Tổng số dân;: 33.817 (2009)
Khu vực có số dân đáng kể: Việt Nam: Quảng Ngãi, Quảng Nam
Ngôn ngữ: Tiếng Co, tiếng Việt
Tôn giáo: Vật linh, tín ngưỡng dân gian
Dân tộc Co còn có tên gọi khác: Cor (Kor), Col,
Cùa, Trầu. Người Co là một trong số 54 dân tộc ở Việt Nam.
Dân tộc Co nói tiếng Co (Cùa), một ngôn ngữ
thuộc ngữ tộc Môn-Khmer.
Dân số và địa bàn cư trú
Dân tộc Co cư trú chủ yếu ở huyện Trà Bồng
(tỉnh Quảng Ngãi), huyện Nam Trà My và huyện Núi Thành (tỉnh Quảng Nam).
Dân số: Theo điều tra dân số 1999 là
27.766 người.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, người Co ở Việt Nam có dân số 33.817 người, cư trú tại 25 trên tổng số 63
tỉnh, thành phố. Người Co cư trú tập trung tại các tỉnh:Quảng Ngãi (28.110 người,
chiếm 83,1% tổng số người Co), Quảng Nam (5.361 người), Kon Tum (118 người).
Đặc điểm kinh tế
Dân tộc Co làm rẫy là chính. Người Co trồng
lúa, ngô, sắn và nhiều loại cây khác. Đặc biệt, cây quế Quảng là đặc sản truyền
thống ở Trà My. Quế ở vùng người Co có chất lượng và năng suất cao được các địa
phương trong nước và nhiều nơi trên thế giới biết tiếng. Hàng năm quế đem lại
nguồn thu đáng kể cho người Co. Tại các vùng Quảng Nam, Quảng ngãi, một thời đã
trồng giống lúa Co, và lúa Trì trì. Có lẽ lúa Co là đó, là của người Co, Lúa
Trì Trì là của người Chăm.
Tổ chức cộng đồng
Từng làng của dân tộc Co có tên gọi riêng
theo tên người trưởng làng hoặc tên sông, suối, tên đất, tên rừng. Trong xã hội
Co, các bô lão luôn được nể trọng. Ông già được suy tôn làm trưởng làng phải là
người hiểu biết phong tục, giàu kinh nghiệm sản xuất và ứng xử xã hội, được dân
làng tín nhiệm cao và thuộc dòng họ có công lập làng. Người Co xưa kia không có
tên gọi của mỗi dòng họ, về sau người Co nhất loạt mang họ Đinh.
Văn hóa
Dân tộc Co thích múa hát, thích chơi
chiêng, cồng, trống. Các điệu dân ca phổ biến của người Co là Xru, Klu và Agiới.
Các truyện cổ của người Co truyền miệng từ đời này sang đời khác luôn làm say
lòng cả người kể và người nghe.
Nhà cửa
Trước kia vòng rào làng được dựng lên cao,
dày, chắc chắn với cổng ra vào đóng mở theo quy định chặt chẽ, với hệ thống
chông thò, cạm bẫy để phòng thủ... Tùy theo số dân mà làng có một hay vài một
nhà ở, dài ngắn, rộng hẹp khác nhau. Thường nóc cũng là làng vì rất phổ biến hiện
tượng làng chỉ có một nóc nhà. Nay vẫn thấy có nóc dài tới gần 100m. Dân tộc Co ở nhà sàn. Dân làng góp sức làm
chung ngôi nhà sau đó từng hộ được chia diện tích riêng phù hợp với nhu cầu sử
dụng. Ngôi nhà có thể nối dài thêm cho những gia đình đến nhập cư sau. Dưới gầm
sàn xếp củi, nhốt lợn, gà. Hầu hết người Co đã và đang chuyển sang làm nhà đất.
Không ít người ưu kiểu nhà "xuyên trĩnh" ở đồng bằng miền Trung. Xưa
kia, khi dân làng phát triển đông đúc mà việc nối nhà dài ngôi nhà thêm nữa
không thuận tiện cũng không muốn chia làng mới thì họ kiến trúc kiểu "nhà
kép", mở rộng theo chiều ngang. Như vậy là dân tộc Co đã đặt song song mặt
hành mặt bằng sinh hoạt của hai dãy nhà, phần gưl của chúng ghép liền với nhau,
tạo thành khoảng rộng dài ở giữa gồm gưl và truôk càn hai dãytum ở đôi bên.
Trang phục
Dân tộc Co không dệt vải, vì vậy vải và đồ
may mặc đều mua của nơi khác, phần lớn là mua của người Kinh và người Xơ-đăng.
Theo sắc phục truyền thống, nam giới thường ở trần, đóng khố, nữ quấn váy, mặc
áo cộc tay, yếm. Trời lạnh mỗi người khoác tấm vải dài, rộng. Người Co thích
đeo vòng cổ, vòng tay, hoa tai bằng đồng hoặc bạc, nhưng thích nhất là bằng hạt
cườm. Phụ nữ quấn nhiều vòng cườm các màu quanh eo lưng.
Việt Hưng (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét