Yang Prong hay Yang Êa H'leo trong bia kí
Champa là Ya Hliêv. Ngôi tháp được xây dựng dưới Triều Đại Jaya Simhavarman III
tức Chế Mân (R'čăm Mâl hay Êčăm mâl) Trong thời kì Champa và Tây Nguyên tiến
hành kháng chiến Mông- Nguyên cuối thế kỉ 13 đầu thế kỉ 14. Đánh dấu sự có mặt
tộc người Oràng Đêy ( Êđê và Jrai) trên cao nguyên.Được gọi là Degar Pura tức xứ
sở của Núi rừng
Người Ê Đê tộc danh tự gọi là Đêgar hay Anăk
Ea Ðê, Ra Ðê (hay Rhađê), ê Ðê, êgar, Ðê. Trong bia ký Champa tại Tháp
Pô Yang Ana Gar đã ghi chép sự xuất hiện của tộc danh Orang Đêy tại vùng Êa
Trang (Nha Trang)từ rất sớm khoảng thế kỉ 8, Orang Đêy biến âm sau này thành
Rađê, Rađêy hay Êđê. cuối Trước năm
1975, tại miền nam Việt Nam người Ê Đê được gọi là Rađê. Đối với người Êđê họ tự
gọi họ là ĐÊGAR hay ĐÊGA trong cụm từ Anak Đêgar (Người Con của Núi Rừng ). Ước
tính hiện nay có khoảng 330.348 người Ê Đê cư trú tập trung ở tỉnh Đắk Lắk,
phía nam của tỉnh Gia Lai và miền tây của hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên của Việt
Nam. Tại một số quốc gia khác, như Campuchia, Hoa Kỳ, Canada và các nước Bắc Âu
cũng có một ít người Ê Đê sinh sống, song chưa có số liệu chính thức.
Dân số
Dân tộc Ê Đê bao gồm khoảng 330.348 người,
là dân tộc có nguồn gốc từ nhóm tộc người Mã Lai (Malays) từ các hải đảo Thái
Bình Dương đã có mặt lâu đời ở Đông Dương; truyền thống dân tộc vẫn mang đậm
nét mẫu hệ thể hiện đậm nét dấu vết hải đảo của nhóm tộc người nói tiếng Mã Lai
(Malays). Các nhóm địa phương bao gồm: Adham, Bih, Blô, Dong Kay, Dong Mak,
Ening, Arul, Hwing, Mđhur, Ktul, Kpă, Krung, Dliê, Hruê, Kah, Kdrao, Ktlê,
ÊBan...Nhưng không có sự khác biết lớn giữa các nhóm địa phương.
Đặc điểm kinh tế
Người Ê Đê làm rẫy là chính, riêng nhóm
Bíh làm ruộng nước theo lối cổ sơ, dùng trâu dẫm đất thay việc cày, cuốc đất.
Ngoài trồng trọt còn chăn nuôi, săn bắn, hái lượm, đánh cá, đan lát, dệt vải.
Trên nương rẫy, ngoài cây chính là lúa còn có ngô, khoai, bầu, thuốc lá, bí,
hành, ớt, bông.
Đặc điểm làm rẫy của người Ê Đê là chế độ
luân khoảnh, tức là bên cạnh những khu đất đang canh tác còn có những khu đất để
hoang để phục hồi sự mầu mỡ. Ngày nay người Êđê gắn mình với sản xuất nông sản
cây công nghiệp: cà phê, cao su, hồ tiêu, ca cao...
Nghề trồng trọt ở đây có nuôi trâu, bò,
voi. Người dân ở đây còn tự làm ra đựơc đồ đan lát, bát đồng, đồ gỗ, đồ trang sức,
đồ gốm.
Hôn nhân gia đình
Trong gia đình người Ê Đê, chủ nhà là phụ
nữ, theo chế độ mẫu hệ, con cái mang họ mẹ, con trai không được hưởng thừa kế.
Đàn ông cư trú trong nhà vợ. Nếu vợ chết và bên nhà vợ không còn ai thay thế
theo tục nối dây thì người chồng phải về với chị em gái mình. Khi chết, được
đưa về chôn cất bên người thân của gia đình mẹ đẻ.Chỉ con gái được thừa kế tài
sản, người con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng
cha mẹ già.
Văn hóa
Người Ê Đê có kho tàng văn học truyền miệng
phong phú: thần thoại, cổ tích, ca dao, tục ngữ, đặc biệt là các Khan (trường
ca, sử thi) nổi tiếng với Khan Đam San, Khan Đam Kteh M'lan... Người Ê Đê yêu
ca hát, thích tấu nhạc và thường rất có năng khiếu về lĩnh vực này. Nhạc cụ có
cồng chiêng, trống, sáo, khèn, Gôc, Kni, đàn, Đinh Năm, Đinh Tuốc là các loại
nhạc cụ phổ biến của người Êđê và được nhiều người yêu thích.
Nhà sàn của người Ê Đê
Nhà cửa
Commons có thêm hình ảnh và tư liệu khác về
Nhà người Ê Đê.
Nhà người Ê Đê thuộc loại hình nhà dài sàn
thấp, thường dài từ 15 đến hơn 100 m tùy theo gia đình nhiều người hay ít người.
Nhà Ê Đê có những đặc trưng riêng không giống nhà của các cư dân khác ở Tây
Nguyên. Là nhà của gia đình lớn theo chế độ mẫu hệ. Bộ khung kết cấu đơn giản.
Cái được coi là đặt trưng của nhà Ê Đê là: hình thức của cầu thang, cột sàn và
cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt. Đặc biệt là ở hai phần. Nửa đằng cửa chính
gọi là Gah là nơi tiếp khách, sinh hoạt chung của cả nhà dài, bếp chủ, ghế
khách, ghế chủ, ghế dài (Kpan) (tới 20 m), chiếng ché... nửa còn lại gọi là Ôk
là bếp đặt chỗ nấu ăn chung và là chỗ ở của các đôi vợ chồng, chia đôi theo chiều
dọc, phần về bên trái được coi là "trên" chia thành nhiều gian nhỏ.
Phần về bên phải là hàng lang để đi lại, về phía cuối là nơi đặt bếp...
Mỗi đầu nhà có một sân sàn. Sân sàn ở phía
cửa chính được gọi là sân khách. Muốn vào nhà phải qua sân sàn. Nhà càng khá giả
thì sân khách càng rộng, khang trang.
Thiếu nhi người Ê Đê
Trang phục
Có đầy đủ các thành phần, chủng loại trang
phục và phong cách thẩm mỹ khá tiêu biểu cho các dân tộc khu vực Tây Nguyên. Y
phục cổ truyền của người Êđê là màu đen, có điểm những hoa văn sặc sỡ. Đàn bà mặc
áo, quấn váy (Ieng). Đàn ông đóng khố (Kpin), mặc áo. Người Ê Đê ưa dùng các đồ
trang sức bằng bạc, đồng, hạt cườm. Trước kia, tục cà răng qui định mọi người đều
cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên, nhưng lớp trẻ ngày nay không cà răng nữa.
Trang phục nam
Nam để tóc ngắn quấn khăn màu đen nhiều
vòng trên đầu. Y phục truyền thống gồm áo và khố.
Áo có hai loại cơ bản:
Loại áo dài trùm mông: Đây là loại áo khá
tiêu biểu cho người Ê Đê qua trang phục nam, có tay áo dài, thân áo cũng dài
trùm mông, có xẻ tả và khoét cổ chui đầu. Trên nền chàm của thân và ống tay áo ở
ngực, hai bên bả vai, cửa tay, các đường viền cổ, nơi xẻ tà gấu áo được trang
trí và viền vải đỏ, trắng. Đặc biệt là khu giữa ngực áo có mảng sọc ngang trong
bố cục hình chữ nhật tạo vẻ đẹp, khỏe.
Loại áo dài quá gối: Đây là loại áo dài
quá ngối, có khoét cổ, ống tay bình thường không trang trí như loại áo dài trùm
mông nói trên,...
Khố: Khố có nhiều loại và được phân biệt ở
sự ngắn dài có trang trí hoa văn như thế nào. Đẹp nhất là các loại ktêh, drai,
đrêch, piêk, còn các loại bong và băl là loại khố thường. Áo thường ngày ít có
hoa văn, bên cạnh các loại áo trên còn có loại áo cộc tay đến khủy, hoặc không
tay. Áo có giá trị nhất là loại áo Ktêh của những người quyền quý có dải hoa
văn "đại bàng dang cánh", ở dọc hai bên nách, gấu áo phía sau lưng có
đính hạt cườm. Nam giới cũng mang hoa tai và vòng cổ.
Trang phục nữ
Phụ nữ Ê Đê để tóc dài buộc ra sau gáy. Họ
mang áo váy trong trang phục thường nhật. Xưa họ để tóc theo kiểu búi tó và đội
nón duôn bai. Họ mang đồ trang sức bằng bạc hoặc đồng. Vòng tay thường đeo
thành bộ kép nghe tiếng va chạm của chúng vào nhau họ có thể nhận ra người
quen, thân.
Áo: Áo phụ nữ là loại áo ngắn dài tay,
khoét cổ (loại cổ thấp hình thuyền) mặc kiểu chui đầu. Thân áo dài đến mông khi
mặc cho ra ngoài váy. Trên nền áo màu chàm thẫm các bộ phận được trang trí là:
cổ áo lan sang hai bên bả vai xuống giữa cánh tay, cửa tay áo, gấu áo. Đó là
các đường viền kết hợp với các dải hoa văn nhỏ bằng sợi màu đỏ, trắng, vàng.
Cái khác của trang phục áo nữ Ê Đê khác Gia rai về phong cách trang trí là
không có đường ở giữa thân áo. Đếch là tên gọi mảng hoa văn chính ở gấu áo.
Ngoài ra phụ nữ còn có áo lót cộc tay (áo yếm).
Váy: Đi cùng với áo của phụ nữ Ê đê là chiếc
váy mở (tấm vải rộng làm váy) quấn quanh thân. Cũng trên nền chàm, váy được gia
công trang trí các sọc nằm ngang ở mép trên, mép dưới và giữa thân bằng chỉ các
màu tương tự như áo. Đồ án trang trí tập trung hơn ở mép trên và dưới thân váy.
Có thể đây cũng là phong cách hơi khác với váy của dân tộc Gia Rai. Váy có nhiều
loại phân biệt ở các dải hoa văn gia công nhiều hay ít. Váy loại tốt là myêng đếch,
rồi đến myêng đrai, myêng piêk. Loại bình thường mặc đi làm rẫy là bong. Hiện
nay nữ thanh niên thường mặc váy kín.
Tôn giáo
Phần lớn người Ê Đê theo đạo Tin Lành và đạo
Thiên chúa . Một số ít theo Phật giáo tại các vùng đô thị. Họ thường đọc kinh cầu
nguyện tại các nhà riêng của mục sư, hiện tại các nhà thờ Tin lành vẫn chưa nhiều.
Những người theo Công giáo Rôma thì thường đến các nhà nhờ tại địa phương vào
ngày chủ nhật. Số còn lại vẫn theo nét tín ngưỡng của cổ truyền, thờ cúng các
thần hộ thân cho mình.
Ngôn ngữ
Tiếng nói
Tiếng nói của người Ê Đê thuộc nhóm ngôn
ngữ Mã Lai-Polynesia (ngữ hệ Nam Ðảo). Tiếng Êđê là một ngôn ngữ có quan hệ gần
gũi với Tiếng Gia rai, Chăm, Malaysia, Indonêsia, Philippin. Tiếng Êđê ngày nay
phát triển một âm tiết đơn lập; Đây là kết quả của sự ảnh hưởng của tiếng
Mon-Khmer.
Kinh Thánh Tân Ước Song Ngữ Êđê - Việt
Chữ viết
So với các dân tộc ít người khác tại Việt
Nam, người Ê Đê là sắc dân có chữ viết theo bảng chữ cái La tinh khá sớm, người
Ê Đê có chữ viết từ thập niên 1920. Các nhà truyền giáo Tin Lành đã phối hợp với
các chuyên viên ngôn ngữ học tại Viện Ngôn ngữ Summer đặt chữ viết cho người Ê
Đê để dịch Kinh Thánh cho dân tộc này. Năm 1971, các chuyên viên này phối hợp với
Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa phát hành sách dạy tiếng Ê Đê. Năm 1979, sách dạy
ngữ vựng Ê Đê được xuất bản tại Hoa Kỳ. Kinh Thánh Tân Ước song ngữ Ê Đê-Việt
phát hành năm 2001. Năm 2006, Nhà xuất bản Tôn giáo của chính phủ Việt Nam, với
sự hỗ trợ của United Bible Societies, đã phát hành 20 ngàn cuốn Kinh Thánh Tân
Ước song ngữ Ê Đê-Việt tại Việt Nam. Đây là cuốn sách có số lượng phát hành nhiều
nhất trong tiếng Ê Đê từ trước đến nay.
Đàm Phiếu (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét