Tên gọi khác: Rục, Arem, Sách.
Nhóm địa phương:Mày, Rục, Sách, Arem, Mã
Liềng.
Dân số: 6.022 người (theo kết quả điều tra
dân số năm 2009 của Tổng cục thống kê)
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt
- Mường (ngữ hệ Nam Á).
Họ leo thang bằng dây mây. Mỗi nấc thang
là một vòng dây buộc vào thân cây, có chỗ đặt bàn chân. Leo đến đâu, buộc vòng
thang đến đó.
Người Chứt (nhóm Rục) có kỹ thuật trèo cây nổi tiếng để lấy mật ở các tổ ong trên cây cao.
Lịch sử: Quê hương xưa của người Chứt thuộc
địa bàn cư trú của người Việt ở hai huyện Bố Trạch và Quảng Trạch, tỉnh Quảng
Bình. Vì nạn giặc giã, thuế khoá nặng nề nên họ phải chạy lên nương náu ở vùng
núi, một số dần dần chuyển sâu vào vùng phía tây thuộc hai huyện Minh Hoá và Bố
Trạch tỉnh Quảng Bình. Theo gia phả của một số dòng họ người Việt trong vùng
thì các nhóm Rục, Sách cư trú tại vùng núi này ít nhất đã được trên 500 năm
nay.
Hoạt động sản xuất: Người Chứt sống bằng
nông nghiệp nương rẫy du canh và săn bắn hái lượm. Trừ nhóm Sách sống bằng nông
nghiệp còn các nhóm khác hái lượm và săn bắn chiếm vị trí quan trọng, thậm chí
là nguồn sống chính trong những năm mất mùa. Các giống cây trồng chính là ngô,
sắn, đỗ, lúa. Công cụ sản xuất gồm: rìu, rựa, gậy chọc lỗ, nơi làm ruộng có
thêm cày, bừa. Từ khi định cư, người Chứt đã nuôi trâu, bò phục vụ cày bừa, làm
sức kéo. Ðan lát chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng trong gia đình. Ðôi nơi họ biết
thêm nghề rèn dao, rìu.
Ăn: Lương thực chủ yếu là ngô, sắn. Ngày
ăn hai bữa trưa và tối. Những năm mất mùa, họ phải ăn bột báng (bột nhúc) đồ
thay cơm quanh năm.
Ngày nay, nhiều gia đình người Chứt (nhóm
Rục) đã làm nhà, có vườn, ruộng trong các thung lũng. Nhưng có một thời họ thường
sống trong các hang đá, mái đá.
Mặc:Người Chứt không biết dệt vải, vải mặc
mua hoặc trao đổi với người Việt, người Lào trong vùng giáp biên. Mùa hè, nam
giới đóng khố, cởi trần. Phụ nữ mặc váy. Mùa đông, họ mặc áo làm bằng vỏ cây.
Hiện nay đồng bào ăn mặc giống như người Việt.
Ở: Họ quen ở trong các túp lều dùng dây buộc,
dùng cột ngoãm hay ở trong các hang đá, mái đá. Cho đến trước năm 1954 các nhóm
Rục, Arem chủ yếu vẫn sống trong các hang đá, mái đá. Ngày nay, họ sống tập
trung ở các bản nhỏ trong các thung lũng. Nhà cửa đã khang trang hơn trước.
Phương tiện vận chuyển: Phổ biến là gùi có
dây đeo vai, vác hoặc người kéo.
Quan hệ xã hội: Người Chứt gọi làng là Cà
Vên. Mỗi làng thường chỉ có dăm bảy hoặc mười gia đình của một dòng họ cư trú.
Ðôi khi các gia đình trong một họ lại cư trú ở nhiều làng khác nhau. Ðứng đầu mỗi
làng là Pừ Cà Vên. Ông ta giữ luôn cả vai trò tôn giáo. Sinh hoạt tập thể, quan
trọng nhất trong làng là vào những dịp lễ tết nông nghiệp.
Trẻ em rất thích chơi đu. Người Chứt thường
làm đu cho trẻ em nhỏ dưới các gốc cây to có bóng mát, treo đu ngay trên các
cành cây.
Gia đình nhỏ phụ quyền là hình thức phổ biến
nhất. Mỗi gia đình chỉ gồm vợ, chồng và con cái chưa lấy vợ, chồng.
Sinh đẻ: Sắp đến ngày ở cữ, người chồng
thường dựng một cái lều nhỏ cho vợ ở ngoài rừng. Thỉnh thoảng anh ta đến thăm
nom, tiếp tế lương thực và đồ ăn uống cho vợ. Phụ nữ quen đẻ đứng và tự xoay sở
lấy hết thảy mọi việc. Ðẻ xong, người sản phụ tự mình nhóm lửa, đốt nóng một
hòn đá cuội để sẵn rồi dội nước lã vào cho bốc hơi nóng để xông khói. Sau 7
ngày, người chồng mới đến đón vợ con vào nhà.
Cưới xin: Trai gái đến tuổi trưởng thành,
được tự do tìm hiểu yêu đương. Trước khi cưới, nhà trai phải chọn ông mối, đi dạm
hỏi vài lần. Lễ cưới được tổ chức bên nhà gái, sau đó mới đón dâu. Lễ vật quan
trọng nhất thiết phải có thịt khỉ sấy khô. Người Chứt không có tục ở rể.
Ma chay: Nhà giàu làm quan tài bằng thân
cây khoét rỗng; nhà nghèo chỉ bó người chết bằng vỏ cây.
Nét nổi bật của ngôi nhà sàn người Chứt
(nhóm Arem) là hai chiếc khau cút được bố trí ở hai đầu nóc nhà. Khau cút được
làm từ hai đoạn cây lồ ô hoặc gỗ buộc chéo nhau tại thành một góc vuông. Nửa
trên được vót nhọn, nửa dưới buộc vào rui của mái nhà. Khau cút chẳng những để
giữ cho đầu mái nhà khỏi bị gió lật mà điều có ý nghĩa xã hội cơ bản đối với cư
dân ở đây là: Dấu hiệu để nhận biết đồng tộc. Như vậy, Khau cút chẳng những là
hiện tượng văn hoá phổ biến ở các cư dân nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me Thái mà còn
cả ở một trong những cư dân Việt - Mường.
Thờ cúng: Tổ tiên được thờ tại nhà tộc trưởng.
Khi tộc trưởng chết, việc thờ cúng chuyển sang người em trai kế. Khi nào các thế
hệ trên không còn ai thì việc thờ cúng mới chuyển sang cho người ở thế hệ dưới.
Tin vào các loại ma rừng, ma suối, thổ
công, ma bếp.... trong đó quan trọng nhất là ma làng.
Các nghi lễ nông nghiệp thường được thực
hiện như lễ xuống giống, lễ sau gieo hạt, lễ cúng hồn lúa, lễ ăn mừng được mùa.
Văn nghệ: Người Chứt thích dùng đàn, sáo,
hát các giai điệu khác nhau. Họ có nhiều truyện cổ tích, thần thoại, đặc biệt truyện
kể về sự khai thiên lập địa và sinh ra con người.
Chơi: Trong các dịp lễ tết, trẻ em chơi cầu
lông làm bằng lông gà, đánh găng, người lớn thổi sáo, hát hò.
Hoàng Thị Vinh (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét