Mô hình nhà gươl của dân tộc Cơ Tu được trưng bày
tạiBảo tàng Dân tộc học.
Tổng số dân : 76.200 +
Khu vực có số dân đáng kể: Việt Nam
(61.588): Quảng Nam, Thừa Thiên-Huế
Lào (14.700): Xekong, Saravan, Champasak
Ngôn ngữ: Tiếng Cơ Tu, tiếng Việt, tiếng
Lào, khác
Tôn giáo: Tín ngưỡng dân gian
Người Cơ Tu (còn gọi là người Ca Tu, Gao,
Hạ, Phương, Ca-tang) là một dân tộc sống ở trung phần Việt Nam và HạLào. Dân số
người Cơ Tu có khoảng trên 76 nghìn người. Tại Việt Nam người Cơ Tu là một
trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.
Người Cơ Tu nói tiếng Cơ Tu, một ngôn ngữ
thuộc ngữ tộc Môn-Khmer trong Hệ ngôn ngữ Nam Á.
Dân số và địa bàn cư trú
Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, theo điều tra dân số 1999
thì dân tộc này có dân số 50.458 người[1], cư trú chủ yếu trên dãy núi Trường
Sơn, tại các huyện Đông Giang, Tây Giang, (Quảng Nam), A Lưới, Phú Lộc (Thừa
Thiên-Huế).
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, người Cơ Tu ở Việt Nam có dân số 61.588 người, cư trú tại 38 trên tổng số
63 tỉnh, thành phố. Người Cơ Tu cư trú tập trung tại các tỉnh: Quảng Nam
(45.715 người, chiếm 74,2% tổng số người Cơ Tu tại Việt Nam), Thừa Thiên-Huế
(14.629 người, chiếm 23,8% tổng số người Cơ Tu tại Việt Nam), Đà Nẵng (950 người),
thành phố Hồ Chí Minh (54 người)[2].
Tại Lào
Tại Lào, theo Ethnologue thì năm 1998 dân
tộc này có 14.700 người[3], cư trú chủ yếu tại thượng nguồn sông Xê Kông, trong
các tỉnh Xekong, Saravan, Champasak.
Kinh tế
Người Cơ Tu trồng cây lương thực theo lối
phát rừng làm rẫy, thu hái các lâm thổ sản. Công cụ lao động khá nghèo nàn như
rìu, dao, gậy chọc lỗ tra hạt. Các hoạt động kinh tế khác gồm có chăn nuôi, dệt,
đan lát, hái lượm, đánh cá, săn bắn và trao đổi hàng hóa theo cách vật đổi vật.
Trong năm chỉ có đúng 1 mùa làm rẫy, gieo
vào tháng 3-4 và gặt vào tháng 10-11. Cây lương thực chủ yếu là lúa, ngô, sắn
Văn hóa
Lễ hội đâm trâu hàng năm thường diễn ra
trước mùa tỉa lúa, dựng lều giữa sân. Khi mặt trời ló dạng bắt đầu thủ tục cúng
Giàng và các vị thần linh, hòa tấu khúc nhạc cúng từ nhạc cụ. Mọi người cùng
nhau nhảy múa chung quanh con trâu, một người được cho là có công cho làng cho
trâu uống nước. Đánh dấu điểm đâm, thịt trâu được chia cho cả làng cung nhau nướng
ăn.
Trong làng người Cơ Tu, các nếp nhà sàn tạo
dựng theo hình vành khuyên hoặc gần giống thế. Ngôi nhà rông cao, to, đẹp, hơn
cả là nơi tiếp khách chung, hội họp, cúng tế, tụ tập chuyện trò vui chơi.
Nhà mồ pinh blâng của người Cơ Tu ở Quảng
Nam được phục dựng tại Bảo tàng Dân tộc học.
Có cá tính riêng trong tạo hình và trang
trí trang phục, khác các tộc người khác trong khu vực, nhất là trang phục nữ.
Trang phục
Nam giới người Cơ Tu đóng khố, ở trần, đầu
hoặc vấn khăn hoặc để tóc ngắn bình thường. Khố có các loại bình thường (không
trang trí hoa văn và ít màu sắc), loại dùng trong lễ hội dài rộng về kích thước
và trang trí đẹp với màu sắc và hoa văn trên nền chàm. Mùa rét, họ khoác thêm tấm
choàng dài hai, ba sải tay. Tấm choàng màu chàm và được trang trí hoa văn theo
nguyên tắc bố cục dải băng truyền thống với các màu trắng đỏ, xanh. Người ta
mang tấm choàng có nhiều cách: hoặc là quấn chéo qua vai trái xuống hông và
nách phải, thành vài vòng rồi buông thõng xuống trùm quá gối. Lối khoác này tay
và nách phải ở trên, tay và vai trái ở dưới hoặc quấn thành vòng rộng từ cổ xuống
bụng, hoặc theo kiểu dấu nhân trước ngực vòng ra thân sau.
Phụ
nữ Cơ Tu để tóc dài búi ra sau gáy,
hoặc thả buông. Xưa họ để trần chỉ buộc một miếng vải như chiếc yếm che ngực. Họ
mặc váy ngắn đến đầu gối, màu lanh khoác thêm tấm chăn. Họ thường mặc áo chui đầu
khoét cổ, thân ngắn tay cộc. Về kỹ thuật đây có thể là một trong những loại áo
giản đơn nhất (trừ loại áo choàng chỉ là tấm vải). Aáo loại này chỉ là hai miếng
vải khổ hẹp gập đôi, khâu sườn và trừ chỗ tiếp giáp phía trên làm cổ. Khi mặc cổ
xòe ra hai vai thoạt tưởng như áo cộc tay ngắn. Áo được trang trí ở vai, ngực,
sườn, gấu, với các màu đỏ, trắng trên nền chàm. Váy ngắn cũng được cấu tạo
tương tự như vậy: theo lối ghép hai miếng vải khổ hẹp gập lại thành hình ống. Họ
ưa mang các đồ trang sức như vòng cổ, vòng tay đồng hồ (mỗi người có khi mang tới
5,6 cái), khuyên tai bằng gỗ, xương, hay đồng xu, vòng cổ bằng đồng, sắt cũng
như các chuỗi hạt cườm, vỏ sò, mã não.. Nhiều người còn đội trên đầu vòng tre
có kết nút hoặc những vòng dây rừng trắng (rơnơk) và cắm một số loại lông chim.
Một vài vùng có trục cưa răng cho nam nữ đến tuổi trưởng thành khi đó làm tổ chức
lễ đâm trâu. Ngoài ra người Cơ Tu còn có tục xăm mình, xăm mặt.
Đồ trang sức phổ biến là vòng tay, vòng cổ,
khuyên tai. Các phong tục xăm mặt, xăm mình, cưa răng, đàn ông búi tóc sau gáy
đã dần được loại bỏ.
Triệu Ban (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét