ công nghiệp
chưa phát triển. Chỉ có nghề đan lát bằng tre, mây nứa là phổ biến. Trước đây một
số người Chơ Ro đã là phu đồn điền nhưng chỉ với tư cách là những thợ rừng, họ
vẫn có rẫy để canh tác.
Ăn: Người Chơ
Ro ăn cơm tẻ là chính, hút thuốc lá sợi bằng tẩu. Thức uống có rượu cần. Nam nữ
đều ưa thích ăn trầu cau.
Mặc: Xa xưa
đàn ông đóng khố, đàn bà quấn váy tấm. Mùa hè ở trần hay mặc áo cánh ngắn, mùa
lạnh thường khoác trên mình một tấm chăn. Nhưng ngày nay, đại đa số người Chơ
Ro đã ăn mặc theo lối của người Việt cùng địa phương. Ðiều mà khách qua đường
có thể nhận biết được người Chơ Ro là họ thường cõng trên lưng một cái gùi. Ðàn
bà thường đeo ở cổ những chuỗi hạt cườm ngũ sắc hoặc vòng đồng, vòng bạc hay
nhôm. Thiếu nữ thường mang kiềng, dây chuyền và đeo vòng tai rộng vành.
Người
đàn ông Chơ Ro nào cũng biết đan nát thành thạo. Sản phẩm của họ là các loại
gùi để vận chuyển lương thực, đi thu hái rau quả và nhiều đồ gia dụng khác. Một
trong những sản phẩm độc đáo của nghề đan nơi đây là chiếc võng đan bằng mây.
Ở: Hiện nay,
người Chơ Ro sống tập trung ở vùng núi thấp thuộc tây nam và đông nam tỉnh Ðồng
Nai. Nơi có số người Chơ Ro cư trú nhiều nhất là các xã: Xuân Bình, Xuân Trường,
Xuân Thọ, Xuân Phú thuộc huyện Xuân Lộc; rồi thứ đến là các xã Hắc Dịch, Phước
Thái, Ngãi Dao, Bàu Lâm thuộc huyện Châu Thành. Rải rác tại tỉnh Sông Bé và Bà
Rịa, ven quốc lộ 15 cũng có một số gia đình Chơ Ro sinh sống. Trước khi có mặt
tại những địa điểm nói trên, họ đã từng cư trú chủ yếu tại Bà Rịa - Long Khánh.
Từ giữa thế kỉ XX trở lại đây, người Chơ Ro tiếp thu ngày càng mạnh mẽ văn hoá
- nếp sống của người Việt ở miền Ðông Nam bộ. Trước đây, họ ở trên những ngôi
nhà sàn cao, cửa ra vào mở ở đầu hồi. Ðến nay phổ biến ở nhà đất. Họ đã tiếp
thu lối kiến trúc nhà cửa người nông dân Nam bộ: nhà có vì kèo. Nét xưa còn giữ
được trong ngôi nhà là cái sạp nằm, chiếm nửa diện tích theo chiều ngang và dài
suốt từ đầu đến cuối phần nội thất. Một số nhà có tường xây, mái ngói.
Phương tiện vận chuyển chủ yếu của người Chơ Ro là cái
gùi đan bằng tre, mây, cõng ở trên lưng.
Quan hệ xã hội:
Trong cơ cấu xã hội Chơ Ro, các quan hệ của gia đình mẫu hệ đã tan rã nhưng
quan hệ của gia đình phụ hệ chưa xác lập được. Tính chất gia đình song phương
có nhiều biểu hiện, quyền thừa kế tài sản vẫn thuộc về người con gái. Trong gia
đình, nữ giới vẫn được nể vì hơn nam giới. Xã hội mới manh nha có sự phân hoá về
tài sản. Trong một làng gồm có nhiều dòng họ cùng cư trú.
Cưới xin: Việc
lấy chồng, lấy vợ của người Chơ Ro tồn tại cả hai hình thức: nhà trai đi hỏi vợ
hoặc nhà gái đi hỏi chồng. Hôn lễ tổ chức tại nhà gái, sau lễ thành hôn thì cư
trú phía nhà vợ, sau vài năm sẽ dựng nhà ra ở riêng.
Ma chay: Người
Chơ Ro theo tập quán thổ táng. Mộ phần được đắp cao lên theo hình bán cầu.
Trong 3 ngày đầu, người ra gọi hồn người chết về ăn cơm; sau đó là lễ "mở
cửa mả" với 100 ngày cúng cơm. Tập quán dùng vàng mã đã xuất hiện trong
tang lễ của người Chơ Ro và hàng năm cứ vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, người
ta đi tảo mộ như người Việt ở địa phương.
Hiện
nay, nhà cửa của người Chơ Ro đã có nhiều thay đổi. Một số gia đình dựng nhà với
các vì kèo, cửa ra vào mở ở hướng chính của ngôi nhà, như nhà người Việt ở nông
thôn Nam bộ. Nhiều hộ khá giả đã có nhà tường xây, mái ngói... Nét kiến trúc
truyền thống của họ chỉ còn hiện diện ở ngôi nhà bếp.
Nhà mới: Lễ
khánh thành nhà mới luôn là dịp chia vui giữa gia chủ với dòng họ và buôn làng.
Lễ tết: Ngày
cúng thần lúa là dịp lễ trọng hàng năm. Các loại bánh như: bánh tét, bánh ống
và bánh giầy trộn vừng được mọi nhà chế biến để ăn mừng và tiếp khách. Lễ cúng
thần rừng được tổ chức như một dịp hội làng và hiện nay, cứ 3 năm một lần nghi
lễ này lại được tổ chức trọng thể.
Lịch: Người
Chơ Ro cũng có nông lịch riêng theo chu kỳ canh tác rẫy và căn cứ vào tuần
trăng.
Học: Xã hội
truyền thống Chơ Ro chưa có chữ viết. Việc học hành truyền bá kiến thức cho thế
hệ sau theo lối truyền khẩu.
Văn nghệ: Vốn
văn nghệ dân gian chỉ còn một vài điệu hát đối đáp trong những dịp lễ hội, họ cất
lên lời khẩn cầu Thần lúa và hiện nay rất ít người biết đến. Nhạc cụ đáng lưu ý
đến là bộ chiêng đồng 7 chiếc gồm 4 chiếc nhỏ và 3 chiếc lớn. Ngoài ra, đàn ống
tre, sáo dọc còn thường thấy ở vùng núi Châu Thành.
Chơi: Trẻ em
thích chơi kéo co, cướp cành lá, bịt mắt bắt nhau, thả diều và đánh cù.
Vũ Cao Quận
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét