Tên tự gọi: Anăk Ea Ðê, Ra Ðê (hay Rhađê), ê Ðê, êgar, Ðê.
Nhóm địa phương: Kpă,
Adham, Krung, Mđhur, Ktul, Dliê, Hruê, Bih, Blô, Kah, Kdrao, Dong Kay, Dong
Mak, Ening, Arul, Hwing, Ktlê, £pan...
Dân số: 306.333 người.
Ngôn ngữ: Tiếng nói của người ê Ðê
thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô-Pôlinêxia (ngữ hệ Nam Ðảo).
Lịch sử: Người ê Ðê là cư dân đã
có mặt lâu đời ở miền trung Tây nguyên. Dấu vết về nguồn gốc hải đảo của dân tộc
ê Ðê đã phản ánh lên từ các sử thi và trong nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo
hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng ê Ðê vẫn còn là một xã hội đang tồn tại
những truyền thống đậm nét mẫu hệ ở nước ta.
Hoạt động sản xuất: Người
ê Ðê chủ yếu trồng lúa rẫy theo chế độ luân khoảnh. Rẫy sau một thời gian canh
tác thì bỏ hoá cho rừng tái sinh rồi mới trở lại phát, đốt. Chu kỳ canh tác khoảng
từ 5-8 năm tuỳ theo chất đất và khả năng hồi phục của đất. Rẫy đa canh và mỗi
năm chỉ trồng một vụ. Ruộng nước trâu quần chỉ có ít nhiều ở vùng Bih ven hồ Lắc.
Gia súc được nuôi nhiều hơn cả là lợn và trâu, gia cầm được nuôi
nhiều là gà, nhưng chăn nuôi chủ yếu chỉ để phục vụ cho tín ngưỡng. Nghề thủ
công gia đình phổ biến có nghề đan lát mây tre làm đồ gia dụng, nghề trồng bông
dệt vải bằng khung dệt kiểu Inđônêdiêng cổ xưa. Nghề gốm và rèn không phát triển
lắm. Trước đây việc mua bán, trao đổi bằng phương thức hàng đổi hàng.
Ăn: Người ê Ðê ăn cơm tẻ bằng
cách nấu trong nồi đất nung hay nồi đồng cỡ lớn. Thức ăn có muối ớt, măng, rau,
củ do hái lượm, cá, thịt, chim thú do săn bắn. Thức uống có rượu cần ủ trong
các vò sành. Xôi nếp chỉ dùng trong dịp cúng thần. Nam nữ đều có tục ăn trầu
cau.
Mặc: Trang phục truyền thống là phụ
nữ quấn váy tấm dài đến gót, mùa hè thì ở trần hay mặc áo ngắn chui đầu. Nam giới
thì đóng khố, mặc áo cánh ngắn chui đầu. Mùa lạnh, nam nữ thường choàng thêm một
tấm mền. Ðồ trang sức có chuỗi hạt, vòng đồng, vòng kền đeo ở cổ và tay, chân.
Nam nữ đều có tục cà răng-căng tai và nhuộm đen răng. Ðội đầu có khăn, nón.
Ở: Ðịa bàn cư trú chủ yếu hiện
nay là tỉnh Ðắc Lắc, phía nam tỉnh Gia Lai và miền tây Phú Yên, Khánh Hoà. Ngôi
nhà truyền thống của người ê Ðê là nhà sàn dài, kiến trúc mô phỏng hình thuyền
với 2 đặc trưng cơ bản là: hai vách dọc dựng thượng thách - hạ thu; hai đầu mái
nhô ra. Nhà chỉ có hai hàng cột ngang, kết cấu theo vì cột, không kết cấu theo
vì kèo. Không gian nội thất chia ra làm hai phần theo chiều dọc. Phần đầu gọi
là Gah, vừa là phòng khách, vừa là nơi sinh hoạt cộng đồng của cả đại gia đình
mẫu hệ. Phần cuối gọi là ôk, dành cho các cặp hôn nhân ở trong từng buồng có
vách ngăn bằng phên nứa.
Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là gùi đan cõng trên lưng bằng đôi quai quàng qua vai. ở
vùng Krông Băk phổ biến có loại gùi cao cẳng. Vận chuyển trên bộ thì có voi
nhưng không phổ biến lắm.
Quan hệ xã hội: Gia
đình ê Ðê là gia đình mẫu hệ, hôn
nhân cư trú phía nhà vợ, con mang họ mẹ, con gái út là người thừa
kế. Xã hội ê Ðê vận hành theo tập quán pháp truyền của tổ chức gia đình mẫu hệ.
Cả cộng đồng được chia làm hai hệ dòng để thực hiện hôn nhân trao đổi. Làng gọi
là buôn và là đơn vị cư trú cơ bản, cũng là tổ chức xã hội duy nhất. Người
trong một buôn thuộc về nhiều chi họ của cả hai hệ dòng nhưng vẫn có một chi họ
là hạt nhân. Ðứng đầu mỗi làng có một người được gọi là chủ bến nước (Pô pin
ca) thay mặt vợ điều hành mọi hoạt động của cộng đồng.
Cưới xin: Người
phụ nữ chủ động trong việc hôn nhân, nhờ mai mối hỏi chồng và cưới chồng về ở rể.
Khi một trong hai người qua đời thì gia đình và dòng họ của người quá cố phải
có người đứng ra thay thế theo tục "nối dòng" (chuê nuê) để cho người
sống không bao giờ đơn lẻ, sợi dây luyến ái giữa hai dòng họ Niê và Mlô không
có chỗ nào bị đứt theo lời truyền bảo của ông bà xưa.
Ma chay: Khi có người chết thì tục
nối dòng phải được thực hiện. Người chết già và chết bệnh thì tang lễ được tổ
chức tại nhà rồi đưa ra nghĩa địa thổ táng. Xưa kia có tục người trong một dòng
họ chết trong một thời gian gần nhau thì các quan tài được chôn chung một huyệt.
Vì quan niệm thế giới bên kia là sự tái hiện thế giới bên này nên người chết được
chia tài sản đặt ở nhà mồ. Khi dựng nhà mồ, lễ bỏ mả được tổ chức linh đình,
sau đó là sự kết thúc việc săn sóc vong linh và phần mộ.
Nhà mới: Việc làm nhà được cả làng
quan tâm. Sự giúp đỡ lẫn nhau về nguyên vật liệu: gỗ, tre, nứa và tranh lợp
cũng như ngày công thông qua hình thức gọi là H’rim zít (tổ chức "giúp
công" lao động hay "đổi công" trong làng). Lễ khánh thành được
tiến hành sau khi dựng xong hàng cây chân vách. Nhưng việc dọn lên nhà mới có
thể được thực hiện trước đó một thời gian dài khi các điều kiện để khánh thành
nhà chưa cho phép. Nữ giới là đoàn người đầu tiên được bước lên sàn nhà mới. Họ
mang theo nước và lửa để sưởi ấm và tưới mát cho nơi cư trú mới mẻ này. Ðó là
cách chúc phúc cho ngôi nhà và các thành viên của gia chủ. Dẫn đầu các thành
viên nữ là một khoa sang – bà chủ của gia đình mẫu hệ.
Lễ Tết: Người
ê Ðê ăn tết vào tháng chạp (tháng 12 lịch âm) khi mùa màng đã thu hoạch xong
(không vào một ngày nhất định, tuỳ theo từng buôn). Sau tế ăn mừng cơm mới (hmạ
ngắt) rồi mới đến tết (mnăm thun) ăn mừng vụ mùa bội thu. Ðó là tết lớn nhất,
nhà giàu có khi mổ trâu, bò để cúng thần lúa; nhà khác thì mổ lợn gà. Vị thần lớn
nhất là đấng sáng tạo Aê Ðiê và Aê Ðu rồi đến thần đất (yang lăn), thần lúa
(yang mđiê) và các thần linh khác. Phổ biến quan niệm vạn vật hữu linh. Các vị
thần nông được coi là phúc thần. Sấm, sét, giông bão, lũ lụt và ma quái được
coi là ác thần. Nghi lễ theo đuổi cả đời người và lễ cầu phúc, lễ mừng sức khoẻ
cho từng cá nhân. Ai tổ chức được nhiều nghi lễ này và nhất là những nghi lễ lớn
hiến sinh bằng nhiều trâu, bò, chè quý (vò ủ rượu cần) thì người đó càng được
dân làng kính nể.
Lịch: Nông lịch cổ truyền ê đê
được tính theo tuần trăng: một năm có 12 tháng và được chia làm 9 mùa tương ứng
với 9 công đoạn trong chu kỳ nông nghiệp rẫy: mùa phát rẫy, mùa đốt rẫy mới, mùa
xới đất, mùa diệt cỏ... Mỗi tháng có 30 ngày.
Học: Việc học tập (học nghề, truyền
bá kiến thức...) theo lối làm mẫu, bắt chước và nhập tâm, truyền khẩu. Ðến năm
1923 mới xuất hiện chữ ê Ðê theo bộ vần chữ cái La-tinh.
Văn nghệ: Có hình thức kể khan rất
hấp dẫn. Về văn chương, khan là sử thi, trường ca cổ xưa; về hình thức biểu diễn
là loại ngâm kể kèm theo một số động tác để truyền cảm. Về dân ca có hát đối
đáp, hát đố, hát kể gia phả... Nền âm nhạc ê Ðê nổi tiếng ở bộ cồng chiêng gồm
6 chiêng bằng, 3 chiêng núm, một chiêng giữ nhịp và một trống cái mặt da. Không
có một lễ hội nào, một sinh hoạt văn hoá nào của cộng đồng lại có thể vắng mặt
tiếng cồng chiêng. Bên cạnh cồng chiêng là các loại nhạc cụ bằng tre nứa, vỏ bầu
khô như các dân tộc khác ở Trường Sơn, Tây Nguyên, nhưng với ít nhiều kỹ thuật
riêng mang tính độc đáo.
Chơi: Trẻ em thường thích chơi cù
quay, thả diều vằng có sáo trúc. Trò chơi đi cà kheo trên cao nguyên cũng lôi
cuốn không ít thiếu niên ê Ðê ở nhiều nơi. Trò bịt mắt dê, ném lao (ném xa và
ném trúng mục tiêu cũng được nhiều trẻ em ê Ðê ưa thích.
Hoàng Sa Vẳn (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét