Dưới chân núi Pa Thơm hùng vĩ, nơi biên
giới giáp với nước Lào là vùng đất cư trú của dân tộc Khơ Mú. Ở đây, họ vẫn
giữ được những phong tục truyền thống của tổ tiên từ ngàn đời truyền lại, trong
đó có việc đặt họ mang tên loài vật. Từ đó có những quy định rất ngặt nghèo khi
tiếp xúc với vật tổ.
Kỳ lạ phong tục đặt họ theo tên loài vật
Đến với bản Pa Xa Xá (xã Pa Thơm, huyện Điện Biên) khi
cái nắng Tây Trang thổi hắt vào từng mảnh đất, những mái nhà sàn ấm áp đã che
trở cho hàng chục hộ dân Khơ Mú. Ở đây, tôi đã được nghe nhiều câu chuyện huyền
bí về việc đặt họ của người Khơ Mú.
Người Khơ Mú quy định rất chặt chẽ việc tiếp xúc với vật
tổ. Khi thấy vật tổ, họ thường kính trọng mà lùi ra xa. Cho đến ngày nay, người
Khơ Mú vẫn sống bằng nghề săn bắn nhưng không bao giờ họ được phép bắn loài vật
tổ của mình. Khi thấy vật tổ qua đời, họ còn phải tổ chức mai táng rất chu đáo.
Đặc biệt, người Khơ Mú kiêng không bao giờ được ăn thịt vật tổ. Việc này quy định
ngặt nghèo đến nỗi nếu khách nào không biết vừa ăn phải vật tổ của họ khi rửa
tay ở chum nước họ cũng phải đổ cả chum đó đi, cúng bái cẩn thận rồi mới tiếp tục
dùng nước. Ngoài ra, mỗi họ lại có cách thờ riêng của mình mà chỉ trong họ
của nhau mới biết.
Những mái nhà bình yên dưới chân núi Pa
Thơm
Việc đặt họ của người Khơ Mú là một phong tục rất độc
đáo. Họ người Khơ Mú nguyên gốc thường theo tên các thú rừng, cây cối, chim, vật
vô tri…như nhóm tên thú (Rvai (hổ), Tmoong (Chồn, Cầy) ,Tiác ( Hươu, Nai);Ho
Hoa (khỉ); Oivê (Rái cá); Mar (Rắn); Kưmbur (Tê tê), Thràng (Phượng hoàng
đất)…đây là dấu vết tô tem (thờ vật tổ) còn xót lại trong xã hội cổ xưa của người
Khơ Mú. Mỗi dòng họ có nghi thức riêng để thờ cúng. Hình thức thờ cúng thường
được dấu kín, không tiết lộ cho người ngoài. Gia đình phải bắt chước 1 số động
tác của tô tem, việc này nhằm xác định mình mang họ hổ, chim hay chồn… dấu vết
của tô tem giáo còn thể hiện trong việc khi cúng bái, kiêng cữ. Việc không giết
và ăn tô tem ngay cả ngày thường. trong quan niệm của niệm của người Khơ Mú,
khi chết họ sẽ hóa kiếp trở lại thành vật tô tem của mình.
Huyền bí “vũ điệu chọc lỗ”
Bên cạnh việc đặt họ theo vật tổ, người Khơ Mú còn có nhiều
phong tục kỳ lạ khác. Bên bếp lửa bập bùng của người dân tộc thiểu số, tôi được
nghe cách chế biến món kính coong. Phải nói thật, tôi là một người đi không ít
vùng DTTS nhưng nghe về món kính coong bản thân tôi cũng phải giật mình. Hiểu
theo tiếng Khơ Mú, thì Coong có nghĩa là tổng hợp của hầu hết các loại rau củ
quả, ớt, hành tỏi, cà rừng, mắc khén… nấu với thịt thối. Kính có nghĩa là một
loại canh thập cẩm. Nôm na, Kính Coong theo cách hiểu của ngôn ngữ phổ thông có
nghĩa là canh thịt thối. Đây là món đặc sản không thể thiếu của người Khơ Mú
trong những dịp cưới xin, lễ tết.
Người dân Khơ Mú đang giới thiệu món
Kính Coong
Để có thể tạo được miếng thịt có mùi đặc trưng, người Khơ
Mú treo thịt lên gác bếp hàng tuần, rồi hàng ngày vẩy nước để tạo độ ẩm, thu
hút ruồi nhặng bay đến đậu vào làm tổ, mang theo cả vi sinh vật. Sau đó để nấu
được món Kính Coong, người ta phải đổ nước hầm nát nhừ, rồi cho các loại rau củ
quả, thêm một ít bột gạo cho sóng sánh.
Tiếp tục về câu chuyện của người Khơ Mú, tôi được nghe về
một vũ điệu phồn thực có một không hai nơi đây, đó là “vũ điệu chọc lỗ” giữa
núi rừng. Mỗi độ xuân về, người Khơ mú đều tổ chức vũ điệu chọc lỗ tra hạt với
chiếc gậy độc đáo gắn với nhạc cụ thể hiện tưng bừng rộn rã như sự giao hòa âm
dương, thức dậy những khát vọng về một cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Chiếc gậy chọc lỗ tra hạt này làm bằng gỗ cứng, dài từ
1,8m đến 2m, đẽo nhọn ở đầu, có khi còn được bịt sắt. Gậy này có ba phần: phần
đầu bằng gỗ cứng, phần thân thường bằng tre và phần cuối được gắn với các
nhạc cụ được chế tác đơn giản, gồm những ống tre, nứa nhỏ cho những viên sỏi
vào trong. Khi chọc lỗ, âm thanh dội lên ở phần thân bằng tre như một hộp cộng
hưởng. Những viên sỏi va đập vào ống tre, nứa tạo nên những âm thanh trầm, bổng
tươi vui, rộn rã giữa non ngàn.
Những người dân nơi đây rất thân thiện
Người Khơ Mú làm nương theo lối đổi công, có thể là một
nhóm, có khi cả bản cùng làm. Đàn ông khỏe mạnh dàn hàng ngang đi trước, vừa
nhún nhẩy, vừa vung gậy chọc lỗ tra hạt, những âm thanh như đánh thức đất trời,
khích lệ những người tham gia lao động. Các cô gái theo sau nhịp nhàng vung tay
gieo những hạt lúa giống vào lỗ, chân gạt nhẹ lấp đất. Tất cả đều nhịp nhàng uyển
chuyển, hài hòa trong khúc dân ca của chính người Khơ Mú: “Mưa rơi cho cây tốt
tươi/Búp chen lá trên cành/ Trên nương hương thơm nếp vàng/ Măng cười hé lên
cùng/Ngạt ngào hương thơm bay theo gió/Những chim nướng cùng nếp thơm/Nhìn mà
no!”.Tiếng cười vang xa mấy cánh rừng, bao nỗi mệt nhọc tan biến. Sau mỗi mùa vụ,
nhiều đôi thanh niên nam nữ nên vợ nên chồng.
Huy Thục (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét