Vào
dịp năm mới, các dân tộc đều có tết cổ truyền của mình. Thế nhưng, đã từ lâu, người Raglai không ăn tết. Những già làng Raglai kể,
trước kia, từ xa xưa, xưa lắm rồi, người Raglai không còn nhớ nữa, người Raglai
cũng có cái tết, mà hình như, đó chính là lễ ăn đầu lúa mà người Raglai còn tổ
chức hàng năm, nhưng hiện nay đó chỉ còn là một cái lễ không lớn như tết Nguyên
Đán của người Kinh hay lễ hội Katê của người Chăm
Người Raglai cho đến nay vẫn giữ y trang của
các vua Chăm như Pô Rô Mê, Pô Klongirai, mẹ xứ sở Pô I Nưgar, đến ngày lễ hội
Katê người Chăm phải lên núi làm lễ cúng, đón đoàn người Raglai đánh mã la, thổi
khèn bầu và múa đưa y trang xuống để lên tháp làm lễ.
Trải qua quá trình lịch sử, văn hóa của
người Raglai chịu ảnh hưởng khá nhiều văn hóa của các dân tộc cận cư, cộng cư
như Việt, Chăm, Chu ru… Trước đây, một số nhà nghiên cứu văn hóa Raglai nhận định
rằng, văn hóa cổ truyền Raglai đã mất mát nhiều và chịu ảnh hưởng nặng của văn
hóa của người Việt, người Chăm, nhất là hình thức thể hiện như trang phục, nhà
cửa, công cụ lao động, nghệ thuật dân gian, văn hóa ẩm thực…
Tuy nhiên, cộng đồng người Raglai cũng đã
xây dựng cho riêng mình một không gian văn hoá đậm nét riêng biệt với những
nghi thức và tập tục đặc trưng, và qua các hoạt động văn hoá truyền thống này,
phần nào phác hoạ được đời sống tinh thần của cư dân nơi đây. Một trong những
hoạt động văn hoá tiêu biểu đó là những nghi thức trong lễ hội ăn lúa mới và tục
đón năm mới của người Raglai.
1. NGUỒN GỐC LỄ HỘI
Để đi tìm “tết” năm mới của người Raglai,
trước hết cần xem xét các yếu tố về lịch pháp và thời tiết. Lễ hội đầu năm hay
tết năm mới là sự “Tống cựu nghêng tân”, là sự tiễn biệt năm cũ, đón năm mới đến
và vì vậy, nó được căn cứ theo lịch pháp của mỗi dân tộc. Các dân tộc ở phương
Tây căn cứ vào công lịch (dương lịch) để tính thời gian và họ đón năm mới vào
ngày 1 tháng 1. Đa số các dân tộc ở phương Đông tính lịch theo trăng (âm lịch).
Các cư dân Đông Nam Á ảnh hưởng 2 dòng
văn hóa là văn hóa Trung Hoa và văn hóa Ấn Độ, vì vậy Đông Nam Á mới bị phương
Tây đặt cho cái tên là Indo-chines (Ấn –Trung) và trong các cổ sử đều gọi các
quốc gia này là Ấn Độ hóa và Trung Hoa
hóa. Trong các dân tộc chịu ảnh hưởng của lịch Saka của Ấn Độ có các dân tộc
thuộc ngữ hệ Malayo-polinésien như Chăm, Raglai, Chu Ru, Ê đê, Giarai và một số
dân tộc Nam Đông nam Á khác. Một tháng theo lịch Sa ka cũng tính theo mặt
trăng, còn năm thì tính theo các vì sao. Về thời tiết thì lúc này sao Rua (tua
rua) xuất hiện và là lúc kết thúc mùa khô, chuẩn bị đón mùa mưa tới, và đối với
các cư dân văn minh nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á, mùa mưa vô cùng quan trọng.
Từ đây dẫn đến các lễ hội cầu đảo, cầu mưa, cầu các thần linh liên quan đến
nông nghiệp lúa nước như cúng thần nông, cúng hồn lúa, bắp, cầu thần sông, thần
suối, thần cây, thần núi…và thú dữ không về phá hoại mùa màng. Không phải ngẫu
nhiên mà các cư dân nông nghiệp Đông Nam Á lại có quan niệm về năm mới là lễ hội
chuyển mùa, giống nhau về thời gian và các nghi lễ. Có thể kể ra đây một số lễ
hội được coi là lễ hội chuyển mùa và đón năm mới của một số dân tộc cận cư với
người Raglai: Tết năm mới Soong Kran của người Thái ở Thái Lan, Tết năm mới Bun
Pi May (hốt nậm) của Lào, tết Chon Chnam thmây của người Khơme và tết Thagyamin
của người Myanma. Riêng đối với dân tộc Chăm, có nhiều người cho rằng người
Chăm có “tết” Katê, thực ra Katê chỉ là lễ cúng nhân thần, lễ hội giữa năm, vào
1 tháng 7 lịch Chăm và chủ yếu dành cho người Chăm Balamôn nên không phải là tết
năm mới, tết năm mới của người Chăm xa xưa chính là lễ hội Ri Ja Nưgar diễn ra
vào đầu năm theo lịch Chăm, thực ra, người Chăm cũng đã và đang dần quên đi “tết”
năm mới của mình và đã coi Katê như là “tết”.
Hạt gạo mới trắng tinh
Trong những lễ hội đầu năm của các dân tộc
nói trên đều có nghi lễ cầu mưa hoặc té
nước, thậm chí có múa phồn thực để cầu sự sinh sôi nảy nở. Đặc biệt, thời gian
các “tết” năm mới của các dân tộc này đều trùng nhau vào thời điểm chuyển mùa
(khoảng đầu năm theo lịch Chăm và vào khoảng tháng tư dương lịch) và cũng chính
là thời gian bà con Raglai làm lễ ăn lúa mới. (băng akok najai)
Như vậy về mặt thời gian hay lịch nông
nghiệp, lễ ăn lúa mới của người Raglai trùng với tết năm mới của các cư dân cận
cư ở vùng Đông Nam Á.
Qua tham khảo tư liệu khoa học và đi diền
dã tìm hiểu một số bà con Raglai, có thể bước đầu nhận định lễ ăn lúa mới của
người Raglai hiện nay chính có nguồn gốc xa xưa
là “tết” năm mới, không chỉ của riêng dân tộc Raglai mà của một số dân tộc
Đông Nam Á khác như Thái Lan, Lào, Khơme, Mianma và ngay cả đối với dân tộc gần
gũi nhất là người Chăm. Sở Văn hóa thông tin Ninh Thuận (Nay là Sở VH,TT&DL
Ninh Thuận) đã bước đầu khảo sát và nghiên cứu các lễ hội dân tộc Raglai nhưng
để kết luận vấn đề này, cần phải có sự nghiên cứu sâu và được các nhà khoa học
công nhận. Hiện nay, ngành này đang lập dự án tổng kiểm kê văn hóa vật thể và
phi vật thể của dân tộc Raglai ở Ninh Thuận, từ đó mới có kế hoạch sưu tầm
nghiên cứu văn hóa Raglai một cách có khoa học và hiệu quả.
2. THỜI GIAN LỄ HỘI
Hàng năm, cứ vào khoảng tháng 3, tháng 4
dương lịch, khi tiếng sấm vang lên với quan niệm là bắt đầu khai thông đất trời,
âm dương giao hòa, cây cối đâm chồi nảy lộc là người Raglai lại tổ chức làm lễ
ăn lúa mới. Lúc này, mùa màng đã thu hoạch xong, lúa, bắp đã về đậu trong nhà
(theo cách nói của người Raglai, tức là khi lúa bắp đã được đưa lên nhà sàn
kho) nhưng chưa ai được phép lấy ra ăn. Muốn lấy lúa, bắp ra ăn, phải làm lễ
cúng ăn lúa mới. Trường hợp lúa, bắp đã đưa vào kho nhưng chưa cúng, không còn
gì để ăn, chủ nhà có thể cắt cây cỏ may, cột lại thành bó, nhúng vào nước cúng
khấn xin ăn lúa hoặc bắp tạm rồi mới được lấy một ít xuống ăn. Nhiều gia đình
Raglai sợ các yàng trừng phạt, sẽ bị rắn rết cắn, hổ ăn thịt hoặc ốm đau, bệnh
tật nên chưa cúng là chưa dám lấy lúa bắp ra ăn. Họ đành đi đào củ mài, khoai
mì, củ chuối ăn qua ngày, chờ khi nào cúng xong lễ ăn lúa mới mới lấy lúa bắp
ra khỏi kho. Đây cũng là thời gian nông nhàn, người Raglai lên rừng săn bắt hái
lượm về làm lễ vật và chuẩn bị bước vào chu kỳ sản xuất mới.
Cùng nhau ăn cỗ
Lễ hội ăn lúa mới kéo dài trong hai ngày một
đêm. Ngày làm lễ do thầy cúng chọn.
Thời gian là một trong những đặc điểm quan
trọng để xác định tết hay không phải là tết. Người Việt thường nói: năm hết tết
đến nhằm tống cựu nghênh tân. Đối với cư dân nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á
thì tết còn là thời điểm chuyển mùa. Đất nước ta trải dài theo trục Bắc - Nam,
khí hậu chia làm hai miền rõ rệt. Tết năm mới của người Việt ở phía Bắc là thời
tiết chuyển từ mùa đông giá lạnh sang mùa xuân ấm áp, cây cối đâm chồi nảy lộc,
muôn hoa đua nở. Đối với vùng đất phía Nam khu vực Đông Dương, các dân tộc bản
địa xưa kia như Chăm, Khơme, Thái, Lào, thời điểm chuyển mùa là chuyển từ mùa
khô sang mùa mưa. Năm mới là sự tống ôn, tống tiễn mùa khô hạn nắng cháy đi và
đón năm mới với mùa mưa mát mẻ tới. Dân tộc Raglai là dân tộc gần gũi nhất với
người Chăm, ảnh hưởng văn hóa Chăm, trong đó có lịch pháp. Theo lịch của người
Chăm, một năm cũng có 12 tháng và tháng tính theo mặt trăng, năm tính theo các
vì sao. Theo nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh, người Chăm và các dân tộc Nam Đông
Dương tiếp nhận lịch theo hệ thống lịch Saka của Ấn Độ. Lễ hội Rija Nưgar đầu
năm của người Chăm vào tháng 1 lịch Chăm, khoảng tháng 4 dương lịch.
Thời điểm này sao Rua (sao Tua rua) xuất
hiện, là lúc kết thúc mùa khô và bắt đầu mùa mưa ở vùng miền Trung Việt Nam.
Như vậy lễ hội Rija Nưgar của người Chăm gần như trùng với các tết của các cư
dân Đông Nam Á có ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ như tết năm mới cổ truyền Soông Kran
của người Thái ở Thái Lan, tết năm mới Bun pi may của Lào, tết năm mới Chol
Chnam Thmây của người Khơme và tết Thagyamin của người Myanma. Những lễ hội này
đều có những nghi lễ cầu mưa hoặc té nước. Lễ hội ăn lúa mới của người Raglai
cũng rơi vào thời điểm này.
Căn cứ theo thời gian, nông lịch ứng với
vũ trụ như mặt trăng, mặt trời, các vì sao và căn cứ vào sự chuyển mùa ở vùng
Nam Trung Bộ là chuyển từ mùa khô sang mùa mưa thì lễ hội ăn lúa mới rõ ràng là
lễ hội chuyển mùa. Bởi vậy, lễ hội ăn lúa mới trùng với tết đón năm mới của các
cư dân Đông Nam Á, và chính là tết năm mới của người Raglai.
3. KHÔNG GIAN, TÍNH CỘNG ĐỒNG CỦA LỄ HỘI
Vùng đồng bào Raglai không có già làng như
các dân tộc Tây Nguyên, vai trò quyết định các việc lớn của cộng đồng là bà trưởng
tộc. Tuy nhiên, cũng như dân tộc Chăm, tuy theo chế độ mẫu hệ, vai trò của người
phụ nữ là rất lớn, nhưng việc tổ chức nghi thức cúng lễ là đàn ông, phụ nữ chỉ
đóng vai trò chỉ đạo và nội trợ. Địa điểm thực hành các nghi lễ cúng thường là
tại nhà sàn thiêng của dòng tộc. Đây là nơi chỉ để tế lễ thần linh, không có
người ở, nơi cất giữ những vật báu của dòng tộc gồm chiết đựng y trang, xâu chuỗi
hạt cườm, nhẫn, còng, kiềng, ghè, ché, nhạc cụ truyền thống như mã la, trống,
chiêng, lục lạc, khèn bầu…
Theo các cụ già Raglai kể lại, cách đây mấy
chục năm, lễ ăn lúa mới được tổ chức lớn hơn ngày nay nhiều. Tất cả các dòng tộc
đều tổ chức và coi lễ ăn lúa mới là lễ hội đầu năm, tương tự như lễ hội Rija
Nưgar của người Chăm.
Mặc dù mọi người không đến từng nhà chúc tụng
nhau, nhưng tất cả lời chúc tụng đều đã thể hiện trong lời cầu khấn của ông thầy
cúng trong nghi lễ ăn lúa mới: “Tôi tớ xin phép bề trên nhớ tới đầu năm, đầu
tháng, đầu mưa, đầu gió, xin cho thân người cứng như đá tảng, đầu cứng như sắt,
gia đình sum họp, lên núi vững, xuống sông chắc, lên rừng cọp beo xa lánh, phát
rẫy làm nương chắc rựa, chắc rìu. Rắn không dám cắn, kiến đỏ, kiến đen không
dám đốt, lên núi lên rừng đi tới nơi, về tới nhà, đi không mệt, về không mỏi,
làm rẫy được rẫy, lúa, bắp, khoai, kê, về đậu đầy nhà. Heo gà đầy chuồng, muốn
gì được nấy”.
Trong lễ tẩy uế, tống ôn: “ … Xin ngài hãy
rút hết chông gai, rút hết ốm đau, bệnh tật, đại họa. Xin ban cho sức khỏe để
chạy như chó, cất vó như ngựa, đi không mệt, về không mỏi, muốn vàng có vàng,
muốn bạc có bạc”.
Vì vậy lễ ăn lúa mới được tổ chức theo từng
dòng tộc ở tất cả các vùng đồng bào Raglai sinh sống với sự tham gia của tất cả
già, trẻ, gái, trai. Yếu tố này khẳng định không gian rộng lớn và tính cộng đồng
cao của lễ hội.
4. PHẦN LỄ VÀ PHẦN HỘI
Cũng như các lễ hội của các dân tộc khác,
lễ ăn lúa mới cũng có phần lễ và phần hội.
Về nghi lễ: Người Raglai cũng quan niệm lễ
ăn lúa mới là lễ hội đầu năm. Khi tiếng sấm vang lên, người Raglai cho đó là tiếng
sấm khai thông đất trời, là một sự chuyển mùa từ mùa khô qua mùa mưa, từ năm cũ
qua năm mới, đất trời sẽ đầy mưa, mát mẻ, là sự đâm chồi nảy lộc, sinh sôi nảy
nở của muôn vật, trong đó có các nông sản nuôi sống con người như lúa, bắp. Phần lễ gồm có lễ đổ nước vào ché rượu cần, lễ
cúng chính, lễ cúng thần lúa bắp. Lễ vật bắt buộc phải có một con gà hay một
con anu (lúi cúi) mà người Raglai quan niệm là con vật theo đất, 3 ché rượu cần,
tục này đã trở thành thành ngữ: “Rượu cần 3 ché, 1 con thịt”. Ngoài ra còn có
các nông sản như cua, cơm, canh v.v… Các đồ đạc được bày ra trên nhà sàn như
chiết đựng y trang, đồ trang sức như xâu chuỗi, cườm, vòng đeo cổ, đeo tay, nhẫn,
cà rá, ghè, ché, nồi đồng… và các nhạc cụ như mã la, chiêng, trống, đàn chapi,
tarakel…để tế thần linh.
Là cư dân nông nghiệp Đông Nam Á, tín ngưỡng
dân gian của người Raglai là tín ngưỡng đa thần đều cúng hồn lúa, hồn bắp, quan
niệm rằng lúa là con gái, bắp là con trai. Người Raglai tin rằng có rất nhiều
thần linh ngự ở khắp mọi nơi: thần núi, thần suối, thần sông, thần mặt trời, thần
mưa, thần gió, thần cây cỏ, hồn lúa, hồn bắp… mặc dù các yàng đều vô hình nhưng
luôn chi phối cuộc sống hàng ngày của người Raglai, ban cho mùa màng tươi tốt,
cho con người khỏe mạnh, không ốm đau bệnh tật. Ông bà tổ tiên tuy đã tụ tập về
thế giới bên kia nhưng luôn phù hộ cho con cháu làm ăn. Vì vậy, khi thu hoạch
lúa bắp, việc đầu tiên là phải làm lễ cúng tạ ơn thần linh.
Những khúc nhạc vang lên từ những ống sáo đặc biệt
của người Raglai - Ảnh: sưu tầm
Mục đích chính của lễ hội ăn lúa mới là lễ
chuyển mùa, tống tiễn mùa khô, cầu mưa, cầu nước cho vụ mùa tươi tốt. Lễ còn là
sự đánh dấu kết thúc một chu kỳ sản xuất trong năm với sự mừng vui, ơn trả
nghĩa đền đối với tổ tiên, đối với các yàng đã nhớ lời cầu khẩn trong lễ cúng
năm trước mà ban cho được mùa, trước khi hưởng thụ thành quả lao động. Theo chu
kỳ, lễ lại nhằm mục đích tạ ơn các yàng của mùa vụ cũ và cầu khấn tốt đẹp hơn
cho vụ mùa tới. Lễ hội còn là dịp để bà con trong dòng tộc nội, ngoại ở các nơi
tụ hội về gặp mặt, thăm hỏi nhau. Mâu thuẫn trong gia tộc nếu có cũng được hòa
giải từ các cần hút cắm chung trong một ché rượu cần cúng tổ tiên.
Chủ lễ của người Raglai là các thầy cúng
(Pujau). Xưa kia, làng nào cũng có thầy cúng. Những năm sau 1975, với việc hạn
chế cúng lễ, cho đó là mê tín dị đoan, nhiều thầy cúng được vận động bỏ nghề.
Điều đáng nói là sau mấy chục năm vận động, hình thức, quy mô các lễ hội có giảm,
nhưng niềm tin của bà con Raglai vào thần linh (yàng) vẫn không thay đổi. Vì vậy
họ vẫn duy trì các lễ nghi nông nghiệp truyền thống. Chỉ có lễ cúng chữa bệnh
là giảm hẳn, thỉnh thoảng mới có thầy cúng hành nghề một cách lén lút. Để làm
thầy cúng phải học thuộc các bài khấn, tế truyền miệng và các nghi thức, động
tác cúng.
Sau khi thầy cúng chọn ngày, những người lớn
tuổi trong làng và các trưởng tộc phân công các công việc cho dân làng. Đàn ông
lo dọn dẹp nhà cửa, làm cây nêu, sắp đặt bàn lễ, chọn người vào đội đánh mã la
(một loại chiêng bằng), mỗi đội từ 7, 9 đến 12 người đánh nhạc lễ… Phụ nữ làm
công việc nội trợ, chuẩn bị lễ vật như rang lúa mới, giã cốm, nấu cơm, nhặt
thái rau quả. Những lễ vật như rượu cần, gà, cua núi, cá khô, hành củ… chuẩn bị
sẵn sàng trước đó một đêm. Bàn lễ chính được đặt ở hướng Bắc, bàn lễ phụ đặt ở
hướng Nam và bao giờ cũng đặt ở sát chân cột chính nằm giữa nhà sàn - đường lên
xuống của tổ tiên, thần thánh - nơi luôn được đặt ché rượu cần. Trong lễ hội của
người Raglai, việc ăn chỉ đóng vai trò phụ, uống rượu cần là chính, do vậy ở
các lễ hội như lễ ăn lúa mới, đám tang, lễ bỏ mả họ làm ít nhất trên 30 ché rượu
cần.
Lễ cúng thường được bắt đầu vào khoảng 13
giờ.
Lễ thức đầu tiên là lễ đổ nước vào ché rượu
cần. Ông thầy cúng ngồi xếp bằng trước bàn lễ phụ ở hướng Nam, trên đó đặt ché
rượu cần. Khấn xong, ông chủ lễ hút rượu cần mang sang bàn lễ chính ở hướng Bắc.
Trên cổ ché rượu, người ta quàng một chuỗi vòng cườm, hạt lớn. Trước ché rượu
là một mâm lễ, trên đặt một bát lửa than, hai bát nước lã, một mủng gạo đầy.
Trên thành mủng gạo cắm một cây nến bằng sáp ong đang cháy. Tiếp theo, ông khấn
xin cắt tiết gà. Ông chắp hai tay lên đầu khấn báo, khấn mời yang Ngok, yang
Gru (thiên thần) yang Cơk (thiên thần) yang muk kay (nhân thần) về dự lễ ăn lúa
mới của gia tộc, mời bề trên chứng giám cho lễ cắt tiết gà, đổ nước vào ché rượu
cần. Khấn rằng: “Gà khỏe mạnh, rượu cần tinh khiết không phải là cặn bã... lễ vật
này là để nghĩa đền, ơn trả đối với bề trên”.
Sau khi khấn, gà sẽ đem đến trước bàn thờ
hướng Nam cắt tiết, nước sẽ được đổ vào ché. Khấn xong, hai người trong gia
đình đến bên ché rượu, hút rượu cần ra bầu, ra bát, bưng qua bàn lễ hướng Bắc.
Sau đó là đến lễ cúng chính. Bàn lễ hướng
Bắc đặt sát vách. Trên tường, chính giữa bàn lễ, người ta dùng 2 sợi dây cột đầu
một đoạn dài khoảng 0,8 mét hoặc đóng dính giăng ngang 1 sợi dây. Trên đó người
ta treo một bộ áo, váy, khăn của phụ nữ, ở hai đầu dây được móc vào 2 hạt cườm.
Lễ vật trong lễ cúng chính gồm: 1 con gà, 1 ché rượu cần, 5 bát cơm cao ngọn. Trên
mỗi bát cơm đều có 1 con cua núi và 1 củ hành để nguyên cả lá. Ngoài ra còn có
nhiều chén hạt nổ, gạo, nước lã, trầu cau. Các lễ vật này được sắp thành 3 mâm
theo hàng dài: mâm của các yàng, mâm của ông bà, mâm dành cho thổ địa.
Nội dung lời khấn trong lễ này là mời các
thần tạo dựng đất trời, mưa gió, cây cối, con người và muôn vật, mời thần linh
ông bà tổ tiên, linh hồn những người đã khuất về hưởng thảo lễ vật, về ăn lúa mới
và cầu xin các thần linh ban cho sự sinh sôi nảy nở cho con người, vật nuôi và
cây trồng.
Sau đó là phần lễ cúng thần lúa, bắp. Người
Raglai quan niệm lúa và bắp cũng có hồn. Lúa là hồn con gái, bắp là hồn con
trai và phải làm các nghi lễ cúng. Trong phần lễ này có các bài hát khấn ru hồn
lúa, hồn bắp. Khi cúng xong, thầy cúng làm lễ chúc phúc cho các thành viên
trong tộc họ.
Phần hội: Sau khi các thầy cúng làm xong
các nghi lễ cúng kính, đội mã la bắt đầu múa vòng tròn và đánh trống, chiêng và
mã la. Dẫn đầu là người đánh trống lớn, ăn mặc chỉnh tề từ ngoài sân đi vào
nhà, theo sau là 7 nhạc công mã la (bộ mã la Raglai được coi như một gia đình mẫu
hệ, mã la mẹ và các mã la con gái: mã la con cả, mã la con giữa, mã la con thứ,
mã la con út). Họ vừa nhảy múa vừa đánh hàng trăm điệu mã la. Mọi người mời
nhau uống rượu cần trong không khí vui vẻ. Nhiều thanh niên mang theo các nhạc
cụ của mình như kèn môi, khèn bầu, đàn chapi và tâm sự với nhau bằng các âm
thanh nhạc cụ và các làn điệu hát giao duyên rất phong phú như các điệu: manhi,
hari, sari, mayeng, kathơng, doh dăm da ra… Mọi người uống rượu cần, đánh mã
la, nhảy múa suốt đêm...
Qua phân tích các đặc trưng dân gian,
nguyên hợp và các yếu tố về thời gian, không gian của lễ hội ăn lúa mới, chúng
tôi cho rằng lễ hội này chính là tết năm mới xưa kia của tộc người Raglai. Rất
cần có các công trình nghiên cứu sâu hơn về lễ hội này và đi đến kết luận cuối
cùng. Nếu đúng lễ hội ăn lúa mới thực sự là tết năm mới, thì cần có kế hoạch
khôi phục lại đầy đủ các yếu tố gốc của lễ hội và tạo điều kiện cho bà con
Raglai tổ chức tết năm mới riêng cho mình (tương tự như lễ hội Ka tê của dân tộc
Chăm) nhằm góp phần bảo tồn sắc thái văn hóa truyền thống của dân tộc Raglai,
phát huy tính đa dạng trong nền văn hóa Việt Nam thống nhất.
Những lễ hội truyền thống của mỗi dân tộc
đều chứa đựng rất nhiều giá trị văn hóa quí báu mà không phải sưu tầm, nghiên cứu
và hiểu được ngay những giá trị, và chính những giá trị văn hóa ấy đã khẳng định
bản sắc văn hóa, tạo nên gương mặt riêng của mỗi một dân tộc. Vì vậy, cần đẩy mạnh
công tác nghiên cứu, chắt lọc tìm ra những luận cứ, luận chứng tham mưu cho các
cấp lãnh đạo xây dựng những đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn nhất.
Hoàng
Thị Lê (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét