Dệt thổ cẩm là một truyền thống của người dân tộc
Pà Thẻn
Tên tự gọi: Pà Hưng.
Tên gọi khác: Mèo Lài, Mèo Hoa, Mèo Ðỏ,
Bát tiên tộc...
Dân số: 6.811 người (theo kết quả điều tra
dân số năm 2009 của Tổng cục thống kê)
Ngôn ngữ: Thuộc ngữ hệ Hmông-Dao.
Lịch sử: Theo truyền thuyết, người Pà Thẻn
ở vùng Than Lô (Trung Quốc) đến Việt Nam cách đây khoảng 200-300 năm với câu
chuyện vượt biển cùng người Dao.
Cất giữ giống là một việc rất trọng yếu của
nông dân, dù làm ruộng hay làm nương. Người Pà Thẻn giữ giống bằng cách treo
các loại hạt giống cây trong nhà.
Hoạt động sản xuất: Trước kia người dân tộc Pà Thẻn sống chủ yếu bằng nương rẫy.
Phương thức canh tác là phát đốt rồi chọc lỗ, tra hạt. Cây trồng gồm lúa, ngô và
các loại rau, đậu, khoai sọ, khoai môn. Công cụ sản xuất là rìu, cuốc, dao. Do
sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên, nhất là những lúc mất mùa, giáp hạt, người
Pà Thẻn vẫn phải lên rừng đào củ mài, củ nâu... Vì thế hái lượm còn đóng vai
trò đáng kể trong đời sống kinh tế. Nghề dệt của họ có từ lâu đời, sản phẩm dệt
được nhiều dân tộc xung quanh ưa thích. Ðàn ông thường đan lát, làm mộc. Người
Pà Thẻn chăn nuôi các loại gia súc và gia cầm như: trâu, bò, dê, lợn, gà. Ngoài
phục vụ nhu cầu sức kéo, chăn nuôi còn nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng và lễ
nghi tôn giáo.
Ăn: Người Pà Thẻn chủ yếu ăn cơm tẻ, ngày
hai bữa chính, thích các món ăn luộc hay xào.
Mặc: Bộ trang phục của phụ nữ Pà Thẻn còn
giữ được nhiều yếu tố riêng. Bộ trang phục của phụ nữ gồm: áo, váy, khăn trong
và khăn ngoài, màu sắc rất sặc sỡ. Một số mô típ trang trí trên quần áo của họ
cũng gần giống như của ngươi Dao.
Ở: Hiện họ cư trú tại hai tỉnh Tuyên Quang
và Hà Giang. Tuỳ từng nơi, người dân tộc Pà Thẻn quen ở nhà sàn, nhà nền đất
hay nửa sàn nửa nền đất. Hiện nay nhiều nơi đồng bào đã dựng nhà cột kê khang
trang, vững chãi.
Phương tiện vận chuyển: Gánh là cách vận
chuyển chính của người dân tộc Pà Thẻn.
Quan hệ xã hội: Quan hệ xóm giềng giữ vai
trò chủ đạo. Thôn xóm hoà thuận, các gia đình thường quan tâm giúp đỡ lẫn nhau,
đổi công cho nhau những lúc thời vụ hay những công việc cần lao động. Trong một
bản của ngươi Pà Thẻn có nhiều dòng họ cùng cư trú, trong đó thường có một dòng
họ lớn nhất. Người Pà Thẻn có 8 họ gốc và một số họ khác của ngươi Dao (Bàn,
Triệu). Mỗi họ chia ra nhiều chi họ gắn với truyền thuyết riêng.
Cưới xin: Gia đình một vợ một chồng bền vững.
Việc lấy nhau giữa những người cùng họ bị nghiêm cấm ngặt. Rất hiếm các trường
hợp người chồng lấy vợ hai, vợ chồng ít khi ly dị. Việc ngoại tình bị xã hội
lên án. Từ khi dạm hỏi cho đến lễ cưới phải qua nhiều nghi lễ. Có hai hình thức
ở rể là ở rể tạm thời (tối đa 12 năm) và ở rể đời - sang ở hẳn bên nhà vợ, con
mang họ mẹ.
Vốn văn nghệ dân gian phong phú của người dân tộc Pà Thẻn luôn được giữ gìn và phát
triển. Âm nhạc và nhạc cụ đã được nâng cao và biểu diễn trên sân khấu.
Ma chay: Khi có người chết thì người nhà bắn
ba phát súng báo hiệu, sau đó tiến hành khâm liệm. Lễ vật dùng cho đám ma do
con đã có chồng đưa đến phúng viếng. Mỗi người viếng một con lợn khoảng 25 kg,
nhà nghèo thì chỉ 7 con gà trống. Quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng. Trong
quan tài có đổ gạo rang, phủ giấy bản rồi mới đóng chốt hạ huyệt
Thờ cúng: Người dân tộc Pà Thẻn tin vào sự
tồn tại của các siêu linh, vạn vật có linh hồn. Ma quỷ, thần thánh gồm hai loại:
lành dữ. Loại lành gồm các thần ở trên trời, tổ tiên, thổ địa...; loại ma dữ
như ma sông, ma suối, ma của người chết bất đắc kỳ tử... chúng thường phá hoại
mùa màng, làm hại gia súc.
Chủ
yếu là thờ cúng tổ tiên trong nhà. Bàn thờ làm bằng tấm gỗ hình chữ U lộn ngược. Mặt bàn để một bát hương và một bát
nước lã. Người dân tộc Pà Thẻn có nhiều tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp
như: cúng trước khi tra hạt, lễ cúng cơm mới. Truyền thuyết về sự xuất hiện của
cây lúa là do 3 con vật: chó, mèo, lợn lấy trộm giống lúa trên trời về cho con
người, nên khi cúng cơm mới phải cho 3 con vật trên ăn trước. Khi hạn hán lâu,
dân bản làm lễ cầu mưa. Các nghi lễ liên quan đến chăn nuôi, săn bắn cũng được
chú trọng.
Lễ tết: Người dân tộc Pà Thẻn ăn tết
nguyên đán và các tết như các dân tộc khác ở vùng Ðông Bắc.
Lịch: Vận dụng âm lịch trong sản xuất,, đời
sống.
Học: Nhiều người biết đọc, viết chữ Nôm
Tày, Nùng.
Văn nghệ: Ðời sống văn nghệ phong phú như
ca hát, thổi sáo và các trò chơi dân gian.
Đàm Kim Phượng (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét