Đặc trưng dân tộc Cơ Ho (Hải Ninh)

Dân tộc K’Ho, còn có các tên khác như: Cơ Ho, Cờ Ho, Kơ Ho, Srê, Nộp, Cơ Dòn, Chil, Lạt (Lạch), T’ring.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người K’Ho ở Việt Nam có dân số 166.112 người, cư trú tại 46 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người K’Ho cư trú tập trung tại các tỉnh: Lâm Đồng (145.665 người, chiếm 12,3% dân số toàn tỉnh và 87,7% tổng số người K’Ho tại Việt Nam), Bình Thuận (11.233 người), Khánh Hòa (4.778 người), Ninh Thuận (2.860 người), Đồng Nai (792 người), Sài Gòn (247 người).

Người Cơ Ho chia ra thành mấy nhóm, phân biệt bởi địa bàn cư trú và sinh hoạt cũng như ngôn ngữ:
Nhóm Cơ Ho Srê là nhóm có dân số đông nhất trong các dân tộc Cơ Ho.
Nhóm Cơ Ho Chil (ngày 1 tháng 4 năm 1989) có khoảng 18.000 người. Trước đây, họ cư trú rải rác trên vùng núi cao thuộc thượng lưu sông Krông Knô (Bắc và Tây-Bắc cao nguyên Lang Biang). Nhưng do sống du canh, du cư, nên từ lâu, họ đã di chuyển xuống phía Nam (vùng Bắc và Đông-Bắc thành phố Đà Lạt) kế cận với địa bàn cư trú của nhóm Cơ Ho Lạt, người Chu Ru và Raglai. Hiện nay, họ cư trú trên địa bàn các huyện Đức Trọng, Lâm Hà, Lạc Dương, Đơn Dươngvà vùng phụ cận thành phố Đà Lạt…
Nhóm Cơ Ho Lạt (Lạch) cư trú tập trung ở Xã Lát và một số vùng thung lũng xung quanh thành phố Đà Lạt. Do có điều kiện tiếp xúc, giao lưu lâu dài với người Kinh, nên đời sống kinh tế nhóm này có những tiến bộ nhất định so với các nhóm Cơ Ho Dòn, Nộp, Chil…
Nhóm Cơ Ho Nộp cư trú phía Nam Di Linh, ven đường số từ Di Linh đi Phan Thiết. Do quá trình giao lưu văn hóa xã hội lâu đời với các dân tộc anh em ở Bình Thuận, nhất là người Chăm, nên người Cơ Ho Nộp còn lưu giữ một số yếu tố văn hóa của các dân tộc đó như tục ăn trầu, và trồng trầu, cau xung quanh địa điểm cư trú của mình.
Nhóm Cơ Ho Cờ Dòn cư trú ở miền núi phía Đông-Nam Di Linh, gọi là vùng Gia Bắc, kế cận với địa bàn cư trú của người Cơ Ho Nộp, tập trung đông nhất tại xã Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh.
Nhóm Cơ Ho T’ring cư trú rải rác ở Khánh Hòa, Lâm Đồng.

Nam, nữ dân tộc K’Ho.

Người K’Ho sinh sống chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, ngoài ra còn có săn bắt và hái lượm lâm thổ sản và một số nghề thủ công như rèn, đan lát, dệt.
Trồng trọt: tùy theo đặc điểm địa lý và xã hội của mỗi nhóm mà ngành trồng trọt ở mỗi nhóm có những nét khác nhau. Riêng đối với người Srê, phương thức canh tác chủ đạo là trồng lúa trên ruộng nước ở các thung lũng (Srê nghĩa là ruộng nước) còn những nhóm người Cơ Ho khác do cư trú ở vùng núi cao, nên phát rừng làm rẫy (mir) để trồng ngô, lúa rẫy, sắn. Họ thường phát rẫy như sau: trước tiên, đàn bà, trẻ em dùng chà gạc (woát) chặt những cây nhỏ và dây leo nhưng không cần chặt đứt hẳn, tiếp đó, đàn ông dùng rìu (sùng) đốn những cây lớn dần từ dưới lên đỉnh dốc, những cây này ngã sẽ kéo theo cây nhỏ và dây leo. Sau khi phơi nắng độ hơn một tháng, người ta châm lửa đốt rồi dọn rẫy để gieo hạt khi mùa mưa bắt đầu (khoảng tháng tư). Những nhóm làm rẫy thường sống du cư, khi đất canh tác bạc màu lại chuyển đến nơi khác. Ngoài những cây lương thực chủ yếu, người Cơ Ho còn trồng lẫn các loại rau (bầu, bí, mướp, đậu…). Họ cũng làm vườn, trồng cây ăn quả như mít, bơ, chuối, đu đủ…
Chăn nuôi: gia súc, gia cầm như trâu, bò, lợn (heo), dê, gà, vịt… theo phương thức thả rông. Trâu, bò chỉ dùng làm sức kéo ở những vùng làm ruộng nước, còn lại chủ yếu để hiến tế trong các nghi lễ.
Các nghề khác: săn bắt thú rừng, đánh cá, hái lượm lâm thổ sản vẫn rất phổ biến. Các nghề thủ công phổ biến nhất là đan lát và rèn, riêng người Chil còn có thêm nghề dệt, ngoài ra một số nơi có nghề gốm (làm theo phương thức không có bàn xoay).


Chà gạc (yoas) là dụng cụ để chặt cây, phát rẫy của người Cơ Ho. Cán chà gạc được làm bằng một đoạn gốc tre già và phía gốc, chỗ tra lưỡi dao được uốn cong khá cầu kỳ. Người ta uốn một lúc nhiều cán chà gạc trên một chiếc cột như thấy trong ảnh.

Công cụ sản xuất truyền thống: rìu (sùng); chà gạc (woát hayyoas – dùng để chặt cây, là một đoạn tre già uốn cong một đầu để tra lưỡi sắt), gậy chọc lỗ tra hạt (chrmul), riêng nhóm Chil ngoài gậy chọc lỗ tra hạt còn có thêm p’hal (dùng khi vừa chọc lỗ vừa tra hạt, có cán bằng gỗ, lưỡi sắt dài khoảng 28 cm, rộng 3–4 cm). Công cụ canh tác lúa nước của người Srê có cuốc; cày (ngal) làm bằng gỗ, trước đây lưỡi cũng bằng gỗ nhưng gần đây thay bằng sắt; bừa (Sơkam) răng gỗ và Kơr (dùng để trang đất cho bằng phẳng). Cày, bừa và kơr đều do 2 trâu kéo.
Trong xã hội truyền thống của người K’Ho đã tồn tại hai hình thức gia đình theo chế độ mẫu hệ: gia đình lớn và gia đình nhỏ. Người phụ nữ đúng vai trò chủ động trong hôn nhân, sau hôn lễ, người đàn ông về nhà vợ ở (nếu gặp trường hợp gia đình hiếm muộn thì người phụ nữ vẫn có thể ở nhà chồng), con cái tính dòng họ theo mẹ, con gái là người thừa kế. Tập tục cổ truyền của người K’Ho tuyệt đối cấm kỵ việc kết nôn giữa những người có cùng một dòng họ, nhất là ở cùng một địa phương. Con chú, con bác, con dì, không được lấy nhau. Trái lại, con cô, con cậu từ hai phía có thể có quan hệ hôn nhân với nhau theo luật tục.
Sau khi vợ chết, người chồng có thể kết hôn với người em gái của vợ. Và ngược lại, nếu chồng chết, người vợ góa có thể kết hôn với người em trai của chồng nếu đôi bên ưng thuận. Hôn nhân của người K’Ho dựa trên cơ sở sự ưng thuận giữa hai bên trai gái, cha mẹ không quyết định.
Theo xu thế phát triển quá trình giải thể các gia đình lớn chuyển dần sang gia đình nhỏ đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là ở những vùng kinh tế phát triển hơn hoặc ở gần đường giao thông lớn, đô thị. Độ tuổi kết hôn của người Cơ Ho thường là 16 – 17 tuổi đối với nữ và 18 – 20 tuổi đối với nam, bình quân một phụ nữ sinh 5 – 6 con nên tỷ lệ sinh cao.
Ẩm thực: Người K’Ho thường ăn ba bữa, theo tập quán ăn bốc, lương thực chính là gạo ăn với thực phẩm như cá, thịt, rau. Trước kia, họ nấu ăn bằng ống nứa, sau này mới dùng các dụng cụ nấu ăn bằng đất nung, đồng, gang. Các món ăn thường chế biến khô để thuận tiện cho ăn bốc. Thực phẩm kho hoặc luộc, canh được chế biến từ rau trộn với tấm và cho thêm ớt, muối. Thức uống là nước suối, dụng cụ trữ nước uống là những quả bầu khô hoặc ghè. Người Cơ Ho hút các loại cây thuốc phơi khô cuốn lại, rượu cần (tơrnơm) làm từ gạo, ngô, sắn…với men chế biến từ cây rừng rất được ưa chuộng trong các bữa tiệc, lễ hội…
Trang phục: Trang phục của đàn ông là khố bằng vải bản rộng, dài khoảng 1,5 – 2 m, có hoa văn theo dải dọc. Phụ nữ dùng váy bằng một tấm vải quấn quanh người rồi giắt cạp. Vay nền đen, có diềm hoa văn trắng. Nếu thời tiết lạnh, họ khoác thêm chăn (ùi) ra ngoài. Phụ nữ dùng vòng cổ, vòng tay, cườm và khuyên căng tai làm đồ trang sức.
Nhà ở: Người K’Ho ở nhà sàn dài bằng gỗ, hai mái uốn cong, lợp bằng cỏ tranh, có liếp nghiêng ra phía ngoài và cũng lợp tranh để chống lạnh. Trước cửa ra vào là cầu thang lên xuống, vách đối diện với cửa để ché, giỏ đựng đồ đạc và bàn thờ. Mọi sinh hoạt chủ yếu (ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách) đều diễn ra quanh bếp lửa trong nhà.

Gùi đi rẫy của dân tộc K’Ho.

Người K’Ho tin rằng mọi mặt của đời sống đều do các thế lực siêu nhiên quyết định. Tín ngưỡng về siêu nhiên trong quan niệm của người Cơ Ho có tính chất đa thần…Thần linh (yang) là thế lực phù hộ cho con người vị và ma quỷ (chà) lại gây tai họa. Vị thần tối cao là Nđu, rồi có thần Mặt Trời, Mặt Trăng, thần Núi, thần Sông, thần Đất, thần Lúa…Họ cúng tế trong những dịp thực hiện hoặc xảy ra những sự kiện quan trọng (hiếu hỷ, những giai đoạn trong sản xuất, ốm đau bệnh tật…). Liên quan đến trồng lúa, người K’Ho thực hiện các lễ nghi ở từng công đoạn như gieo lúa, khi lúa trổ bông, đạp lúa và cho lúa vào kho. Trong các nghi lễ cúng tế, tuỳ tầm quan trọng của buổi lễ họ dùng trâu, lợn, dê, hoặc gà để tế sống cùng với rượu. Bàn thờ (nao) thường đặt ở chỗ trang trọng và tôn nghiêm nhất trong nhà. Bàn thờ ngày trước làm bằng ván gỗ có chạm trổ nhưng nay hầu như không còn nữa, giờ đây người ta nhận ra chỗ thờ cúng nhờ những nhánh cây, bông lúa vắt trên mái đối diện với cửa ra vào.
Đến nay các lễ nghi phong tục cổ truyền của người K’Ho vẫn còn được bảo lưu. Bên cạnh đó, mấy chục năm lại đây một bộ phận khá lớn người K’Ho đã theo đức tin Kitô giáo, bao gồm cả Công giáo và Tin lành. Kinh thánh và các tài liệu truyền giáo khác được dịch ra tiếng K’Ho và các nhà truyền giáo đã sử dụng ngôn ngữ đó trong việc truyền giảng đạo.
Hàng năm, người K’Ho tổ chức ăn Tết khi mùa màng đã thu hoạch xong (theo thời vụ hiện nay thường vào tháng 12 dương lịch). Tết này có ý nghĩa đón lúa về nhà (Nhô Lir Bông hay Nhô Lirvong). Theo tập quán, các gia đình thay phiên nhau mỗi năm hiến một con trâu để cả bon tổ chức lễ đâm trâu (nho sa rơ pu) trong dịp này. Lễ tổ chức ngoài trời trước nhà chủ có vật hiến tế, nhà già làng hay trên mảnh đất rộng, bằng phẳng, cao ráo trong làng, với cây nêu trang trí sặc sỡ. Mọi người nhảy múa theo tiếng cồng chiêng. Thịt trâu được chia cho từng gia đình, còn máu trâu bôi vào trán những người dự lễ như một sự cầu phúc. Lễ tết kéo dài 7 – 10 ngày, trong các ngày Tết, dân làng đến chung vui với từng gia đình. Trong từng gia đình, người ta cũng tổ chức hiến tế gà, bôi máu lên vựa thóc, sàn kho, cửa ra vào, cửa sổ. Sau Tết, người ta mới được ăn lúa mới và thực hiện các công việc lớn như làm nhà, chuyển làng…
Vốn văn học nghệ thuật dân gian người K’Ho khá phong phú. Thơ ca đậm chất trữ tình và giàu nhạc tính. Một số vũ khúc cổ truyền thường được diễn trong các lễ hội. Các nhạc cụ truyền thống như bộ cồng chiêng gồm 6 chiếc, kèn ống bầu (Kơmbuat), đàn ống tre (Kơrla), trống (Sơgơr)… có khả năng hòa âm với lời ca hoặc độc tấu. Gần đây, ông Nguyễn Huy Trọng, một linh mục ở giáo xứ Kala, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng đã sưu tập được khoảng 400 truyện cổ tích, nhiều câu thơ (tam pla) và 30 trường ca, sử thi của người K’Ho trong đó có trường ca Gơ Plom Kòn Yồi dài hơn 6.000 câu. Những kết quả sưu tập này bước đầu đã được gửi cho cơ quan chuyên môn.

Múa Xoan của dân tộc K’Ho.

TÌM HIỂU CA DAO, DÂN CA DÂN TỘC CƠ HO
Người Cơ Ho nói riêng, các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nói chung, vốn không có văn tự, nên khi muốn lưu giữ kho tàng văn hóa dân gian của dân tộc, họ phải sử dụng lối văn truyền khẩu, nên các hình thức nói kể thiên về văn vần và bắt đầu nghệ thuật âm nhạc của mình bằng lối hát – nói, trong đó yal yau (bài kể chuyện xưa) là tiêu biểu. Ngay cả khi khuyên nhau, các bài luật tục được trình bày theo thể hát nói:
“Chim sáo không ngừng rỉa cánh
Chim le le không rảnh rỉa đuôi
Con ếch trong hang kêu ộp oạp
Con cá dưới hố quẫy lum bum
Con trâu đã trả, chuyện đã xếp rồi
Con trâu đã đền, chuyện đã xếp yên
Cháu không muốn phiền về câu chuyện cũ
Lờ cũ đã rách, rái về mò cá
Ná xưa đã gãy, khỉ lại phá nương.
Ngoài loại bài để cúng và loại bài để xét xử, còn có nhiều bài văn vần khác có thể gọi là bài ca tình cảm, mà đa phần được sử dụng trong hình thức đối đáp giữa nam và nữ. Loại này thiên về việc bộc lộ cảm xúc giữa con người, chủ yếu là người trẻ. Chẳng hạn có bài ca ngợi vẻ đẹp của người con gái:
Cô gái kia đẹp như lá hành nghiêng
Anh sóc bắt gặp
Cô kia trắng, anh rái cá bắt gặp
Cô kia đẹp, phượng hoàng bắt gặp
Gái mới lớn, heo rừng đâm cây.
Vóc dáng con người Tây Nguyên không chỉ được so sánh với những con vật rừng quen thuộc với một cư dân từng sống và “ăn rừng”, mà còn được ví von với hình dáng và màu sắc cây trái:
Thân con gái như cây rau rịa
Tay con gái như măng mới mọc
Thân con gái như chuối chín trên cây…

Nhạc cụ dân tộc K’Ho.

Với những bài ca tình cảm như thế này chủ yếu là để hát, hát trong lễ hội, trên rẫy rừng, bên suối vắng hay trong nhà sàn, hát bày tỏ nỗi lòng, hát chung vui hay tỏ tình thân thiết giữa người nam và người nữ. Loại này có thể được gọi là lah long hay tam pơt với tư cách là bài hát giao duyên, bài hát trao duyên với sự hài hòa với các yếu tố thơ – nhạc và các yếu tố khác như trong môi trường diễn xướng dân gian. Đó là thơ – nhạc dân gian, là tình ca dân gian với tính chất trữ tình thật sự. Trong trường hợp này thì bài ca tình cảm hoàn toàn tương đương với thuật ngữ dân ca mà giới nghiên cứu và công chúng đã từng biết:
Chiếc cườm đẹp
Chiếc cườm đá quý
Trái cây chín trên rừng
Cơm đùm trong giỏ anh phải tự đi tìm
Măng pưt măng wai, ê ê măng tre dọc bờ suối
Những cô gái, từng đoàn đi làm chòi cao.
Những câu ca dao mang tính biểu trưng cao với lối nói ví von như:
Tôi chìa tay trái xin anh miếng trầu
Tôi đ¬ưa tay phải hỏi anh chiếc áo
Tôi đến bên ngựa xin anh lục lạc
Lục lạc kêu rằng ta nên vợ nên chồng.
Hiện nay càng ít người nhớ đến, cũng như những câu tục ngữ ngày càng khó sưu tầm.
Gái không chồng làm việc không xong
Trai ch¬ưa vợ hay sinh chuyện chẳng lành.
Làm nhà cần có gỗ
Đan rổ cần có tre
Làm nghề nông phải dùng nước.
Khéo léo lúc trẻ nhỏ,
Giàu có vào tuổi trung niên
Thông minh đến lúc tuổi già.

Em hát Giang giao

Hầu hết các dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng đều có lối hát Yal yau. Yal yau như nguyên nghĩa của nó là ngẫm ngợi chuyện xưa. Yal yau có thể hát từ ngày sang đêm. Có những bài yal yau như là những trường ca hát hai, ba ngày đêm liền nhưK’Rai – Ka Lin, Sa rơpu mang Yu Mòng – Dòi, K’Tàng Dam Prah. Nhiều cuộc hát yal yau cuốn hút người nghe suốt đêm đến sáng, hết trưa sang chiều, và bao nhiêu ché rượu cần là bấy nhiêu chuyện yal yau được khơi dậy.
Trong các thể loại tiền âm nhạc của người thiểu số Tây Nguyên, gần gũi với yal yau nhất là đơs crihĐơs là nói, kể,crih là chuyện lạ. Đơs crih là những bài hát mang nội dung lạ. Có thể hiểu đó là những bài lạ mà thay vì kể chuyện thì hát – nói cho nhau nghe trong những cuộc đi xa nhằm rút ngắn dặm đường.

Bộ chiêng 6 của dân tộc K’Ho.

Đặc điểm dân tộc K’Ho
Vốn văn học nghệ thuật dân gian Cơ Ho rất phong phú. Thơ ca giàu trữ tình và đầy nhạc tính. Một số vũ khúc cổ truyền thường được diễn trong các lễ hội. Các nhạc cụ truyền thống như bộ cồng chiêng sáu chiếc, kèn ống bầu (Kơmbuat), đàn ống tre (Kơrla), trống (Sơgơr)… có khả năng hoà âm với lời ca hoặc độc tấu.
Gần đây, ông Nguyễn Huy Trọng, một linh mục ở giáo xứ Kala, huyện Di Linh, tỉnhLâm Đồng đã sưu tập được khoảng 400 chuyện cổ tích, nhiều câu thơ (tam pla) và 30 trường ca, sử thi của người Cơ Ho trong đó có trường ca Gơ Plom Kòn Yồi dài hơn 6.000 câu.
Tác phẩm văn học nổi tiếng là Gơ Plom Kòn Yồi. Truyện được sưu tầm khoảng từ năm 1971-1974, do cụ Kơ Brok – ngoài 70 tuổi kể suốt đêm trong một lễ hội “Tế thần ăn trâu” (Lơh Yàng nô sa rơpu) tại vïng Riongto (thuộc huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng ngày nay).
Đó là một câu chuyện về tình yêu và hôn nhân giữa hai nhân vật chính là người vợ Gơ Plom Kòn Yồi và người chồng Tòng Kòn Tăc. Nhưng xuyên suốt câu chuyện, luôn luôn có bóng dáng cả dân tộc Cơ Ho, có sự sinh và sự chết, có cái thiện và cái ác, có những địa danh từ Riongto qua các vùng miền người Cơ Ho sinh sống ra đến tận Pơjai (Phan Thiết ngày nay). “Nói là tình yêu nam nữ, nhưng thực chất, đó là tình yêu dân tộc”

Ca dao – dân ca
Những bài ca dân gian được gộp chung các hình thức mà cư dân bản địa vẫn gọi là nri (luật tục), bài cúng (hay bài ca nghi lễ), tam pơt và lah long (hát đối đáp, giao duyên hay bài ca tình cảm). Bài ca nghi lễ hay bài cúng được sử dụng một cách phổ biến trong các lễ cúng thần linh của cư dân. Cấu trúc của các bài ấy thường có vần, số chữ trong các câu không nhất thiết phải như nhau, số câu trong các bài cũng khác nhau.
Luật tục (nri) đã đề cao các vị thần linh và coi những việc làm của họ là mẫu mực, phải tuân theo. Khi xử tội những người vi phạm luật tục, người ta lại đọc hay hát bài ca luật tục. Những bài ấy mang sức nặng của truyền thống vă hóa lâu đời, thiêng liêng, lại được cô đúc trong những công thức chặt chẽ, được thể hiện bằng những hình ảnh quen thuộc, rất gần gũi với tư duy sinh hoạt của cư dân. Dù luật tục được truyền miệng nhưng chúng vẫn có giá trị củng cố gia đình – dòng họ – bon làng, duy trì trật tự kỷ cương theo cơ chế tự quản.
Về nội dung, mỗi câu chữ đều chứa một nội dung cụ thể, phản ánh một hiện tượng tự nhiên hay xã hội, đúc kết một kinh nghiệm sản xuất hay sinh hoạt cộng đồng. Tuy nhiên, ta hiểu theo nghĩa cụ thể, nghĩa đen, nghĩa trực tiếp vẫn là chủ đạo. Vì vậy, từng câu ít khi tự đứng độc lập như một tác phẩm mà phải liên kết chặt chẽ với nhau trong một bài khá dài mang tính tổng hợp tri thức thực tiễn, truyền bá kinh nghiệm sống, chúng lại thường ít đứng một mình mà liên kết lại thành một cấu trúc chặt chẽ dưới dạng bài với vần nhịp khá chuẩn.
Người Cơ Ho nói riêng, đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nói chung, vốn không có văn tự, nên muốn lưu giữ kho tàng văn hóa dân gian của dân tộc, họ phải sử dụng lối văn truyền khẩu, nên các hình thức nói kể thiên về văn vần và bắt đầu nghệ thuật âm nhạc của mình bằng lối hát – nói, trong đó yal yau (bài kể chuyện xưa) là tiêu biểu.
Âm nhạc dân gian
Cùng với ca hát, người Cơ Ho còn có nhiều loại nhạc cụ khác nhau và được sử dụng rộng rãi trong các hoạt động nghi lễ, hội hè. Công dụng nổi bật của chúng là tạo nền cho các nghi thức tế lễ, phối tấu cùng với ca hát và “chỉ huy” các động tác nhảy múa. Các nhạc cụ tiêu biểu là đàn đá (lu gòng), chiêng (cing), trống da nai (sơgơr), khèn bầu, khèn môi, đàn sáu dây, sáo… là những nhạc cụ cổ truyền thống với âm sắc độc đáo và có cấu tạo mang bản sắc dân tộc. Đàn đá và chiêng là hai loại nhạc cụ khá phổ biến trong cộng đồng người thiểu số. Bộ chiêng người Cơ Ho có sáu chiếc:
Cing me (chiêng cái) giữ nhịp
Cing rdơn (chiêng cả) phụ nhịp cho chiêng cái
Cing ndơn đổi giai điệu
Cing thơ và cing thi trả lời khi chiêng cái gọi.
Khi đánh chiêng, người Cơ Ho xếp theo hình vòng cung, theo thứ tự các chiêng kể trên, tay trái đỡ mặt trong, tay phải đánh. Đội hình di chuyển khi ngược khi xuôi, âm thanh trầm bổng, luyến láy được tạo ra nhờ tay chụp, xòe hay xoa mà tạo nên. Riêng trống là loại nhạc cụ phổ biến ở hầu khắp các nhóm cư dân. Chiêng là cách gọi theo người Việt. Theo tiếng Cơ Ho, chiêng là cing. Chiêng không có núm gọi là cing, chiêng có núm gọi là mồng (cồng). Theo người Lạch, chiêng có 36 nhịp đánh khác nhau. Chiêng được sử dụng trong các dịp vui.

Người K’Ho hướng về ngọn lửa như hướng về một thế giới huyền bí…

Độc đáo Lễ cúng thần Lửa của người Cơ Ho
Cũng như trong tín ngưỡng dân gian của nhiều dân tộc, lửa đã thắp sáng tâm linh của người Cơ Ho bằng những giá trị thiêng liêng của nó. Chính vì vậy, trong những dịp buôn làng mở hội, họ đều tổ chức lễ cúng gọi thần Lửa với những nghi thức đặc biệt thiêng liêng…
Với dân số gần 150.000 người, đồng bào Cơ Ho là một trong bốn dân tộc có dân số đông trong các dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên. Cũng như các dân tộc anh em sinh sống trên vùng đất Tây Nguyên, người Cơ Ho còn bảo tồn nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc. Một trong những biểu hiện độc đáo đó là lễ cúng gọi thần Lửa trong các dịp buôn làng mở hội…
Trong quan niệm của người Cơ Ho, vũ trụ bao gồm ba tầng: tầng trời, tầng người sống và tầng người chết. Cao nhất trên cùng chính là tầng trời, nơi cư ngụ của các vị thần linh. Đứng đầu trong các vị thần ấy là Yàng N’Du – vị thần khai sáng và quyền năng tối thượng. Bên dưới thần N’Du là các vị thần khác ngự trị bao đời nay trong đời sống tâm linh của người Cơ Ho như: thần Lúa (Yàng Coi), thần Đất (Yàng Tía), thần Mặt Trời (Yàng Măt Tơ Ngai), thần Nước (Yàng Đạ), thần Núi (Yang Pnâm)… và thần Lửa.
Cũng như trong tín ngưỡng dân gian của nhiều dân tộc khác, lửa đã thắp sáng tâm linh của người Cơ Ho bằng những giá trị thiêng liêng của nó. Họ hướng về ngọn lửa như hướng về một thế giới huyền bí từ bao đời nay giữa không gian núi rừng. Trong những đêm trường gió hú, ngọn lửa hiện hữu xua tan tăm tối, và góp thêm vào những tầng giá trị văn hóa của cư dân sống nơi núi rừng. Bởi vậy, trong những dịp buôn làng mở hội, lễ cúng gọi thần Lửa được diễn ra với những nghi thức đặc biệt thiêng liêng…


Lễ cúng gọi thần Lửa được tổ chức với những nghi thức đặc biệt thiêng liêng…
Buổi lễ cúng gọi thần Lửa đã được chuẩn bị từ trước đó nhiều ngày. Đêm hành lễ bắt đầu với sự tụ họp của dân làng ở nơi trang trọng nhất trong buôn. Trong buổi lễ mọi người đều hướng về phía già làng, hướng mắt về không gian thiêng và lắng nghe tiếng cầu khấn của già làng cũng là tâm nguyện của cả cộng đồng. Lời khấn Yàng của già làng chính là thông điệp cầu an của người Cơ Ho trong những buổi hành lễ:
“Ơ…ơ…Yàng…! Hỡi thần Lửa linh thiêng… Khắp bốn phương Ngài đang ở đâu? Đang trú ngụ ở những cánh rừng phía đông hay thung lũng phía tây – Dù Ngài có ở xa cách năm ngọn đồi, bảy con suối – Chúng con đang làm lễ cúng Ngài – Tre nứa chúng con để sẵn – Đá thiêng chúng con để sẵn – Củi rơm chúng con để sẵn – Chờ Ngài cho lửa – Ngọn lửa sẽ giúp xua đi màn đêm tăm tối – Đem ánh sáng và may mắn về cho buôn làng – Hỡi thần Lửa linh thiêng…”.
Sau lời khấn, chính tay già làng giết gà, trâu, heo hoặc dê hiến tế, dùng máu con vật hiến sinh bôi lên những ngọn đuốc đã được chuẩn bị chờ sẵn và cọ hai thanh tre vào nhau để phát ra ngọn lửa. Lửa từ tay người già truyền cho một chàng trai trẻ khỏe mạnh và giỏi giang. Ngọn lửa sáng lên giữa đêm trường núi rừng, thắp sáng mọi ngõ ngách tối tăm, ngọn lửa được chia về với từng bếp lửa cộng đồng. Và, thần Lửa đã chứng kiến, tiếp nhận lời khẩn cầu và cho phép đêm hội bắt đầu…
Trong những đêm hội của người Cơ Ho, tiếng chiêng luôn rộn rã đồng hành bên ánh sáng ấm áp của những ngọn lửa. Thần Lửa và thần Chiêng hòa hợp bên nhau và sẻ chia với đời sống tâm linh của người Cơ Ho. Lửa sáng đến đâu, âm thanh của chiêng lan tỏa đến đó. Trong những đêm hội, ngọn lửa rực sáng cả một góc núi rừng, giàn chiêng sáu vây quanh bập bùng và vòng người tạo thành vòng xoang xoắn xuýt bên nhau – điệu múa vui của cộng đồng đêm càng về khuya càng thêm rộn rã…

Lễ dâng trâu của dân tộc K’Ho.

Lễ dâng trâu tế thần của tộc người Cơ Ho, Bình Thuận
Cứ 17 năm, người Cơ Ho, xã Đông Giang huyện Hàm Thuận Bắc (Bình Thuận) lại tổ chức lễ dâng trâu tế thần một lần, để tạ ơn thần mặt trời, thần lúa mẹ, tổ tiên…
Là một xã vùng cao của huyện Hàm Thuận Bắc, Đông Giang 100% là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, gồm tộc người Cơ Ho và Raig. Xã có 3 thôn, 9 xóm, mỗi xóm đều có thờ các vị thần, riêng thần núi thì mỗi xóm thờ 1 vị thần núi. Với tộc người Cơ Ho thì cứ 17 năm, tộc này sẽ tập chung về đông đủ để tổ chức lễ dâng trâu tế thần một lần để tạ ơn thần mặt trời, thần lúa mẹ, tổ tiên… đã cho tộc họ con cháu khỏe mạnh, có cái ăn cái mặc. Do vậy, có những người con lần đầu tiên được chứng kiến lễ hội dân tộc mình.
Mâm lễ dâng lên tế thần gồm có thịt trâu, thịt gà, thịt heo, thịt dê, khăn trắng, rượu cần, lúa mẹ, bánh nếp, trứng gà, cơm. Con dao dùng để đâm trâu, heo, dê, có hình lưỡi kiếm và phải được cúng kỹ lưỡng. Lễ hội được tổ chức tại sân làng hoặc bìa rừng.
Nguồn gốc của lễ hội theo tộc người Cơ Ho truyền lại, từ thời xa xưa, tộc người Cơ Ho rất ít người, tổ tiên họ chỉ sinh ra được 1 người con gái (mẫu hệ), rồi người con gái đó lớn lên lập gia đình cũng chỉ sinh ra tiếp 1 đứa con gái và cứ nối tiếp nhau như vậy. Nói là dòng tộc nhưng đếm chẳng được bao người, đến lượt người con gái sau này lấy chồng chưa thấy có con, mặc dù đã đi xin, đi cầu các vị thần, tổ tiên khắp nơi. Đêm ấy người nữ đó nằm mơ, có người báo là phải ăn thịt trâu tơ thì sẽ đông con lắm cháu. Sáng hôm sau người này quyết định làm theo giấc mơ, gia đình đã mổ trâu cho cô ăn, cô đã ăn hết 1 con trâu trong vòng 7 ngày. Và 1 tháng sau cô đã có tin vui. Cô đã sinh 9 người con đều khỏe mạnh, và 9 người con này lớn lên lập gia đình cũng sinh rất nhiều con cháu. Từ đó, người Cơ Ho cho rằng ăn thịt trâu rất may mắn, nên họ làm trâu cúng tế thần linh. Còn 17 năm làm một lần, con số 17 là số tuổi con người mới lớn, tràn đầy nhựa sống, khỏe mạnh, con số đẹp của tộc người Cơ Ho.
Lễ hội dâng trâu tế thần được bà con Cơ Ho xã Đông Giang tổ chức nhằm biết ơn đến ông bà tổ tiên, đến các vị thần, qua đó cũng là cầu bình an, may mắn đến với họ tộc, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu…

Bà con chuẩn bị cho Lễ mừng lúa trổ bông.

Lễ mừng lúa trổ bông của người Cơ Ho, Lâm Đồng
Lễ mừng lúa trổ bông của người Cơ Ho (Lâm Đồng) là một trong những nghi lễ quan trọng nhất nhằm cúng tạ ơn Yàng sau những mùa thu hoạch, mừng vui của cả buôn làng…
Là một trong 3 dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng, người Cơ Ho có số dân đông nhất. Họ sống chủ yếu bằng canh tác lúa nước ở những thung lũng sâu, có lối sống tín ngưỡng thờ đa thần giáo như thần sông, thần núi, thần cây… Với đời sống văn hóa tinh thần phong phú nên các lễ hội thường gắn liền với các hoạt động nông nghiệp. Các lễ hội xoay quanh chu kỳ của mùa vụ và để cầu một năm mưa thuận gió hòa, cây lúa nhiều hạt, hạt chắc không bị sâu… Đây luôn là mơ ước của người Cơ Ho và là lý do đồng bào tổ chức “Lễ Mừng lúa trổ bông” vào tháng 7 hàng năm.
Lễ hội được tổ chức vào tháng 7 hàng năm. Quy mô của lễ hội lớn hay nhỏ, lễ vật nhiều hay ít tùy thuộc vào sự tham gia và đóng góp của mỗi hộ gia đình. Lễ được tổ chức trong một ngày với nhiều nghi thức khác nhau tại một mảnh đất bên cánh đồng lúa của dân làng. Sau đó mỗi gia đình cũng tự tổ chức lễ tại nhà của mình.
Nghi lễ mừng lúa trổ bông được bắt đầu bằng nghi thức đâm trâu, con trâu được đeo mặt nạ có biểu tượng âm dương đất trời. Dân làng và khách được mời quây tròn xung quanh cùng tham dự. Trước khi đâm trâu, già làng cùng những người có uy tín đứng thành hàng trước cây nêu, một người đại diện đốt cây trầm nước để hương thơm lan toả lấy cái may mắn xua đuổi cái xấu, cái không tốt đi nơi khác. Sau đó họ đọc lời khấn cầu Yàng, lời khấn có ý “xin yàng năm cũ đã qua, năm mới đã tới, xin yàng cho lúa nhiều hạt, đặng năm nay đủ ăn, dư đến sang năm”.
Trong lúc già làng chuẩn bị cầu khẩn, thanh niên trong làng đứng bên ngoài huýt sáo to 3 lần để kêu gọi, mời thần linh. Người được giao nhiệm vụ đâm trâu là người khỏe mạnh, có kinh nghiệm. Trước khi đâm, người ta chặt vào khuỷu hai chân sau của con trâu sau đó dùng giáo đâm mạnh vào ngực trâu để trâu chết nhanh. Theo người quan niệm của người Cơ Ho, trâu chết nhanh được cho là may mắn, điều đó có nghĩa là thần linh đã tiếp nhận vật hiến tế cùng lời thỉnh cầu của dân làng, giúp cho một vụ mùa sắp đến bội thu, mưa thuận, gió hòa, núi rừng yên ổn, dân làng no ấm.
Sau khi trâu chết, già làng lấy máu trâu bôi lên cây nêu, máu có màu đỏ tượng trưng cho sự sống, sự sinh sôi nảy nở, sự mong ước của mọi người. Dân làng lấy máu trâu đựng trong ống tre hoặc bôi lên thanh tre vót nhọn có tua trắng và cây cỏ tranh có thắt hình chiếc nơ tượng trưng cho cây lúa cắm trên cánh đồng của mình cầu thần phù hộ lúa không bị sâu ăn, mùa màng bội thu, hạt chắc, hạt nhiều, dân làng có cái ăn, cái mặc. Trâu được thanh niên trong làng làm thịt, đầu trâu, da, xương, móng chân, đuôi treo ở bên dưới cây nêu để hiến cho thần, các vật hiến tế này được treo ở ngoài đồng 7 ngày.
Bàn thờ chính, nơi cúng kêu gọi thần linh về với dân làng được bày lễ vật gồm: chuối, gà, bánh nếp, trứng, thịt, tim trâu… Gà được nhổ sạch lông, không nấu chín đặt vào nơi cúng. Sau khi cầu khẩn xong già làng thái nhỏ một ít thịt trâu bỏ xuống bàn thờ nhỏ để thần linh về thưởng thức vật lễ chung vui với dân làng. Thịt trâu được chia đều cho từng gia đình, phần còn lại được nấu để dân làng và những người tham dự cùng ăn sau lễ cúng, lúc này mọi người đều ăn uống vui chơi tại chỗ cho đến tối.
Sau lễ cúng ngoài đồng, trong từng gia đình, họ cũng tổ chức lễ hiến tế gà, máu gà được bôi lên trán mỗi người, họ đặt lông gà trong từng góc nhà mình với ý nghĩa cầu may mắn, bình an. Hòa trong tiếng chiêng, tiếng trống họ vui chơi và nhảy múa cùng những người tham dự, lúc này mỗi gia đình sẽ đi cầu chúc cho nhau, trong tâm khảm mỗi người đều dâng lên một niềm hy vọng, các vị thần sẽ phù hộ cho họ một sức khỏe, một vụ mùa bội thu vào năm tới…

Sau khi sinh được 7 ngày em bé K’Ho sẽ được làm lễ đặt tên.

Nghi lễ đặt tên cho con của người Cơ Ho, Lâm Đồng
Lễ đặt tên cho con là một phong tục truyền thống độc đáo, là một thành tố văn hóa, tôn giáo quan trọng liên quan đến các nghi lễ vòng đời của dân tộc Cơ Ho ở Lâm Đồng.
Theo thống kê hiện nay, người Cơ Ho có khoảng hơn 150.000 người tập trung ở các huyện Lạc Dương, Đức Trọng, Di Linh của Lâm Đồng. Người Cơ Ho hiện nay vẫn còn lưu giữ được nhiều phong tục truyền thống độc đáo trong đó có “Lễ đặt tên cho con”.
Theo quan niệm của người Cơ Ho, việc làm lễ đặt tên cho con là một trong những nghi lễ rất quan trọng và cần thiết vì đứa trẻ sinh ra cần phải được các Yàng (thần linh) che chở phù hộ trong suốt cuộc đời. Bởi vậy, cứ sau khi sinh được 7 ngày là mọi người trong gia đình phải làm lễ đặt tên cho em bé.
Và trong 7 ngày ở cữ của người mẹ, người Cơ Ho cho cắm một cành cây có gai dài khoảng chừng 1m bên ngoài vách nhà nơi gần bếp lửa – chỗ nằm của hai mẹ con vừa để ngăn ma, quỷ và vừa để báo hiệu trong nhà có người mới sinh không cho khách và người lạ vào nhà.
Để chuẩn bị cho nghi lễ đặt tên con, trước đó người cha và mọi người trong gia đình đã phải bỏ thời gian để đan một chiếc gùi hoa nhỏ xinh, cùng với bộ khung dệt vải hoặc rổ xúc cá nếu bà mẹ sinh con gái. Cũng có khi là một cái xà gạt (dao có cán đi rừng đặc trưng của người Tây Nguyên) và một cái ná (cung tên) nhỏ nếu đó là con trai.
Địa điểm tổ chức lễ, tại gian chính của nhà ngay trước bàn thờ. Lễ vật dâng cúng thần linh khá đơn giản không quá cầu kỳ, bao gồm: một chóe rượu cần, một con gà sống, một nhánh chuối, một quả trứng gà, một chén cơm và một chén đựng bộ lòng gà, một chén tiết gà (sau khi hiến sinh).
Bên cạnh đó, được bày thêm chiếc gùi, bộ khung dệt hoặc chiếc xà gạt, chiếc ná nhỏ đã được chuẩn bị từ trước (đây là những vật tượng trưng) để cầu mong thần linh ban cho con gái thì xinh đẹp, chăm chỉ, khéo tay; con trai thì được “dài chân, dài tay như con vượn, khỏe mạnh như con gấu, con hùm” để chinh phục núi rừng săn bắt thú, giỏi việc nương rẫy.
Người được mời tham gia buổi lễ gồm có ông cậu, già làng và bà mụ (bà đỡ), mẹ con mới sinh và bà con bên nội bên ngoại của em bé để làm chứng. Thường bố vợ là người đứng ra làm lễ cúng Yàng. Ông mặc áo, khố truyền thống, đầu đội khăn choàng, tay cầm một chiếc roi làm bằng mây rừng và lục lạc. Ngồi cạnh ông là người mẹ bế con và bà đỡ.
Trong lễ cúng, trước khi hiến sinh, người chủ cúng hai tay ôm con gà đưa lên ngang tầm mắt hướng thẳng lên bàn thờ và bắt đầu cầu khấn thần linh phù hộ cho đứa trẻ. Tất cả những người trong gia đình và họ hàng nội ngoại có mặt đều chắp tay và cầu nguyện cho đứa trẻ.
Ngay sau khi khấn xong, con gà được cắt tiết cho vào chén, còn lưỡi gà được moi ra, người cúng vừa khấn đọc tên đứa trẻ vừa cầm lưỡi gà nhúng vào rượu cần chọi lên bàn thờ từ 1 đến 3 lần cho đến khi lưỡi gà dính vào bàn thờ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc tên của đứa trẻ cũng đã được thần linh chấp nhận. Sau đó, người ta lấy máu gà trong chén chấm lên trán đứa trẻ xin thần linh ban cho nó luôn mạnh khỏe và tới đây nghi lễ cũng được kết thúc.
Người Cơ Ho theo chế độ mẫu hệ nên con cái thường được đặt theo họ mẹ. Họ thường chọn tên của những người giỏi giang có tiếng tăm trong dòng họ, buôn làng để đặt tên cho con cháu. Họ cũng kiêng không lấy tên các thần linh để đặt cho con vì họ tin rằng những tên này sẽ mang đến tai họa, điềm dữ cho đứa trẻ trong suốt cuộc đời.
Lễ đặt tên cho con là một phong tục truyền thống độc đáo của người Cơ Ho nói riêng và một số tộc người sống ở vùng Tây Nguyên nói chung. Đây cũng là một trong những giá trị văn hóa truyền thống cần được bảo tồn và phát huy.

Nhà sàn của người K’Ho (Lâm Đồng).

Nhà sàn – Kiến trúc độc đáo của người K’Ho, Lâm Đồng
Ngày nay những mô hình nhà sàn cao đã có nhiều chuyển biến sang nhà sàn thấp, đến nhà trệt và mái làm bằng tôn rất là phổ biến trong buôn làng của người Cơ Ho (Lâm Đồng).
Dân tộc Cơ Ho là một trong 3 dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng. Họ sống chủ chủ yếu bằng canh tác lúa nước ở những thung lũng sâu, có lối sống tín ngưỡng thờ đa thần giáo như thần sông, thần núi, thần cây…
Trước đây, nhà sàn truyền thống, cổ xưa nhất của người Cơ Ho được làm từ các loại vật liệu: tre, nứa, lá. Cột và các thanh gác sàn bằng gỗ tròn, vách và cửa làm bằng phên. Sàn gác một lớp cây lồ ô để tròn, bên trên trải lồ ô đập giập, mái lợp lá mây hoặc cỏ tranh kết tấm.
Đến giai đoạn cận đại người Cơ Ho đã sớm chuyển từ nhà sàn bằng phên, tre, lá sang kiểu nhà sàn ván. Nhà sàn của người Cơ Ho ở giai đoạn này vẫn sử dụng chủ yếu các vật liệu bằng loại gỗ tròn bóc vỏ (để làm cột, lan can, cầu thang), ván vách được làm bằng gỗ xẻ chưa có sự bào chuốt, mái vẫn lợp bằng lá mây kết tấm. Nó khác nhiều so với nhà sàn hiện đại của người Cơ Ho mà hiện nay vào các buôn làng chúng ta vẫn còn bắt gặp. Nhà sàn hiện đại thì cột chủ yếu được làm bằng gỗ xẻ: Cột vuông, vì kèo, lan can, cầu thang cũng được làm bằng gỗ xẻ có góc cạnh, ván thưng buồng đã được bào chuốt và đặc biệt mái nhà đã được lợp tôn thay cho lá mây hoặc cỏ tranh.
Bước vào nhà của người Cơ Ho sẽ thấy sát bên vách phải nhà là buồng bố mẹ, bên vách trái là buồng con gái. Phần không gian ở giữa nhà là nơi bài trí chính. Chính giữa nhà (sát vách trong) là bàn thờ để cúng Giàng. Sát vách dưới bàn thờ là một giàn chóe tròn và cồng chiêng. Bên dưới sàn để một hàng chóe lớn. Tiếp theo là bộ Nhồng Ôi và Jroong Klừng. Hai vật này được làm trong dịp cúng lúa mới và lễ ăn trâu. Cây nêu rượu cần được đặt ở giữa nhà cạnh bếp tiếp khách. Cây nêu được làm và trang trí rất công phu. Màu đen họ dùng than củi, màu đỏ họ dùng máu trâu bôi vào để mời gọi thần linh. Trên cây nêu trang trí hình chiêng, hình cối giã gạo, hình chim, chân cây nêu trang trí hình mặt người.

Không gian phòng tiếp khách trong ngôi nhà Sàn của người K’Ho.

Buồng cha mẹ thường được bài trí khá đơn giản. Trước đây họ chỉ trải chiếu nằm trên sàn, thường chiếu được trải nằm xong lại cuộn tròn gác treo bên vách. Tấm đắp, quần áo thì có một giàn lửng bằng lồ ô để gác lên. Ná và ống tên treo trên vách ngay đầu nằm của người đàn ông. Bởi họ cho rằng nếu để ở chỗ khác thì sẽ mất thiêng, không săn được thú rừng.
Người Cơ Ho theo mẫu hệ nên chỉ có con gái mới ở với bố mẹ, sau khi trưởng thành người con gái chọn một chàng trai ưng ý và tổ chức “bắt chồng”: Mang lễ vật sang nhà trai làm đám cưới và đưa chàng trai về nhà ở hẳn cùng bố mẹ mình. Buồng của con gái cũng được bài trí tương tự như buồng của cha mẹ, ngoài ra còn có thêm vài vật dụng như chiếc gùi hoa, gùi có nắp để các đồ dùng riêng tư của cô gái.
Bếp khách thường được đặt ở xế bên trái cửa ra vào gần với cây nêu rượu cần, nó được dùng để sưởi ấm cho khách và cả nhà. Bếp khách cũng là không gian để tiếp khách, sinh hoạt hội tụ những người trong gia đình sau một ngày lao động mệt nhọc. Bếp nấu ăn thường được bố trí lùi sâu vào phía bên phải hoặc bên trái nhà cách xa không gian thiêng. Bên trên có giàn bếp bằng tre để hong thịt, thức ăn, hạt giống và các vật dụng cần hun khói như gùi, rổ, rá, cán xà gạt… Khi còn sinh hoạt chung trong nhà dài thì người Cơ Ho đặt cả bếp khách lẫn bếp nấu chung trong nhà ở nhưng khi tiến lên nhà sàn ván với từng gia đình riêng lẻ thì bếp nấu đã được chuyển ra nhà bếp ở bên hông nhà lớn.
Hiện nay trong các buôn làng của đồng bào dân tộc bản địa ở Lâm Đồng nói chung và người Cơ Ho nói riêng, những ngôi nhà sàn truyền thống không còn nhiều. Đặc biệt cách bài trí bên trong cũng đã thay đổi cùng với những vật dụng mới do ảnh hưởng của sự giao lưu văn hóa và sự du nhập của các tôn giáo. Vì vậy, chính quyền địa phương cần sớm có những giải pháp cụ thể, thích hợp để bảo tồn những giá trị văn hóa đặc trưng của dân tộc trong thời hiện đại để vừa có thể gìn giữ được bản sắc.

Sơn nữ K’Ho, Kră Jăn Loen, trong một kỳ thi Hoa Hậu Dân Tộc.

Đặc sắc trang phục dân tộc Cơ Ho
Trải qua rất nhiều biến thiên của lịch sử, bộ trang phục truyền thống của dân tộc Cơ Ho vẫn còn bảo lưu được nhiều sắc thái văn hóa truyền thống…
Người Cơ Ho ngày xưa ăn mặc rất đơn giản: tất cả đều cởi trần, đàn ông đóng khố, phụ nữ mặc váy ngắn. Khi vải còn khó tìm, họ đã dùng vỏ cây rừng ngâm cho hết nhựa, gấp đôi lại khoét cổ và ống tay khâu lại bằng dây mây để làm áo chống rét.


Người đàn ông đóng một chiếc khố dài từ 1,5 đến 2m, rộng và có hoa văn theo dải dọc, quấn vòng quanh bụng, luồn qua háng, để cho hai đầu khố qua phía trước và phía sau mông. Trong khi đó, phụ nữ thì mặc váy hở quấn quanh người một vòng và dắt cạp. Váy của họ thường màu đen bố cục hình dải màu trắng viền dọc tấm vải. Nếu thời tiết lạnh, họ khoác thêm chăn (ùi) ra ngoài.
Trong các buổi lễ cúng bái, người Cơ Ho thường diện trang sức là chuỗi cườm đeo ở cổ. Riêng thiếu nữ chưa chồng thêm vòng đồng đeo ở cổ tay cổ chân đến 25 chiếc, đến khi lấy chồng thì tháo bớt ra. Đàn ông khi đã có vợ vòng đồng thường xuyên đeo ở cổ tay. Ngoài ra, người Cơ Ho cổ còn cà răng căng tai, nhuộm răng.

Trang phục truyền thống phụ nữ K’Ho.

Theo tục truyền thống, các cô gái Cơ Ho phải biết dệt vải từ khi còn nhỏ để đến tuổi trưởng thành thì đem sản phẩm dệt của mình làm đồ sính lễ sang nhà trai. Tuy nhiên, nghề dệt vải nơi đây chỉ dừng lại ở mức không chuyên và chỉ làm trong thời gian rảnh rỗi.
Nguyên liệu dệt vải chủ yếu là sợi bông do đồng bào tự trồng, các loại cây phụ liệu được lấy từ núi rừng, ruộng rẫy. Màu nhuộm vải được bà con lấy từ các loại củ, quả, lá cây trong rừng như: Củ nghệ chế ra màu vàng, hạt quả cari còn gọi là quả nho để chế màu cam, vỏ và thân cây lốt tạo màu đỏ, lá cây drửm tạo màu xanh đậm, xanh dương, còn màu đỏ thì lấy từ loại cỏ họ dền, phơi khô, nấu, lọc rồi nhúng sợi vào.

Sơn nữ K’Ho.

Để màu nhuộm được bền, bao giờ trong dung dịch nước nhuộm sợi, bà con cùng hòa thêm bột vỏ sò và tro củ chuối. Khi dệt, người phụ nữ ngồi duỗi thẳng chân trên sàn, hai chân đạp và giữ chặt một thanh chủ của khung dệt (gọi là đưng- pong) và một thanh chủ khác được dùng dây móc vào lưng người dệt để cố định và kéo căng khung sợi. Các thanh khác tùy theo chức năng của chúng mà luồn rất khéo vào giữa giàn sợi…
Trên những tấm vải thổ cẩm của dân tộc Cơ Ho, nét độc đáo nhất chính là những họa tiết, hoa văn sinh động được người dệt gửi gắm bằng tất cả tâm hồn, tình cảm cũng như sự cảm nhận về thế giới tự nhiên, con người của mình.
Đó có thể là các loại hoa văn hình kỷ hà, người, các loài muông thú và các vật dụng quen thuộc, gần gũi trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của bà con như: cầu thang nhà sàn, cổ nỏ, tua cây nêu, cán xà gạt, con thuyền, mắt chim công, đường ranh, lá đùng đình, cây chông, vầng trăng, con bọ chè, cườm chim cu…

Dân tộc K’Ho thời Pháp thuộc.

Gạn tìm ngọc quý

Một bản làng dân tộc K’Ho.


Lễ cúng gọi thần Lửa được tổ chức với những nghi thức đặc biệt thiêng liêng…

Sơn nữ K’Ho, Kră Jăn Loen.

Hải Ninh (sưu tầm)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét