Tổng số dân: 128.723
Khu vực có số dân đáng kể Việt Nam: Lâm Đồng,
Bình Thuận, Khánh Hòa, Ninh Thuận
Ngôn ngữ: tiếng Cơ Ho, Tiếng Việt
Tôn giáo: Tín ngưỡng dân gian, vật linh
Dân tộc Cơ Ho, còn gọi là Cờ Ho, Kơ Ho, hoặc
Kơho, K'Ho theo chính tả tiếng Cơ Ho, là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt
Nam. Người Cơ Ho nói tiếng Cơ Ho, ngôn ngữ thuộc ngữ chi Ba Na (Bahnaric) thuộc
Ngữ hệ Nam Á.
Dân số và địa bàn cư trú
Theo tổng điều tra dân số ngày 1 tháng 4
năm 1989, dân tộc Cơ Ho có trên 82.917 người, đến 1 tháng 4 năm 1999 có 128.723
người[1]. Địa bàn cư trú chủ yếu của dân tộc này là tỉnh Lâm Đồng, bao gồm nhiều
nhóm địa phương như Cơ Ho Srê, Cơ Ho Chil, Cơ Ho Nộp, Cơ Ho Lạch, Cơ Ho String
và Cơ Ho Cờ Dòn.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, người Cơ Ho ở Việt Nam có dân số 166.112 người, cư trú tại 46 trên tổng số
63 tỉnh, thành phố. Người Cơ Ho cư trú tập trung tại các tỉnh: Lâm Đồng
(145.665 người, chiếm 12,3% dân số toàn tỉnh và 87,7% tổng số dân tộc Cơ Ho tại
Việt Nam), Bình Thuận (11.233 người), Khánh Hòa (4.778 người), Ninh Thuận
(2.860 người), Đồng Nai (792 người), thành phố Hồ Chí Minh (247 người)[2].
Bộ tộc: Dân tộc Cơ Ho chia ra thành mấy
nhóm, phân biệt bởi địa bàn cư trú và sinh hoạt cũng như ngôn ngữ.
Dân tộc Cơ Ho Srê là nhóm có dân số đông
nhất trong các dân tộc Cơ Ho.
Nhóm Cơ Ho Chil (ngày 1 tháng 4 năm 1989)
có khoảng 18.000 người. Trước đây, họ cư trú rải rác trên vùng núi cao thuộc
thượng lưu sông Krông Knô (Bắc và Tây-Bắc cao nguyên Lang Biang). Nhưng do sống
du canh, du cư, nên từ lâu, họ đã di chuyển xuống phía Nam (vùng Bắc và Đông-Bắc
thành phố Đà Lạt) kế cận với địa bàn cư trú của nhóm Cơ Ho Lạt, người Chu Ru và
Raglai. Hiện nay, họ cư trú trên địa bàn các huyện Đức Trọng, Lâm Hà, Lạc
Dương, Đơn Dương và vùng phụ cận thành phố Đà Lạt...
Nhóm Cơ Ho Lạt cư trú tập trung ở Xã Lát
và một số vùng thung lũng xung quanh thành phố Đà Lạt. Do có điều kiện tiếp
xúc, giao lưu lâu dài với người Kinh, nên đời sống kinh tế nhóm này có những tiến
bộ nhất định so với các nhóm Cơ Ho Dòn, Nộp, Chil...
Nhóm Cơ Ho Nộp cư trú phía Nam Di Linh,
ven đường số từ Di Linh đi Phan Thiết. Do quá trình giao lưu văn hóa xã hội lâu
đời với các dân tộc anh em ở Bình Thuận, nhất là người Chăm, nên người Cơ Ho Nộp
còn lưu giữ một số yếu tố văn hóa của các dân tộc đó như tục ăn trầu, và trồng
trầu, cau xung quanh địa điểm cư trú của mình.
Nhóm Cơ Ho Cờ Dòn cư trú ở miền núi phía
Đông-Nam Di Linh, gọi là vùng Gia Bắc, kế cận với địa bàn cư trú của người Cơ
Ho Nộp, tập trung đông nhất tại xã Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh.
Nhóm Cơ Ho T'ring cư trú rải rác ở Khánh
Hòa, Lâm Đồng.
Kinh tế:Kinh tế của người Cơ Ho là chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp, ngoài ra còn có săn bắt và hái lượm lâm thổ sản và một số nghề thủ
công như rèn, đan lát, dệt.
Sản xuất nông nghiệp
Trồng trọt: tùy theo đặc điểm địa lý và xã
hội của mỗi nhóm mà ngành trồng trọt ở mỗi nhóm có những nét khác nhau. Riêng đối
với người Srê, phương thức canh tác chủ đạo là trồng lúa trên ruộng nước ở các
thung lũng (Srê nghĩa là ruộng nước) còn những nhóm dân tộc Cơ Ho khác do cư
trú ở vùng núi cao, nên phát rừng làm rẫy (mir) để trồng ngô, lúa rẫy, sắn. Họ
thường phát rẫy như sau: trước tiên, đàn bà, trẻ em dùng chà gạc (woát) chặt những
cây nhỏ và dây leo nhưng không cần chặt đứt hẳn, tiếp đó, đàn ông dùng rìu
(sùng) đốn những cây lớn dần từ dưới lên đỉnh dốc, những cây này ngã sẽ kéo
theo cây nhỏ và dây leo. Sau khi phơi nắng độ hơn một tháng, người ta châm lửa
đốt rồi dọn rẫy để gieo hạt khi mùa mưa bắt đầu (khoảng tháng tư). Những nhóm
làm rẫy thường sống du cư, khi đất canh tác bạc màu lại chuyển đến nơi khác.
Ngoài những cây lương thực chủ yếu, dân tộc Cơ Ho còn trồng lẫn các loại rau (bầu,
bí, mướp, đậu...). Họ cũng làm vườn, trồng cây ăn quả như mít, bơ, chuối, đu đủ...
Chăn nuôi: gia súc, gia cầm như trâu, bò,
lợn (heo), dê, gà, vịt... theo phương thức thả rông. Trâu, bò chỉ dùng làm sức
kéo ở những vùng làm ruộng nước, còn lại chủ yếu để hiến tế trong các nghi lễ.
Các nghề khác: săn bắt thú rừng, đánh cá,
hái lượm lâm thổ sản vẫn rất phổ biến. Các nghề thủ công phổ biến nhất là đan
lát và rèn, riêng người Chil còn có thêm nghề dệt, ngoài ra một số nơi có nghề
gốm (làm theo phương thức không có bàn xoay).
Công cụ sản xuất truyền thống: rìu (sùng);
chà gạc (woát hay yoas - dùng để chặt cây, là một đoạn tre già uốn cong một đầu
để tra lưỡi sắt), gậy chọc lỗ tra hạt (chrmul), riêng nhóm Chil ngoài gậy chọc
lỗ tra hạt còn có thêm p'hal (dùng khi vừa chọc lỗ vừa tra hạt, có cán bằng gỗ,
lưỡi sắt dài khoảng 28 cm, rộng 3–4 cm). Công cụ canh tác lúa nước của người
Srê có cuốc; cày (ngal) làm bằng gỗ, trước đây lưỡi cũng bằng gỗ nhưng gần đây
thay bằng sắt; bừa (Sơkam) răng gỗ và Kơr (dùng để trang đất cho bằng phẳng).
Cày, bừa và kơr đều do 2 trâu kéo.
Xã hội
Đơn vị tổ chức xã hội thường thấy của dân
tộc Cơ Ho là Bon (tương đương với làng). Đó vừa là một đơn vị tổ chức xã hội, vừa
là một đơn vị kinh tế tự cấp, tự túc của dân tộc Cơ Ho. Bon là làng truyền thống
theo kiểu một công xã nông thôn mang đậm dấu ấn của thị tộc mẫu hệ dựa trên cơ
sở cư trú trong những căn nhà dài, kế cận nhau theo nhóm dòng họ. Đứng đầu bon
là già làng (Kuang bon). Về quyền lợi kinh tế, già làng cũng giống như mọi
thành viên khác của làng nhưng về mặt tinh thần, người này lại có uy tín gần
như tuyệt đối so với các thành viên khác trong làng. Già làng là hiện thân của
truyền thống và là một yếu tố tinh thần đưa đến sự thống nhất của cộng đồng
(bon) trong xã hội truyền thống của dân tộc Cơ Ho. Trong xã hội truyền thống
thì chủ làng, cùng với chủ rừng (Tombri), thầy cúng và các gia trưởng hợp thành
tầng lớp trên của người Cơ Ho. Sự khác biệt giữa các tầng lớp trong xã hội truyền
thống chủ yếu dựa vào sự khác biệt chút ít về những tư liệu sinh hoạt như
chiêng, ché, nồi đồng, chứ không phải là các tư liệu sản xuất chủ yếu trong sản
xuất nông nghiệp. Chưa có sự bóc lột sức lao động của những thành viên khác
trong cộng đồng làng, cộng đồng dân tộc... Tuy nhiên trong xã hội đó, đã xuất
hiện sự phân tầng xã hội: kẻ giàu, người nghèo, "con ở hoặc "tôi tớ
trong gia đình. Ở những vùng tập trung dân cư với mật độ cao, hình thành một tổ
chức liên minh giữa những bon với nhau trên cơ sở tự nguyện, gọi là M'đrông.
Trong xã hội truyền thống của người Cơ Ho
đã tồn tại hai hình thức gia đình theo chế độ mẫu hệ: gia đình lớn và gia đình
nhỏ. Người phụ nữ đúng vai trò chủ động trong hôn nhân, sau hôn lễ, người đàn
ông về nhà vợ ở (nếu gặp trường hợp gia đình hiếm muộn thì người phụ nữ vẫn có
thể ở nhà chồng), con cái tính dòng họ theo mẹ, con gái là người thừa kế. Tập tục
cổ truyền của người Cơ Ho tuyệt đối cấm kỵ việc kết nôn giữa những người có
cùng một dòng họ, nhất là ở cùng một địa phương. Con chú, con bác, con dì, không
được lấy nhau. Trái lại, con cô, con cậu từ hai phía có thể có quan hệ hôn nhân
với nhau theo luật tục. Sau khi vợ chết, người chồng có thể kết hôn với người
em gái của vợ. Và ngược lại, nếu chồng chết, người vợ góa có thể kết hôn với
người em trai của chồng nếu đôi bên ưng thuận. Hôn nhân của dân tộc Cơ Ho dựa
trên cơ sở sự ưng thuận giữa hai bên trai gái, cha mẹ không quyết định. Theo xu
thế phát triển quá trình giải thể các gia đình lớn chuyển dần sang gia đình nhỏ
đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là ở những vùng kinh tế phát triển hơn hoặc ở gần
đường giao thông lớn, đô thị. Độ tuổi kết hôn của người Cơ Ho thường là 16 - 17
tuổi đối với nữ và 18 - 20 tuổi đối với nam, bình quân một phụ nữ sinh 5 - 6
con nên tỷ lệ sinh cao.
Sinh hoạt
Dân tộc K'Ho
Ẩm thực: Dân tộc Cơ Ho thường ăn ba bữa,
theo tập quán ăn bốc, lương thực chính là gạo ăn với thực phẩm như cá, thịt,
rau. Trước kia, họ nấu ăn bằng ống nứa, sau này mới dùng các dụng cụ nấu ăn bằng
đất nung, đồng, gang. Các món ăn thường chế biến khô để thuận tiện cho ăn bốc.
Thực phẩm kho hoặc luộc, canh được chế biến từ rau trộn với tấm và cho thêm ớt,
muối. Thức uống là nước suối, dụng cụ trữ nước uống là những quả bầu khô hoặc
ghè. Người Cơ Ho hút các loại cây thuốc phơi khô cuốn lại, rượu cần (tơrnơm)
làm từ gạo, ngô, sắn...với men chế biến từ cây rừng rất được ưa chuộng trong
các bữa tiệc, lễ hội...
Trang phục: trang phục của đàn ông là khố
bằng vải bản rộng, dài khoảng 1,5 – 2 m, có hoa văn theo dải dọc. Phụ nữ dùng
váy bằng một tấm vải quấn quanh người rồi giắt cạp. Vay nền đen, có diềm hoa
văn trắng. Nếu thời tiết lạnh, họ khoác thêm chăn (ùi) ra ngoài. Phụ nữ dùng
vòng cổ, vòng tay, cườm và khuyên căng tai làm đồ trang sức.
Nhà ở: người Cơ Ho ở nhà sàn dài bằng gỗ,
hai mái uốn cong, lợp bằng cỏ tranh, có liếp nghiêng ra phía ngoài và cũng lợp
tranh để chống lạnh. Trước cửa ra vào là cầu thang lên xuống, vách đối diện với
cửa để ché, giỏ đựng đồ đạc và bàn thờ. Mọi sinh hoạt chủ yếu (ăn uống, nghỉ
ngơi, tiếp khách) đều diễn ra quanh bếp lửa trong nhà.
Tín ngưỡng
Dân tộc Cơ Ho tin rằng mọi mặt của đời sống
đều do các thế lực siêu nhiên quyết định. Tín ngưỡng về siêu nhiên trong quan
niệm của người Cơ Ho có tính chất đa thần...Thần linh (yang) là thế lực phù hộ
cho con người vị và ma quỷ (chà) lại gây tai họa. Vị thần tối cao là Nđu, rồi
có thần Mặt Trời, Mặt Trăng, thần Núi, thần Sông, thần Đất, thần Lúa...Họ cúng
tế trong những dịp thực hiện hoặc xảy ra những sự kiện quan trọng (hiếu hỷ, những
giai đoạn trong sản xuất, ốm đau bệnh tật...). Liên quan đến trồng lúa, người
Cơ Ho thực hiện các lễ nghi ở từng công đoạn như gieo lúa, khi lúa trổ bông, đạp
lúa và cho lúa vào kho. Trong các nghi lễ cúng tế, tuỳ tầm quan trọng của buổi
lễ họ dùng trâu, lợn,dê, hoặc gà để tế sống cùng với rượu. Bàn thờ (nao) thường
đặt ở chỗ trang trọng và tôn nghiêm nhất trong nhà. Bàn thờ ngày trước làm bằng
ván gỗ có chạm trổ nhưng nay hầu như không còn nữa, giờ đây người ta nhận ra chỗ
thờ cúng nhờ những nhánh cây, bông lúa vắt trên mái đối diện với cửa ra vào.
Đến nay các lễ nghi phong tục cổ truyền của
người Cơ Ho vẫn còn được bảo lưu. Bên cạnh đó, mấy chục năm lại đây một bộ phận
khá lớn người Cơ Ho đã theo đức tin Kitô giáo được du nhập từ bên ngoài, bao gồm
cả Công giáo Rôma và Tin lành. Kinh thánh và các tài liệu truyền giáo khác được
dịch ra tiếng Cơ Ho và các nhà truyền giáo đã sử dụng ngôn ngữ đó trong việc
truyền giảng đạo. [cần dẫn nguồn]
Ăn: Dân tộc Cơ-ho ăn cơm nấu bằng nồi đất,
ăn ngày 3 bữa với canh rau rừng và các loại gia vị như tiêu, ớt...Đồ uống là nước
suối đựng trong vỏ trái bầu. Rượu cần được dùng trong các dịp lễ tiệc, hội hè.
Ở: Nhà ở của dân tộc Cơ-ho là nhà sàn dài,
mái lợp tranh, phía trước cửa nhà có cầu thang lên xuống. Nhiều nhà quây quần lại
thành làng.
Phương tiện vận chuyển: Chiếc gùi đeo qua
hai vai là phương tiện vận chuyển hàng ngày.
Hôn nhân: Phụ nữ chủ động trong hôn nhân.
Sau hôn lễ, người đàn ông về ở nhà vợ, con mang họ của mẹ.
Tang ma: Có tục chia của cho người chết và
làm lễ bỏ mả.
Văn học, nghệ thuật
Cuốn tập đọc song ngữ tiếng Việt và tiếng Cơ Ho do Việt
Nam Cộng hòaxuất bản
Chữ viết: Vào đầu thế kỷ 20, chữ Cơ Ho được
xây dựng bằng hệ thống chữ Latin nhưng mặc dù đã được cải tiến nhiều lần, được
dùng để dạy trong một số trường học, nhưng loại chữ này chưa phổ cập.
Văn học nghệ thuật: Vốn văn học nghệ thuật
dân gian dân tộc Cơ Ho khá phong phú. Thơ ca đậm chất trữ tình và giàu nhạc
tính. Một số vũ khúc cổ truyền thường được diễn trong các lễ hội. Các nhạc cụ
truyền thống như bộ cồng chiêng gồm 6 chiếc, kèn ống bầu (Kơmbuat), đàn ống tre
(Kơrla), trống (Sơgơr)... có khả năng hòa âm với lời ca hoặc độc tấu. Gần đây,
ông Nguyễn Huy Trọng, mộtlinh mục ở giáo xứ Kala, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng
đã sưu tập được khoảng 400 truyện cổ tích, nhiều câu thơ (tam pla) và 30 trường
ca, sử thi của người Cơ Ho trong đó có trường ca Gơ Plom Kòn Yồi dài hơn 6.000
câu. Những kết quả sưu tập này bước đầu đã được gửi cho cơ quan chuyên môn.
Lễ hội
Hàng năm, người Cơ Ho tổ chức ăn Tết khi
mùa màng đã thu hoạch xong (theo thời vụ hiện nay thường vào tháng 12 dương lịch).
Tết này có ý nghĩa đón lúa về nhà (Nhô Lir Bông hay Nhô Lirvong). Theo tập
quán, các gia đình thay phiên nhau mỗi năm hiến một con trâu để cả bon tổ chức
lễ đâm trâu (nho sa rơ pu) trong dịp này. Lễ tổ chức ngoài trời trước nhà chủ
có vật hiến tế, nhà già làng hay trên mảnh đất rộng, bằng phẳng, cao ráo trong
làng, với cây nêu trang trí sặc sỡ. Mọi người nhảy múa theo tiếng cồng chiêng.
Thịt trâu được chia cho từng gia đình, còn máu trâu bôi vào trán những người dự
lễ như một sự cầu phúc. Lễ tết kéo dài 7 - 10 ngày, trong các ngày Tết, dân
làng đến chung vui với từng gia đình. Trong từng gia đình, người ta cũng tổ chức
hiến tế gà, bôi máu lên vựa thóc, sàn kho, cửa ra vào, cửa sổ. Sau Tết, người
ta mới được ăn lúa mới và thực hiện các công việc lớn như làm nhà, chuyển
làng...
Hải
Ninh (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét