Tổng số dân: 6.400+
Khu vực có số dân đáng kể: Việt Nam
(6.022) (năm 2009), Lào (450) (năm 1995)
Ngôn ngữ: Chứt
Tôn giáo: thờ cúng tổ tiên
Người Chứt, còn gọi là người Rục, người
Sách, người A rem, người Mày, người Mã liềng, người Tu vang, người Pa leng,người
Xe lang, người Tơ hung, người Cha cú, người Tắc cực, người U mo, người Xá lá
vàng, là một dân tộc ít người sinh sống tại Việt Nam và Lào.
Tại Việt Nam người Chứt được công nhận là
một trong 54 dân tộc Việt Nam.
Địa bàn cư trú
Tại Việt Nam, theo số liệu tổng điều tra
dân số ngày 1 tháng 4 năm 1999 thì dân tộc này có dân số khoảng 3.829 người, sống
chủ yếu ở tại Minh Hóa, Tuyên Hóa, Bố Trạch(Quảng Bình); một số ở Hương Khê (Hà
Tĩnh) và tại Đăk Lăk. Thực tế, 7 tên gọi Sách, Mày, Rục, Mã Liềng, Arem,
Xơ-lang, Umo dùng để chỉ 7 nhóm trong tộc người này. Nhóm người Rục được phát
hiện muộn nhất (năm 1959) ở xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa và đến năm 2004 có 85
hộ với 428 nhân khẩu. Nhưng theo ước tính của Tổng cục Thống kê ngày 1 tháng 7 năm
2003 thì dân số người Chứt giảm xuống còn 3.787 người.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, người dân tộc Chứt ở Việt Nam có dân số 6.022 người, cư trú tại 23 trên tổng
số 63 tỉnh, thành phố. Người Chứt cư trú tập trung tại các tỉnh: Quảng Bình
(5.095 người, chiếm 84,6% tổng số người Chứt tại Việt Nam), Đắk Lắk (435 người),
Lâm Đồng (266 người), Hà Tĩnh (156 người)
Tại Lào, theo ước tính của Ethnologue thì
có khoảng 450 người dân tộc Chứt (Ethnologue ghi là theo điều tra dân số năm
1995 của Lào) sinh sống tại tỉnh Khammouan.
Dân tộc Chứt là tộc người sử dụng ngôn ngữ
cùng ngữ hệ với tiếng Việt. Tiếng Chứt được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm vì
gần gũi với tiếng Kinh nguyên thủy. Thời điểm tiếng Chứt tách ra khỏi nhóm tiếng
Việt-Mường vẫn còn đang tranh cãi.
Theo Phạm Văn Cường thì là vào khoảng thế
kỷ V - VI, sau đó khá lâu, vào khoảng thế kỷ X - XI tiếng Mường mới tách ra (Phạm
Đức Dương). Còn theo Bùi Xuân Dinh thời điểm phân tách của nhóm Việt-Mường và 2
nhóm Chứt - Poong diễn ra từ khoảng thiên niên kỷ thứ I TCN đến thế kỷ thứ II
sau CN. Và nhóm Việt Mường phân tách khoảng từ khoảng thế kỷ thứ VII - VIII
Giáo sư Trần Trí Dõi đã nhận xét tiếng Chứt
như "bảo tàng lưu giữ các giai đoạn phát triển của tiếng Việt". Văn
hóa của người dân tộc Chứt cũng cho phép tìm lại lịch sử phát triển của người
Việt cổ.
Dân tộc Chứt sống chủ yếu bằng trồng trọt
và một phần nhờ săn bắn và hái lượm. Họ ăn cơm đồ cách thuỷ với thức ăn thường
có rau rừng thái nhỏ nấu với ốc hay cá suối.
Nhóm người Rục. Tộc người Rục phát hiện
vào ngày 12 tháng 8 năm 1959 trong hang sâu tại vùng hang động Phong Nha - Kẻ
Bàng thuộc xã Thượng Hóa huyện Minh Hóa (Quảng Bình) gồm 11 hộ với 34 người.
Người Rục có tập quán rất lạc hậu, quen ở
hang sâu, săn bắt, hái lượm, nhưng họ cũng có một cuộc sống tinh thần phong phú
với những nhạc cụ núi rừng như đàn trơ bon, đàn môi, sáo dọc và làn điệu cà lưm
cà lềnh. Do tập quán lạc hậu, sống trong hang đá, săn bắt, hái lượm tận rừng
sâu, người Rục có nguy cơ suy giảm dân số hết sức nghiêm trọng.
Trong hơn 40 năm, người Rục đã làm một cuộc
hành trình về với cộng đồng. Đến cuối năm 2006, nhân khẩu đã lên đến 414 người
và được phân bố trong bốn bản Phú Minh, Ón, Yên Hợp và Mò O - Ồ Ồ thuộc xã Thượng
Hóa, ở xen với các tộc như Sách, Mày, Kinh. Số liệu năm 2009 số lượng nhân khẩu
có khoảng 600 người.
Lịch sử
Trước đây, dân tộc Chứt sống di cư, chủ yếu
vùng núi tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh, trong điều kiện rất lạc hậu. A. Cheon và
Th. Guignard, hai nhà nghiên cứu người Pháp, đã miêu tả là người Chứt "hết
sức nhút nhát, hễ thấy người lạ thì lập tức lẩn trốn. Họ không có quần áo, nam
nữ đều che mình bằng vỏ cây sui, ngủ chung lẫn lộn trong hang hoặc trong lều. Họ
ăn bột cây nhúc và săn bắt tôm cá, thú nhỏ trong rừng. Cả nam và nữ đều búi tóc
đằng sau". Có nguồn cho biết nhóm Rục thời trước có nguồn thức ăn quan trọng
là bọt cây báng và thịt khỉ.
Dưới thời thực dân Pháp, người dân tộc Chứt
bị miệt thị là "Xá lá vàng". "Xá" chỉ những tộc người lạc hậu;
"lá vàng" chỉ cuộc sống di cư, người Chứt thường chỉ sống tại một địa
điểm trong những túp lều lợp bằng lá cây khoảng vài ngày cho đến khi lá chuyển
sang màu vàng thì bỏ đi nơi khác. Bản thân chữ "Chứt" cũng được hiểu
là hang đá, nơi trú ngụ của người Chứt. Với trình độ sản xuất thấp, người Chứt
không biết dệt vải. Vào mùa hè nam giới Chứt đóng khố và cởi trần còn phụ nữ Chứt
mặc váy. Mùa đông, họ mặc áo làm bằng vỏ cây.
Ngày nay người dân tộc Chứt đã sống định
canh định cư, nhưng các làng của người Chứt (gọi là Cà Vên) thường tản mạn và
nhà cửa không bền vững. Họ sống nhờ trồng trọt (nhóm Sách làm ruộng, còn nhóm Rục
và A rem là làm rẫy), canh tác lúa, đậu, lạc, trầu không. Khi đến mùa thu hoạch,
họ vẫn lên ở các hang núi gần nương rẫy, chỉ trở lại bản làng khi mùa màng xong
xuôi. Người Chứt cũng hái lượm, săn bắn, đánh cá, chăn nuôi. Nghề mộc và đan
lát khá phổ biến trong các tộc người Chứt. Các đồ dùng bằng kim loại và vải
vóc, y phục phải mua hoặc trao do người Chứt không trồng bông dệt vải hay chế tạo
đồ kim loại.
Dân tộc Chứt ngày nay thường nhận mình là
họ Cao, họ Đinh... Mỗi dòng họ đều có người tộc trưởng, có bàn thờ tổ tiên
chung. Trong làng người dân tộc Chứt, tộc trưởng nào có uy tín lớn hơn thì được
suy tôn làm trưởng làng.
Văn hóa
Dân tộc Chứt có quan hệ vợ chồng bền vững.
Lễ cưới được tổ chức bên nhà gái trước lễ đón dâu. Lễ vật trong đám cưới ngoài
lợn, gà, luôn phải có thịt khỉ sấy khô.
Việc ma chay của người Chứt đơn giản, nhóm
Sách có tiếp thu ảnh hưởng của người Kinh. Tang gia được tổ chức trong 2 đến 3
ngày bằng nghi lễ cúng bái, rồi đưa người chết đi chôn. Mộ được đắt thành nấm đất,
không có nhà mồ bên trên. Sau 3 ngày, tộc trưởng làm lễ gọi hồn cho người chết
về ngụ tại bàn thờ tổ tiên ở nhà tộc trưởng, từ đó người thân không chăm sóc mộ
nữa.
Ngoài, thờ cúng tổ tiên, người dân tộc Chứt
tin có ma rừng, ma suối, ma không trung, ma bếp... Trong tín ngưỡng của người dân
tộc Chứt cũng có Thần nông bảo vệ mùa màng và là vị thần tối cao. Hoạt động
nông nghiệp thường được thực hiện kèm theo các nghi lễ như lễ xuống giống, lễ
sau gieo hạt, lễ cúng hồn lúa, lễ ăn mừng được mùa.
Dân tộc Chứt có làn điệu dân ca Kà-tưm,
Kà-lềnh. Nhạc cụ có khèn bè, đàn ống lồ ô loại cho nam và loại cho nữ, sáo 6 lỗ...
Dân tộc Chứt có vốn truyện cổ và văn nghệ dân gian phong phú, gồm nhiều đề tài
khác nhau.
Hồng
Hải (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét