Dân tộc Chứt, còn gọi là người Rục, người Sách, người A rem, người
Mày, người Mã liềng, người Tu
vang, người Pa leng, người Xe lang, người Tơ hung, người Cha cú, người Tắc cực,
người U mo, người Xá lá vàng, là một dân tộc ít người sinh sống tại Lào và Việt
Nam.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, người Chứt ở Việt Nam có dân số 6.022 người, cư trú tại 23 trên tổng số
63 tỉnh, thành phố. Người Chứt cư trú tập trung tại các tỉnh: Quảng Bình (5.095
người, chiếm 84,6% tổng số người Chứt tại Việt Nam), Đắk Lắk (435 người), Lâm Đồng
(266 người), Hà Tĩnh (156 người)
Tại Lào, theo ước tính của Ethnologue thì
có khoảng 450 người Chứt (Ethnologue ghi là theo điều tra dân số năm 1995 của
Lào) sinh sống tại tỉnh Khammouan.
Người Chứt là tộc người sử dụng ngôn ngữ
cùng ngữ hệ với tiếng Việt. Tiếng Chứt được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm vì
gần gũi với tiếng Kinh nguyên thủy. Tiếng Chứt tách ra khỏi nhóm tiếng Việt Mường
đầu tiên vào khoảng thế kỷ V-VI, sau đó khá lâu, vào khoảng thế kỷ X – XI tiếng
Mường mới tách ra (Phạm Đức Dương). Giáo sư Trần Trí Dõi đã nhận xét tiếng Chứt
như “bảo tàng lưu giữ các giai đoạn phát triển của tiếng Việt”. Văn hóa của người
Chứt cũng cho phép tìm lại lịch sử phát triển của người Việt cổ.
Người Chứt (nhóm Rục) có kỹ thuật trèo cây
nổi tiếng để lấy mật ở các tổ ong trên cây cao. Họ leo thang bằng dây mây. Mỗi
nấc thang là một vòng dây buộc vào thân cây, có chỗ đặt bàn chân. Leo đến đâu,
buộc vòng thang đến đó.
Người Chứt (nhóm Rục) có kỹ thuật trèo cây
nổi tiếng để lấy mật ở các tổ ong trên cây cao. Họ leo thang bằng dây mây. Mỗi
nấc thang là một vòng dây buộc vào thân cây, có chỗ đặt bàn chân. Leo đến đâu,
buộc vòng thang đến đó.
Người Chứt sống chủ yếu bằng trồng trọt và
một phần nhờ săn bắn và hái lượm. Họ ăn cơm đồ cách thuỷ với thức ăn thường có
rau rừng thái nhỏ nấu với ốc hay cá suối.
Tộc người Rục được một tiểu đội Công an Quảng
Bình phát hiện vào ngày 12 tháng 8 năm 1959 trong hang sâu tại vùng hang động
Phong Nha – Kẻ Bàng thuộc xã Thượng Hóa huyện Minh Hóa (Quảng Bình) gồm 11 hộ với
34 người.
Người Rục có tập quán rất lạc hậu, quen ở
hang sâu, săn bắt, hái lượm, nhưng họ cũng có một cuộc sống tinh thần phong phú
với những nhạc cụ núi rừng như đàn trơ bon, đàn môi, sáo dọc và làn điệu cà lưm
cà lềnh. Do tập quán lạc hậu, sống trong hang đá, săn bắt, hái lượm tận rừng
sâu, người Rục có nguy cơ suy giảm dân số hết sức nghiêm trọng.
Trong hơn 40 năm, người Rục đã làm một cuộc
hành trình về với cộng đồng. Đến cuối năm 2006, nhân khẩu đã lên đến 414 người
và được phân bố trong bốn bản Phú Minh, Ón, Yên Hợp và Mò O – Ồ Ồ thuộc xã Thượng
Hóa, ở xen với các tộc như Sách, Mày, Kinh. Số liệu năm 2009 số lượng nhân khẩu
có khoảng 600 người.
Bản thân chữ “Chứt” cũng được hiểu là hang
đá, nơi trú ngụ của người Chứt. Với trình độ sản xuất thấp, người Chứt không biết
dệt vải. Vào mùa hè nam giới Chứt đóng khố và cởi trần còn phụ nữ Chứt mặc váy.
Mùa đông, họ mặc áo làm bằng vỏ cây.
Trẻ em rất thích chơi đu. Người Chứt thường
làm đu cho trẻ em nhỏ dưới các gốc cây to có bóng mát, treo đu ngay trên các
cành cây.
Ngày nay người Chứt đã sống định canh định
cư, nhưng các làng của người Chứt (gọi là Cà Vên) thường tản mạn và nhà cửa
không bền vững. Họ sống nhờ trồng trọt (nhóm Sách làm ruộng, còn nhóm Rục và A
rem là làm rẫy), canh tác lúa, đậu, lạc, trầu không. Khi đến mùa thu hoạch, họ
vẫn lên ở các hang núi gần nương rẫy, chỉ trở lại bản làng khi mùa màng xong
xuôi. Người Chứt cũng hái lượm, săn bắn, đánh cá, chăn nuôi. Nghề mộc và đan
lát khá phổ biến trong các tộc người Chứt. Các đồ dùng bằng kim loại và vải
vóc, y phục phải mua hoặc trao do người Chứt không trồng bông dệt vải hay chế tạo
đồ kim loại.
Người Chứt ngày nay thường nhận mình là họ
Cao, họ Đinh… Mỗi dòng họ đều có người tộc trưởng, có bàn thờ tổ tiên chung.
Trong làng người Chứt, tộc trưởng nào có uy tín lớn hơn thì được suy tôn làm
trưởng làng.
Người Chứt có quan hệ vợ chồng bền vững. Lễ
cưới được tổ chức bên nhà gái trước lễ đón dâu. Lễ vật trong đám cưới ngoài lợn,
gà, luôn phải có thịt khỉ sấy khô.
Việc ma chay của người Chứt đơn giản, nhóm
Sách có tiếp thu ảnh hưởng của người Kinh. Tang gia được tổ chức trong 2 đến 3
ngày bằng nghi lễ cúng bái, rồi đưa người chết đi chôn. Mộ được đắt thành nấm đất,
không có nhà mồ bên trên. Sau 3 ngày, tộc trưởng làm lễ gọi hồn cho người chết
về ngụ tại bàn thờ tổ tiên ở nhà tộc trưởng, từ đó người thân không chăm sóc mộ
nữa.
Ngoài, thờ cúng tổ tiên, người Chứt tin có
ma rừng, ma suối, ma không trung, ma bếp… Trong tín ngưỡng của người Chứt cũng
có Thần nông bảo vệ mùa màng và là vị thần tối cao. Hoạt động nông nghiệp thường
được thực hiện kèm theo các nghi lễ như lễ xuống giống, lễ sau gieo hạt, lễ
cúng hồn lúa, lễ ăn mừng được mùa.
Người Chứt có làn điệu dân ca Kà-tưm, Kà-lềnh.
Nhạc cụ có khèn bè, đàn ống lồ ô loại cho nam và loại cho nữ, sáo 6 lỗ… Dân tộc
Chứt có vốn truyện cổ dồi dào và ca dao hát ru gồm nhiều đề tài khác nhau.
Người Chứt có món cơm Pồi được chế biến rất công
phu. (ảnh: T.L.)
Ca dao cơm Pồi
1. Trời mưa dác chẳn queng hồi.
Eng khôông lế cấy, ai tâm Pồi cho eng ăn.
Nghĩa là:
Trời mưa nước chảy quanh hồi.
Anh không lấy vợ, ai giã bồi cho anh ăn.
2. Trôông cho mau tếng mùa Pồi
Nhớ con ôốc tực tang ngồi trên vâm.
Nghĩa là:
Trông cho mau đến mùa Pồi
Nhớ con ốc vặn đang ngồi trên mâm.
Và:
3. Mặt trời tá các tôộng ngồi
Ti nô cúng nhớ cơm Pồi, thâu lang.
Nghĩa là:
Mặt trời đã gác động ngồi
Đi đâu cũng nhó cơm Pồi, rau khoai.
“Cứ đến ngày 11/12 (âm lịch) bà con đồng
bào dân tộc Chứt đang sửa soạn chuẩn bị cho một mùa Tết truyền thống – Tết
Cham-cha-bới. Cham-cha-bới có nghĩa là Mừng cơm mới. Sau một mùa thu hoạch bội
thu người dân lại làm lễ tạ ơn trời đất đã cho mưa thuận gió hòa. Đó như một lời
tri ân của đồng bào đối với mẹ thiên nhiên trong một năm qua.” (trích Phượng Vũ)
Dưới đây mình có các bài:
– Độc Đáo Văn Hóa Nguyên Thủy Của Dân Tộc
Chứt
– Tiếng đàn tình yêu của người Chứt
– Vốn cổ vùng cao
– Mừng cơm mới với người Chứt ở Quảng Bình
– Kiểu tìm hiểu nhau độc đáo của dân tộc
Chứt
– Đất thiêng lập làng của người Mày (nhóm
dân tộc Chứt)
– Đạo chia nước của người Mày (Dân tộc Chứt)
– Tục chữa bệnh độc đáo của người Chứt, Quảng
Bình
– Tộc người Rục lọt top 10 dân tộc bí ẩn
nhất thế giới
Nét nổi bật của ngôi nhà sàn người Chứt
(nhóm Arem) là hai chiếc khau cút được bố trí ở hai đầu nóc nhà. Khau cút được
làm từ hai đoạn cây lồ ô hoặc gỗ buộc chéo nhau tại thành một góc vuông. Nửa
trên được vót nhọn, nửa dưới buộc vào rui của mái nhà. Khau cút chẳng những để
giữ cho đầu mái nhà khỏi bị gió lật mà điều có ý nghĩa xã hội cơ bản đối với cư
dân ở đây là: Dấu hiệu để nhận biết đồng tộc.
Nét nổi bật của ngôi nhà sàn người Chứt
(nhóm Arem) là hai chiếc khau cút được bố trí ở hai đầu nóc nhà. Khau cút được
làm từ hai đoạn cây lồ ô hoặc gỗ buộc chéo nhau tại thành một góc vuông. Nửa
trên được vót nhọn, nửa dưới buộc vào rui của mái nhà. Khau cút chẳng những để
giữ cho đầu mái nhà khỏi bị gió lật mà điều có ý nghĩa xã hội cơ bản đối với cư
dân ở đây là: Dấu hiệu để nhận biết đồng tộc.
Độc Đáo Văn Hóa Nguyên Thủy Của Dân Tộc Chứt
Trong tiến trình định canh định cư, tộc
người Chứt miền núi Tây Bắc ở Quảng Bình đang giữ lại những nếp sống mang sắc
thái khởi nguyên. Rõ ràng nếp sống đó không biểu thị sự chậm tiến mà ngược lại
nó thể hiện bản lĩnh văn hóa đã được sàng lọc qua bao biến thiên của lịch sử…
Địa bàn cư trú của tộc người Chứt ở vùng rừng
núi cao với nhiều loại cây ăn quả, củ, hạt như: măng, nấm, trái cây rừng, rau rừng,
cùng đủ các loài cây dược liệu có giá trị như: sâm trúc, đương quy, sa nhân…
Trong các hoạt động kinh tế của họ, hái lượm là một hình thái kinh tế chủ đạo.
Thường thì người phụ nữ sẽ đảm đương việc hái lượm nhưng vì có nhiều công việc
nặng nhọc như đốn ngã cây, bóc vỏ, lấy lõi cây nhúc (một loài cây tinh bột),
đào cây móc, củ mài… chỉ có đàn ông mới làm được nên việc hái lượm của người Chứt
là công việc chung của mọi người. Người Chứt ngày càng ý thức được việc an cư lạc
nghiệp vì thế hình thái kinh tế hái lượm dần được thu hẹp. Trước đây, người Chứt
hoàn toàn bám víu vào các sản vật rừng núi nhưng hiện tại họ chỉ hái rau rừng,
măng, nấm để làm thức ăn trong bữa cơm hoặc mang tới những phiên chợ vùng cao để
bán.
Nơi tộc người Chứt sinh sống, thú rừng
phong phú về loài và đa dạng về số lượng: gấu, voi, nhím, khỉ, chồn, sóc, cọp,
nai, lợn rừng… nên nghề săn bắn rất phát triển. Công việc săn bắn là của đàn
ông khỏe mạnh, nhanh nhẹn và thường được tổ chức vào mùa mưa. Nếu đi săn các loại
thú rừng nhỏ, không hung dữ thì họ đi riêng rẽ từng cá nhân rồi về trong ngày,
nhưng đàn ông người Chứt thường tổ chức các nhóm đi săn khoảng 5-7 người rồi đi
trong vòng 3-5 ngày. Phương thức phân phối thịt săn của đồng bào Chứt vẫn còn
mang nét bình quân nguyên thủy. Thịt săn được người đứng đầu nhóm đi săn lấy
toàn bộ cái đầu, một ít xương, số còn lại được chia đều cho mọi người. Tuy vậy,
đã có mầm mống của sự phân chia theo công sức lao động, người bắn trúng con thú
được quyền nhận phần đầu và chỗ thịt ở mũi tên bắn vào, còn số còn lại chia đều.
Hiện nay, săn bắn là một nghề bổ trợ vào việc tăng thêm thực phẩm và làm phương
tiện trao đổi kinh tế giữa đồng bào Chứt với những cư dân cận cư.
Nỏ - loại vũ khí tự tạo của dân tộc Chứt.
Ngoài hái lượm, sắn bắn thì đánh bắt cá
cũng là hình thái kinh tế chủ đạo của đồng bào Chứt. Hoạt động đánh bắt cá của
họ diễn ra liên tục vào ban ngày và không theo mùa, cứ mỗi buổi sáng khoảng từ
6-9 giờ, còn buổi chiều từ 14-17 giờ. Sớm chiều từng đoàn người trong các bản
mang lưới vớt cá, kính lặn và giỏ đi xuống các khe suối để bắt cá. Riêng mùa
mưa thì hoạt động đánh bắt cá của họ diễn ra cả ngày lẫn đêm cùng nhiều hình thức
truyền thống như dùng lưới, mợng, đơm, đó, lằn, rọ, chài, lao có bịt sắt, súng
bắn cá để bắt cá. Có những phương pháp đánh bắt cá truyền thống mà tộc người Chứt
thường sử dụng. Họ dùng vỏ cây đò ho có chứa chất độc thả xuống một đoạn khe,
suối hay một cái hồ nào đó. Khi cá đã ngấm chất độc và nổi lên trên mặt nước
thì họ chỉ việc lấy vợt vớt lên bỏ vào oi. Ngoài ra người Chứt còn dùng cả vỏ
cây chẹo, giã nhỏ, thả xuống lòng suối làm cho cá cay mắt rồi nổi lên trên mặt
nước. Dần dần những cách đánh bắt này không được người Chứt sử dụng nữa, bởi họ
đã nhận thức ra mức độ nguy hiểm của chất độc từ vỏ cây sẽ ngấm dần vào cơ thể
và gián tiếp sinh ra nhiều thứ bệnh tật.
Trong đời sống sinh hoạt của tộc người Chứt,
cách lấy lửa bằng dụng cụ lấy lửa được truyền từ đời này qua đời khác cũng là
nét văn hóa đậm màu nguyên thủy. Muốn có lửa để dùng, người Chứt dùng một miếng
sắt nhỏ và một hòn đá cuội màu xám trong lòng màu đen và bùi nhùi bằng vỏ móc.
Khi lấy lửa, tay trái cầm hòn đá, ngón tay cái kẹp bùi nhùi ở đầu viên đá, tay
phải cầm thanh sắt đánh cạnh của nó theo chiều thẳng đứng với hòn đá, làm nhiều
lần cho nóng dần lên để tạo thành ngọn lửa. Trong mỗi gia đình người Chứt,
thanh sắt nhỏ được xem là vật gia bảo, truyền từ đời này qua đời khác.
Văn hóa nguyên thủy đa sắc ra đời trên nền
tảng lao động miệt mài của loài người, mang lại ánh sáng tri thức mà con người
hiện đại đang thừa hưởng. Ở góc độ văn hóa, người Chứt cũng đang gìn giữ và làm
mới một số dấu ấn văn hóa nguyên thủy độc đáo, song song với việc định canh định
cư, nâng cao dân trí, bồi dưỡng thể chất, xóa bỏ những tập tục canh tác lạc hậu,
mê tín dị đoan và từng bước giảm nghèo bền vững.
Bà Sen với cây đàn Trơ Bon. (ảnh dantri)
Tiếng đàn tình yêu của người Chứt
Đáp lại tiếng đàn trơ bon réo rắt của cô
gái, tiếng kèn môi là lời thủ thỉ tâm tình của chàng trai. Sống bao đời trên những
đỉnh núi cao, cách xa các dân tộc khác, người Chứt làm bạn với tiếng đàn, tiếng
kèn, tiếng sáo. Những âm thanh rủ rỉ như vọng về từ một miền kí ức xa thẳm, như
tiếng nước chảy róc rách trên những rục nước, tiếng gió thì thào xuyên những
tán rừng.
Bà Hồ Thị Sen ở bản Rào Tre (xã Hương
Liên, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh) không nhớ năm nay mình bao nhiêu tuổi, cũng
không nhớ mình biết kéo đàn trơ bon từ bao giờ. Bà chỉ nhớ rằng, từ khi chưa có
người yêu, bà đã kéo đàn trơ bon thâu những đêm hội: “Chưa có chồng, mình làm
cái đàn này thổi chơi. Tôi với ông chồng cũng nên duyên từ tiếng đàn này, từ tiếng
kèn môi kia. Ông ấy không dám hỏi, thổi sáo thay cho lời tình yêu. Tôi cũng
thích nhưng ngại không nói, kéo đàn trả lời”.
Cây đàn trơ bon của người Chứt rất đơn giản:
chỉ gồm 1 ống nứa, 2 dây cước chạy song song theo ống nứa và 1 cật nứa dùng để
kéo đàn. Vì cây đàn thô sơ như vậy nên người Chứt còn gọi đàn trơ bon đơn giản
là đàn nứa.
Ngày trước, những đêm mùa xuân, nam nữ hẹn
hò bên bờ suối. Các cô gái kéo đàn trơ bon, các chàng trai gẩy kèn môi, đệm nhạc
cho những bài dân ca Chứt.
Ông Phượng đang chế tác nhạc cụ. (ảnh dantri)
Trước khi kéo đàn trơ bon, người ta phải
làm ướt cật nứa. Nếu cật nứa không đủ ẩm thì đàn sẽ không kêu.
Ông Hồ Phượng là người khéo tay có tiếng ở
bản Rào Tre. Hầu hết những cây đàn trơ bon, kèn môi ở bản Rào Tre đều do ông
làm; nhiều người biết kéo đàn, thổi kèn là do ông dạy: “Đàn với kèn là trêu
nhau, lời mình hỏi nhau. Ví dụ, hỏi: đằng em có yêu anh không? Đằng vợ đánh đàn
trơ bon có nghĩa là : em yêu anh”.
Theo ông Hồ Phượng, trước đây người Chứt ở
bản Rào Tre còn có khèn bè, nhưng từ lâu không còn ai biết làm, không ai nhớ
cách dùng. Người biết đánh đàn trơ bon, biết thổi kèn môi ở bản Rào Tre giờ
cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Theo nhạc sỹ Trịnh Ngọc Châu (Sở VH-TT-DL
Hà Tĩnh) nhạc cụ của người Chứt không phong phú, đa dạng như các dân tộc khác,
âm lượng nhỏ, với các cung bậc đơn giản. Nhạc cụ phản ánh trình độ phát triển của
chủ nhân chúng – một dân tộc nhỏ bé giữa đại ngàn Trường Sơn: “Đàn của người Chứt,
kể cả âm thanh và các cung bậc rất đơn giản. Để làm sáo trúc, nghệ nhân phải luộc
nước muối, ngâm; cây trúc phải già, các đốt khác nhau. Đây, người Chứt dùng nứa
non, cộng hưởng với ống cũng kém. Dây cước, dây tơ thì âm thanh có vẻ mềm hơn
nhưng không thể lớn như dây kim khí, kim loại được”.
Song, đối với người Chứt ở bản Rào Tre, dù
nhạc cụ của họ đơn giản, nhưng đó là niềm tự hào về dân tộc mình.
Vốn cổ vùng cao
Con ngủ đi con
Cho mẹ đi tuốt lúa về làm ăn
Cho bố đi bắn con gấu về làm ăn
Tỉnh Quảng Bình có hai dân tộc thiểu số:
dân tộc Bru-Vân Kiều và dân tộc Chứt , với hơn 19.000 nhân khẩu, chiếm khoảng
2% dân số của tỉnh. Dân tộc Bru-Vân kiều gồm 4 tộc người: Vân Kiều, Khùa, Ma
coong, Trì . Dân tộc Chứt gồm 5 tộc người: Sách, Mày, Rục, A rem, Mã liềng .
Các dân tộc thiểu số còn lại với số dân không nhiều như: Thổ, Mường, Tày, Thái,
Pa cô…
Đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình
có dân số không nhiều, lại phân thành nhiều tộc người, trong đó có những tộc
người dân số chỉ vài trăm người như A rem, Rục.., sinh sống chủ yếu ở các xã
vùng sâu, biên giới, nơi có điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội hết sức khó
khăn. Tuy vậy, trong quá trình lao động sản xuất và đấu tranh với thiên nhiên để
sinh tồn, đồng bào các dân tộc thiểu số Quảng Bình đã cố gắng sáng tạo và gìn
giữ cho riêng mình rất nhiều giá trị văn hoá vật chất, tinh thần độc đáo, trong
đó có vốn văn học dân gian đặc sắc. Kho tàng văn học dân gian dân tộc thiểu số
Quảng Bình mang đậm bản sắc riêng của tộc người.
Ngoài ra, ở vùng miền núi tỉnh Quảng Bình
còn có khoảng 35000 người Nguồn, một tộc người của người Việt, cận cư lâu đời với
đồng bào Chứt, do kết quả của sự giao lưu văn hoá, nên xuất hiện một số yếu tố
chung, gần gũi, đặc biệt trong văn hoc dân gian với dân tộc Chứt, nên cũng được
chúng tôi xem xét chung ở đây.
Trong kho tàng văn học dân gian dân tộc
thiểu số Quảng Bình, nghệ thuật ngôn từ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, trong
đó, ca dao, dân ca xuất hiện thường xuyên trong đời sống tinh thần của đồng
bào; ngoài ra, còn có tục ngữ, câu đố và một số loại thể khác, nhưng số lượng
không đáng kể.
Ca dao dân tộc thiểu số Quảng Bình (bao gồm
cả phần lời trong các làn điệu dân ca) có nội dung và nghệ thuật khá độc đáo.
Nhìn chung, ca dao các dân tộc thiểu số Quảng bình tập trung phản ánh các nội
dung chính sau đây:
- Tình yêu quê hương, làng bản, lòng tự
hào với sự giàu có, trù phú của núi rừng, qua đó động viên nhau quyết giữ lấy
“núi rừng quê ta”.
- Tình yêu lao động, dẫu là một thứ lao động
cổ truyền vất vả từ sáng đến chiều, nhưng là tự do, nên vẫn say sưa , vẫn thích
thú, vì nó đem lại cuộc sống vui tươi.
- Tình yêu nam nữ với tất cả các cung bậc
tình cảm của nó.
Đi tìm con ká tơm, hỡi anh!
Bắt được bỏ vào ca dăng, hỡi anh!
Với nội dung phong phú, đượm chất trữ
tình, ca dao dân tộc thiểu số Quảng bình được sử dụng phổ biến trong nhiều bối
cảnh: Đọc cho nhau nghe, dùng để hát đối đáp, làm lời cho các khúc dân ca; gắn
bó một cách tự nhiên với sinh hoạt hàng ngày của đồng bào.
Với đồng bào Nguồn, bên cạnh các bài ca
dao ca ngợi quê hương làng bản (Thứ nhất Thanh Lạng, Bàu La/Thứ hai Hung ải, Thứ
ba Minh Cầm…), phản ánh tình yêu đôi lứa:
Em giàu rồi em lại khôn
Anh đang đói rách như chồn thóc mách tho
me…
Còn có rất nhiều các bài ca dao khác được
sử dụng vào dân ca, mà ngay hệ thống tên gọi cũng đã cho thấy sự đa dạng, phong
phú trong đời sống vật chất, tình cảm của đồng bào:
Đi săn
Vợ anh anh hỏi đã lâu
Hát năm ba chuyện giải khuây
Con cá chặt đầu chặt đuôi
Nỗi khổ lấy chồng chung
Trách tình nhân…
Cần phải nói đến ở đây phần lời ca – thực
chất là những khúc ca dao – trong điệu Hát sắc bùa, Hát chúc trò của đồng bào
Nguồn. Đây là lối hát phổ biến của người Nguồn dùng để chúc phúc, chúc lộc lẫn
nhau trong dịp tết âm lịch. Điệu hát này thể hiện khả năng ứng tác lời ca tuyệt
vời của các nghệ nhân, vì tuỳ theo từng cuộc hát ở từng gia đình mà nội dung diễn
xướng có thể thêm bớt, dài ngắn khác nhau, nhưng không thoát ra ngoài nội dung
chúc tụng:
Được mùa để ăn cho lời
Để ăn cho lời mà để chơi lâu
Mừng ông với mụ sống lâu thọ trường
Lê lê là lê
Với người Chứt và người Bru Vân Kiều, số
lượng ca dao tồn tại độc lập như một đơn vị văn học dân gian chỉnh thể không
nhiều. Đa số trong đó đã hoá thân vào dân ca và hát ru và muốn xem xét nó không
thể không nhắc đến các làn điệu Pa eo, Tơm tá lêng (Dân tộc Chứt); Oát, Prơdoạc,
Roai, Adâng con (Dân tộc Bru Vân Kiều), để giao lưu trong lao động, trong những
lúc đi sim tỏ tình, trong các đám hội hè, cưới xin, hoặc tế lễ ma chay, và cả
trong những lúc ru con ngọt ngào êm ái…
Chiếc đàn trơ bon (phải) và chiếc bẫy chuột (trái)
tại Bảo tàng Dân tộc học.
Dẫu làm ăn vất vả, một nắng hai sương, nhưng
ít tìm thấy những lời kêu than buồn khổ trong các bài dân ca Chứt và Bru Vân Kiều.
Ở đó người ta thường thấy những lời ca ví von ẩn dụ sâu sắc, đối đáp trữ tình
giữa nam và nữ mà thôi:
Nam:
Đi tìm con ká tơm, chị ơi!
Bắt được bỏ vào ca dăng, chị ơi!
Lấy trầu ăn trầu, chị ơi!
Như con chim rừng Lào
Như con chim phía Nam
Như con chim miền xuôi, chị ơi!
Nằm ở ngọn khe này.
Sang ở ngọn khe kia…
Nữ:
Đi tìm con ká tơm, hỡi anh!
Bắt được bỏ vào ca dăng, hỡi anh!
Lấy trầu ăn trầu, hỡi anh!
Đã chờ đợi nhau
Chờ đợi đến gặp nhau
Mang nặng, nắng nóng mấy cũng đi, hỡi anh!
(Pa eo-Tơm tá lêng – Dân tộc Chứt)
Hoặc:
Nam:
Thân thể em mịn màng như hạt gạo trắng đầu
mùa, em ơi!
Da dẻ em mát mẻ như nước trong đầu nguồn,
em ơi
Nữ:
Yêu anh lắm, anh ơi! Thân anh cân đối đẹp
đẽ
Yêu anh lắm anh ơi! Dáng bộ anh sao dễ
thương quá chừng !
Thấy anh ơi! Muốn lấy cơm trong tip ra mời
anh
Em muốn cởi tấm áo đang mặc ra tặng anh!
(Oát – Dân ca Bru Vân Kiều)
Tình cảm gia đình, tình yêu thương cha
con, mẹ con cũng được biểu hiện sâu sắc trong lao động làm ăn hằng ngày bằng những
lời ca mộc mạc, chan chứa tình người: ông bà dạy cháu, cha mẹ dạy con nên người:
Siêng làm ăn, đừng nhác
Muốn được vợ, được chồng
Như thiên hạ,
Như xóm làng
Phải làm bằng xóm làng
Đừng nói huyên thuyên
Chớ ghen tuông thàm thẹ
Mà phải theo anh em
Theo họ hàng làng xóm
(Bố dạy con – Hát ru Dân tộc Chứt)
Hoặc:
Ơ ơi! Con cáo ngủ ngồi ơ ơi!
Con tê giác ngủ gật
Con voi rống tiếng
Con nghé ọ ơ ơi!
.......
Cho con mang vòng bạc nặng cùi tay, con
gái mẹ ơi
Cho con mang vòng vàng nặng cổ tay, con
gái mẹ ơi
(Hát ru Dân tộc Bru Vân Kiều)
Ca dao dân tộc thiểu số Quảng Bình với tư
cách lời các bài dân ca cũng được sử dụng nhiều trong những lúc đi phát rừng
làm rẫy, đi rừng tìm ong, làm vòng bẫy chim thú rừng, đi khe suối câu, chài cá,
bắt cua đá, xúc tôm hoặc đi nằm chòi canh giữ nương rẫy:
Con ngủ đi con
Cho mẹ đi tuốt lúa về làm ăn
Cho bố đi bắn con gấu về làm ăn…
Ngủ đi con
Để mẹ đi làm
Lấy cây mía, lấy quả chuối
Để cho mình ăn…
Chị gái chăm em để mẹ ra đồng.
Ca dao dân tộc thiểu số Quảng Bình có nhiều
nội dung phong phú như đã trình bày, và hơn thế, nó còn có một giá trị nghệ thuật
đặc sắc với lời lẽ trau chuốt, giàu hình tượng, có âm hưởng sâu lắng đủ để thể
hiện các cung bậc tình cảm giản dị nhưng rất độc đáo của dân tộc mình, và do vậy
đã được chính đồng bào trân trọng và lưu truyền.
Cũng cần nói thêm rằng thể loại tục ngữ, một
thể loại suy lý, mặc dù ít, nhưng cũng đã có mặt trong kho tàng văn học dân
gian dân tộc ít người Quảng Bình. Đó là những quan sát trực giác để đúc rút nên
các kinh nghiêm sống trước các hiện tượng tư nhiên, xã hội:
Rạng sáng nấm bét bắt đầu nhú
Mặt trời đứng ngày (trưa) nấm đai xoè tán
Xách bầu phải xem quai
Địu con phải xem vải buộc
Làm cỏ phải xem cán nầm
Trong đời sống thực tế, miếng ăn, nơi ở của
đồng bào dân tộc thiểu số Quảng Bình xưa phần nhiều còn dựa vào sản phẩm tự
nhiên, tùy thuộc vào bối cảnh tự nhiên, trên cơ sở nền kinh tế chiếm đoạt là chủ
yếu và tổ chức xã hội của cộng đồng còn đơn giản, theo đó kinh nghiệm sản xuất
và sinh hoạt xã hội còn ít. Và dây cũng là một thực tế làm hạn chế sự nẩy nở loại
hình tục ngữ trong kho tàng văn học dân gian ở đây.
Ca dao dân ca đồng bào dân tộc thiểu số Quảng
Bình là một sản phẩm tinh thần vô cùng quý giá cần phải được tiếp tục sưu tầm,
nghiên cứu và phát huy.
Ngày đầu tiên lễ mừng cơm mới của người Chứt được
tổ chức tại gia đình.
Mừng cơm mới với người Chứt ở Quảng Bình
Khi những hạt lúa nương, hạt lạc, củ sắn,
củ khoai được thu hoạch rồi gùi về nhà, phơi khô, cất vào bồ cũng là lúc người
Chứt nghỉ ngơi sau một năm ròng rã chăm chút nương rẫy. Họ sẽ tổ chức lễ cúng
cơm mới mà tổ tiên đã duy trì từ bao đời nay.
Ngày đầu tiên lễ mừng cơm mới của người Chứt
được tổ chức tại gia đình
Với hơn gần 4000 người, người Chứt cư trú
chủ yếu ở huyện Minh Hoá, Tuyên Hoá và Bố Trạch (Quảng Bình). Sống giữa đại
ngàn Trường Sơn hùng vĩ, người Chứt đang hòa nhập nhanh với xu thế xây dựng cuộc
đời mới mà vẫn bảo lưu được cốt cách đặc sắc của tộc người mình…Trong số đó phải
kể đến lễ mừng cơm mới.
Ngày tổ chức lễ cúng mừng cơm mới do già
làng người Chứt quyết định, không ràng buộc bởi một ngày ấn định từ trước,
nhưng nhất thiết phải diễn ra trong hai ngày vào trung tuần tháng Chạp. Theo
quan niệm của đồng bào, cúng tế trời đất, tổ tiên không thể làm qua loa, đại
khái mà phải thật cặn kẽ, to tát thì thần linh, ông bà mới thương, mới phù hộ…
Sáng sớm tinh mơ ngày cúng đầu tiên, từng
chủ hộ đánh thức mỗi thành viên trong gia đình dậy, chuẩn bị lễ vật tinh tươm.
Đến giờ cúng, chủ hộ, con trai được phép ngồi ngoài gian đã lập bàn thờ. Chủ hộ
phải là đàn ông, không thì con trai, con rể đứng ra làm chủ lễ. Còn vợ, con
gái, con dâu đứng tách biệt ở gian trong ngôi nhà sàn, không được bước tới gian
để bàn thờ.
Lễ vật cúng gồm: một đĩa trầu cau, một vò
rượu cần, một con gà, một bát gạo tẻ, một cục xôi, một bộ cung tên, hai đọt lá
nón, hai chai rượu trắng,… Ngoài ra, phải có một hòn đá suối và cặp ống trống
mái. Cặp ống này làm bằng ống nứa, ống trống dài khoảng một mét, ống mái dài bằng
nửa ống trống, trong đó chứa một nắm gạo nếp. Người ta dùng nứa chẻ cái que bản
rộng bằng ngón tay trỏ dài chừng 20cm, một đầu vót nhọn rồi dùng dây mây buộc
chặt vào phần gốc của hai ống trống mái. Đầu vót nhọn được buộc trồi ra để khi
khấn họ sẽ cà vào hòn đá suối, phát ra âm thanh trầm bổng…
Từng người trong nhà đội lên đầu cái vòng
cỏ kết bởi lá cây rừng còn phảng phất hương thơm tự nhiên. Chủ hộ ngồi trước
bàn thờ, cầm hai ống trống mái cà lên hòn đá suối thành khẩn đọc lời khấn. Lời
cầu khấn của người Chứt đặc biệt ở chỗ được truyền nối từ đời này qua đời khác
bằng tiếng dân tộc, không cho phép ai trong gia đình rò rỉ sang tai người
ngoài. Khi các chủ hộ dứt lời khấn, giờ phút đó mới đúng là thời điểm khai hội.
Bà con san sẻ cho nhau đồ ăn, thức uống; tiếng nói cười rộn rã len lỏi khắp bản
làng. Đàn ông quây quần bên vò rượu cần; phụ nữ xúng xính xiêm y mời nhau từng
nắm nếp xôi; trẻ con nô đùa cùng đủ loại trái cây rừng… Tất cả hội tụ tạo thành
một cảnh tượng no đủ, yên ấm.
Trọng điểm lễ mừng cơm mới của người Chứt
nằm ở ngày cúng thứ hai. Vì quy mô lên tới hàng trăm người nên có đợt chính quyền
địa phương cùng già làng, trưởng bản chọn một ngã ba đường với bãi đất trống rộng
rãi. Nhưng thường họ lấy địa điểm có khe nước lớn để tiến hành các nghi lễ.
Lễ vật trong ngày cúng thứ hai do các tộc
người anh em trong vùng gộp lại. Bản này chuẩn bị bánh đòn ép (một dạng bánh
chưng), bản khác góp vui bằng những con lợn mán béo đẫy, các bản tiếp theo mang
tới gà đồi, ốc suối, cá mát khe, rượu trắng, rượu cần, bánh kẹo… Chủ sự lễ cúng
do một già làng uy tín đảm nhận. Khi khấn cũng theo nghi lễ như đã khấn trong từng
gia đình. Lời khấn mà người Chứt sử dụng trong mỗi dịp cúng cơm mới chứa đựng
nhiều bí ẩn, nhưng tựu trung lại đó là những lời cầu khấn cho giang sơn xã tắc
ngày một thịnh vượng, vái lạy trời đất ban mưa thuận gió hòa, yên ổn canh tác,
cầu xin sức khỏe để chống chọi lại với thú dữ, núi rừng cheo leo, thiên nhiên
khắc nghiệt…
Sắc màu lễ hội của người Chứt được biểu hiện
rõ khi lời khấn vừa dứt trên môi của già làng. Gái trai nối tay nhau thành vòng
tròn hát vang hai làn điệu dân ca “Kà tơm-tà lênh” (con trâu đi cày) và “Kà
răng-tà nên” (chiều về trên đỉnh núi) tạo nên không khí hăng say, vui nhộn, các
chàng trai, cô gái còn lúng liếng gửi gắm tâm tình cho nhau. Các loại nhạc cụ
dân gian, đàn ống (tờ rơ bon), sáo (pi), tù và (cà vá), chiêng (phèng la)… được
đồng bào mang ra sử dụng hết tối đa công năng vốn có. Thời khắc đó đất trời và
con người như được giao duyên, quyện lẫn vào nhau bởi sức sống nội sinh trong sinh
hoạt văn hóa dân gian của người Chứt.
Sơn nữ Chứt
Kiểu tìm hiểu nhau độc đáo của dân tộc Chứt
Phong tục cưới xin của người Chứt có nhiều
nét khá độc đáo, trong đó trai gái người Chứt có cách tìm hiểu nhau thuộc loại
“độc nhất vô nhị”.
Theo thống kê, trên cả nước, dân tộc Chứt
có 6.000 người. Về phong tục cưới xin của người Chứt có nhiều nét khá độc đáo,
trai gái người Chứt có cách tìm hiểu nhau thuộc loại “độc nhất vô nhị” trong số
54 dân tộc ở Việt Nam.
Khi người con trai thầm yêu, trộm nhớ một
người con gái nào đó mà muốn lấy về làm vợ, người con trai sẽ một mình vào rừng,
tìm chặt một bó củi, rồi bó gọn gàng, sau đó mang về đặt trước cửa nhà cô gái.
Đồng thời chàng trai phải giữ bí mật không cho các chàng trai khác trong bản được
biết.
Theo quan niệm của người Chứt thì bó củi
càng đều, càng đẹp, gọn gàng thì chứng tỏ chàng trai là một người chăm chỉ, cẩn
thận.
Nếu gia đình cô gái đồng ý lời cầu hôn đó
thì sẽ mang bó củi vào nhà bếp. Và từ đó, người con trai có quyền được đến ăn ở
như vợ chồng với cô gái cho dù chưa tiến hành lễ cưới hỏi. Và ngược lại, nếu
sáng hôm sau, chàng trai thấy bó củi vẫn để nguyên thì chàng trai có thể mang
bó củi về chờ dịp tìm hiểu và cầu hôn người con gái khác.
Khi bước đầu thành công, chàng trai sẽ về
nhà thưa chuyện với bố mẹ, đến đặt vấn đề với gia đình người con gái để đón vợ
về.
Tùy vào điều kiện từng gia đình mà cách tổ
chức đám cưới cũng khác nhau. Đối với những gia đình có chút điều kiện, họ sẽ
làm vài mâm cơm, giết con lợn để mời cả dân làng tới uống rượu mừng hạnh phúc
cho đôi bạn trẻ. Sau lễ cưới, vợ chồng ăn ở tại nhà gái năm ngày đêm. Sau đó, về
nhà trai ăn ở ba ngày đêm. Khi hết hạn quy định, vợ chồng quỳ lạy cha mẹ chồng,
được cha mẹ cho phép mới được quyền tự do đi lại.
Đối với nhiều người con trai, sau lễ hỏi,
họ chưa đủ điều kiện để làm lễ cưới thì có thể xin ở rể. Khi ở rể, họ đến sinh
hoạt ở gia đình nhà gái như một thành viên chính thức. Chàng trai này vừa phải
lao động cho nhà gái vừa phải tiết kiệm của cải làm được để tổ chức lễ cưới bắt
buộc. Trong thời gian ở rể, đôi vợ chồng chưa chính thức đó có thể sinh con, đẻ
cái như những đôi vợ chồng khác đã tổ chức lễ cưới. Thời gian ở rể tùy thuộc
vào việc chuẩn bị lễ cưới của người con trai đã đủ hay chưa.
Dường như việc trai gái yêu nhau, rồi về ở
với nhau của người Chứt mang một nét gì đó giản dị, hoang sơ, đậm chất núi rừng.
Tình yêu giữa trai gái người Chứt tự nhiên, mộc mạc, chân thành như chính bản
chất con người nơi đây vậy.
Bản làng của người Mày.
Đất thiêng lập làng của người Mày (nhóm
dân tộc Chứt)
Theo quan niệm cổ xưa của người Mày, nơi ở
của họ phải như tổ chim đại bàng hùng vĩ, bao quanh bởi những dãy núi cao…
Đối với người Mày, việc chọn đất lập làng
có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại hay suy vong của cộng đồng, vì
vậy, họ luôn coi trọng việc chọn đất lập làng.
Trong cộng đồng người Mày vẫn lưu truyền
những câu chuyện về địa thế của đất lập làng. Chuyện kể rằng: thời thượng cổ,
người Mày và anh em khác ở bóng núi Giăng Màn thường bị các tộc người lạ vây
đánh. Họ thoắt ẩn, thoắt hiện, đánh đuổi người Mày, người Khùa… chạy từ núi này
sang núi nọ. Một hôm, thần núi Ku Lôông báo mộng, bày cách cho người Mày chống
lại những bộ tộc xâm chiếm. Thần phán muốn thắng giặc thì phải chọn ngọn đồi độc
lập giữa thung lũng, biến nó thành pháo đài để chiến đấu. “Thần còn chỉ cho
chúng tôi cái cây có chất độc, cách làm ná, cung tên tẩm độc, cách lấy ong rừng
đánh đuổi kẻ thù, đặc biệt là kỹ thuật bẫy lao, bẫy chông ba khía. Từ đó, người
Mày đã đứng lên đánh bại kẻ thù, trở thành chiến binh vĩ đại của những bản làng
khác nên đặc ân ở trên ngọn đồi hùng vĩ, cao nhất.” Cũng từ đó, người Mày đã
cho rằng: Thần núi định đoạt số phận của tộc người mình là chiến đấu vầ bảo vệ
các tộc người khác. Nên người Mày chọn những thế đất lập làng đặc biệt.
Sau khi có quyết định lập làng. Già làng sẽ
giao nhiệm vị cho các “chiến binh” đi tìm đất. (Chiến binh là những thanh niên
trong làng được công nhận sau những thử thách đơn sơ nhưng đầy thách thức trong
lễ trưởng thành.)
Vùng đất họ phải chọn là chọn những quả đồi
cao giữa tứ bề núi dựng đứng. Có mô đất đẹp, thoát được cảnh lở đất, nơi đó phải
gần một nguồn nước ở phía cao như từ trên trời chảy xuống. Đồng thời, nơi ở mới
phải từng là đất có chim đại bàng tung cánh! Với họ, dó mới thật sụ là vùng đất
thiêng, nơi giúp họ đủ sức quan sát như mắt chim đại bàng về cách tìm kiếm các
sản vật hay thú rừng để vạch lối đi săn. Quả đồi đó cũng như pháo đài để họ cố
kết chống lại dã thú hay những bộ tộc khác muốn đánh chiếm, xâm lấn.
Với người Mày, một vùng đất như vậy mới xứng
đáng cho vị trí và nhiệm vụ mà họ đang gánh vác. Người Mày luôn coi trọng việc
chọn đất và coi đó là một việc làm thiêng liêng.
Đạo chia nước của người Mày (Dân tộc Chứt)
Trong cuộc sống đầy sự tư hữu, phân chia
giàu nghèo thì chính đạo chia nước của người Chứt khiến các tộc người anh em phải
ngưỡng mộ.
Đối với bất cứ dân tộc nào, nguồn nước đều
có vai trò quan trọng và mang nhiều ý nghĩa thiêng liêng. Nguồn nước không chỉ
tượng trưng cho sự sống mà còn là điều may mắn, tròn đầy.
Ngay từ thời xa xưa, người Mày đã cư trú
trên các vùng đất cao nhất của các ngọn đồi nên họ ý thức rất rõ thứ tài nguyên
kì diệu này đối với cuộc sống, không chỉ của họ mà còn với những tộc người anh
em ở phía dưới nguồn. Người Mày rất quý nước, nhất là nước đầu nguồn.
Trải qua hàng trăm năm, các thế hệ người
Mày vẫn ngày đêm bảo vệ nguồn nước. Để rồi, những ngày cùng nhau bên bếp lửa,
già làng truyền lại cho những chiến binh tương lai cách tổ tiên bảo về nguồn nước.
“Khi đánh đuổi những bộ tộc xâm lấn, các nguồn nước bị làm phép cho cạn kiệt,
trời cũng chẳng cho mưa về. Còn lại cái giếng nước vuông và cái giếng nước tròn
của Ku Téc (thần đất), nơi đó cũng là nơi lãnh vực biên ải của người Mày. Vì vậy,
người Mày cố công bảo vệ. Bao lần kẻ thua cuộc dã tâm bỏ thuốc độc nhưng không
thể tiếp cận cái nước của thầnKu Téc bởi sự thiện chiến của chiến binh Mày. Bảo
vệ được nguồn nước, người Mày cầu thần Ku Lôông cho được trời mưa, giải khỏi lời
nguyền xấu, nước ở trời men theo tường vách dựng đứng của hệ núi Giăng Màn tưới
mát cho tất cả anh em Mày, Sách, Khùa, Rục… và cả người Kinh dưới xuôi của dòng
sông Gianh…”
Người Mày quan niệm: “Nước không dành
riêng cho người Mày mà dành cho những anh em khác nữa, chiếm nguồn nước là điều
không thể ác hơn. Hơn nữa, người Mày mỗi bản vài nóc nhà, không cưu mang nhau để
sống bền với rừng thì thua con thú, con chim – chúng sống còn có bầy, có đàn,
huống chi người Mày mình, chẳng lẽ không hơn con chim, con thú!”. Chính vì thế,
nguồn nước luôn được chia sẻ và đầu năm, người Mày tiến hành đạo chia nước truyền
thống.
Người Mày cuối năm thường có lễ chia nước
ngọt hứng từ mái nhà sàn hoặc lấy ở nguồn nước suối. Chia nước chính mà món quà
đầu năm mà người dân nhận được từ các vị thần và cầu mong có được một năm mới tốt
tươi.
Lễ chia nước cho các gia đình trong bản đều
do người có trọng vọng (già làng, trưởng bản) chia, mỗi nhà chừng một lít nước.
Đó là cách họ muốn ẩn ý sự chia sẻ tài nguyên tự nhiên để bảo tồn cuộc sống. Có
nước, người Mày mới nhớ đến nhau và nhớ đến những người anh em láng giềng khác.
Cùng với lãnh nhiệm bảo vệ nguồn nước, đạo
chia nước của người Mày khiến những tộc người anh em kính trọng, nể vì. Nước
như một vị thần bản thể đi ra từ ý thức của họ, không có nước thì không có sự sống,
không có sự tồn tại.
Đạo chia nước của người mày không chỉ thể
hiện được tính cộng đồng, đoàn kết, yêu thương lẫn nhau mà đó còn là một nét
văn hóa độc đáo, một phong tục đẹp, một nếp sống nhân văn cần được phát huy và
giữ gìn.
Tục chữa bệnh độc đáo của người Chứt – Quảng Bình
Thuật thổi phù chú là một trong những phép
thuật chữa bệnh độc đáo của người Chứt (Quảng Bình) còn được duy trì và mang đậm
bản sắc văn hóa dân tộc.
Là một trong số những tộc người còn lại ít
ỏi ở Quảng Bình, người Chứt đã xây dựng được những tập quán sinh hoạt văn hóa
riêng biệt, trong đó có những tri thức dân gian được người Chứt dùng trong chữa
bệnh. Đó là chữa bệnh bằng cách thổi phù phép.
Lễ vật gồm 2 chai rượu, 1 con gà luộc
chín, một bát xôi, 2 đôi nến đăng bằng sáp ong, 2 đọt lá chè xanh, 1 bát gạo để
cúng trong nhà. Hiện vật dùng để cúng gồm có 2 ống kịt trống mái một dài, một
ngắn. Ống được làm từ ống tre nứa lồ ô (pơ tế) lấy từ rừng về và phải chọn ống
đã già và thật to đều.
Sau khi đưa về ống được cưa làm hai đoạn:
dài 80-90cm, một ống dài khoảng 60-70 cm. Một đầu của ống được vót vát nhọn
hình chữ V dài 10cm. Sau khi gọt đẽo xong, dùng sợi mây chẻ nhỏ nối buộc hai ống
lại với nhau bằng hai đoạn trên và dưới. Sau đó lấy một hòn đá ở suối về nhưng
phải có mặt dẹt bằng để làm thủ tục khi cúng.
Người thầy cúng thổi vừa hát khấn, vừa
nói, vừa cà hai ống tre trên hòn đá. Âm thanh phát ra giống như tiếng đàn nhị kết
hợp với lời khấn nỉ non của thầy phù thủy, làm cho cảnh tượng thêm phần linh
thiêng.
Trên đầu của thầy cúng có đeo vòng lá kết
tròn biểu trưng cho thiên nhiên, trời đất được người Chứt tôn sùng và đặt trên
đỉnh đầu ám chỉ đức tin của họ vào vật linh. Trong lễ thổi cúng chữa bệnh do ma
dại phải có thêm một bát cơm, một con gà, một chai rượu và phải đặt ngoài trời
xa bản 100m. Thầy phù thủy đi ra đó làm lễ.
Lễ cúng xong, những vật hiến tế không được
đưa về nhà. Lời cầu cúng của thầy phù thủy: gồm cầu khấn giang sơn, thần linh,
giàng (trời) về phù hộ, bắt con ma gây ra đau ốm cho người Chứt. Cúng ở bên
ngoài có thể làm thêm một ít bánh cặp, bánh tro, để vứt bên ngoài cho trẻ con
nhặt. Bài cúng cũng do ông bà, cha mẹ truyền lại: “Vơ lời (trời), vơ bơn (đất),
ơ cha mẹ, tổ tiên, thần núi, thần sông, thần lúa,… về đây bắt con ma trong con
người làm hại người Chứt…”.
Thầy cúng tên của người bị bệnh trong bài
cúng bằng tiếng dân tộc Chứt. Khi làm lễ còn chuẩn bị một bát nước, sau đó tùy
từng loại bệnh mà người thổi có thể lấy các loại lá chữa bệnh đã chuẩn bị sẵn,
ngậm vào miệng nhai, thêm ngụm nước và phun lên người bệnh sau khi đã đọc niệm
chú. Đối với một số loại bệnh có thể ngậm rượu, nhai lá hơ qua lửa nến vừa xoa
vừa phun vào người đối diện đến chữa bệnh. Với bệnh đau mắt đỏ, thầy cúng chuẩn
bị bát nước, bỏ vào trái ớt chín xé nhỏ, ngậm vào miệng sau khi khấn và phun
vào người bệnh, sau đó là lời niệm chú. Người Chứt, rất tin tưởng vào các thuật
chữa này.
Thuật đọc thần chú, thổi của người Chứt
dùng để chữa bệnh là một hình thức chữa bệnh bằng tri thức dân gian có kết hợp
đôi chút mê tín. Thuật thổi phù chú là một trong những phép thuật chữa bệnh của
người Chứt còn được duy trì và mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
Tộc người Rục lọt top 10 dân tộc bí ẩn nhất thế giới
Người Rục (hay còn gọi là người Chứt) ở
vùng rừng núi tỉnh Quảng Bình đã lọt vào top 10 bộ lạc còn nhiều điều bí ẩn nhất
thế giới bởi cuộc sống của họ còn tách biệt với cuộc sống văn minh hiện đại.
Ngoài ra, còn có các tộc người ở vùng Amazon và bộ lạc ở Peru, Brazil,…
Người Rục – Việt Nam
Theo Ủy ban dân tộc Trung Ương thì phần
đông người tộc Rục cư trú ở huyện Minh Hoá, Tuyên Hoá và Bố Trạch (Quảng Bình),
một ít ở huyện Hương Khê (Hà Tĩnh). Cộng đồng này gồm các nhóm: Rục, Sách,
A-rem, Mày, Mã liềng và có các tên gọi khác: Tu vang, Pa leng, Xe lang, Tơ
hung, Cha cú, Tắc củi, U mo, Xá lá vàng. Tiếng Chứt thuộc nhóm ngôn ngữ Việt –
Mường.
Tộc người Rục được một tiểu đội công an Quảng
Bình phát hiện vào ngày 12/8/1959 trong hang sâu tại vùng hang động Phong Nha –
Kẻ Bàng thuộc xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa (Quảng Bình) gồm 11 hộ với 34 người.
Năm 1960, bộ đội biên phòng và chính quyền địa phương tỉnh Quảng Bình bắt đầu vận
động người Rục rời hang đá ra sống định canh, định cư nhưng các làng thường tản
mạn. Nhà cửa không bền vững. Ngày nay người Chứt thường nhận mình là họ Cao, họ
Đinh…
Mỗi dòng họ đều có người tộc trưởng, có
bàn thờ tổ tiên chung. Trong làng, tộc trưởng nào có uy tín lớn hơn thì được
suy tôn làm trưởng làng. Người Chứt ăn cơm đồ cách thuỷ, thức ăn thông thường
là rau rừng thái nhỏ nấu với ốc, cá suối. Trước kia, bọt cây báng và thịt khỉ
là thức ăn quan trọng của nhóm Rục.
Trong hơn 40 năm, người Rục đã làm một cuộc
hành trình về với cộng đồng. Đến cuối năm 2006, nhân khẩu đã lên đến 2.400 người
và được phân bố trong bốn bản Phú Minh, Ón, Yên Hợp và Mò O – Ồ Ồ thuộc xã Thượng
Hóa, ở xen với các tộc như Sách, Mày, Kinh. Và đến nay số lượng nhân khẩu có
khoảng trên 6.000 người.
Bộ lạc Surma
Bộ lạc Surma ở Ethiopia sống tách rời với
thế giới văn minh trong nhiều thế kỷ qua. Đây là những thổ dân nổi tiếng với
phong tục tạo chiếc môi rộng và không thích bị người lạ quấy rầy. Người Surma sống
theo nhóm hàng trăm người vàkiếm sống bằng việc nuôi gia súc.
Trong thời kỳ thực dân và Chiến tranh thế
giới, họ thường xuyên phải chiến đấu với kẻ thù để bảo vệ sự tồn vong cho bộ tộc.
Những người phương Tây đầu tiên trò chuyện với bộ lạc Surma là một nhóm bác sĩ
người Nga trong những năm 1980.
Sầm Thị Phong (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét