Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc
để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung
chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị
nghi ngờ và xóa bỏ. (tháng 1 2015)
Văn phong hay cách dùng từ trong bài này
hoặc đoạn này không phù hợp với văn phong bách khoa.
Xin giúp Wikipedia bằng cách sửa đổi lại
cho phù hợp. Để biết thêm chi tiết, xem ở trang thảo luận bài. (tháng 1 2015)
Truyền thuyết là tên gọi dùng để chỉ một
nhóm những sáng tác dân gian truyền miệng nhằm lý giải một số hiện tượng tự
nhiên, sự kiện lịch sử. Đặc điểm chung của chúng thể hiện các yếu tố kỳ diệu,
huyễn tưởng, nhưng lại được cảm nhận là xác thực, diễn ra ở ranh giới giữa thời
gian lịch sử và thời gian thần thoại, hoặc diễn ra ở thời gian lịch sử.
1 - Đặc điểm, sự phân lập thể loại
2 - Một số nhóm truyền thuyết
Đặc điểm, sự phân lập thể loại
Tại những truyền thống văn hóa khác nhau về
loại hình, khái niệm truyền thuyết có thể được mô tả những hiện tượng không
hoàn toàn giống nhau, và liên hệ một cách khác nhau với các thể loại dân gian
khác, kể cả thần thoại.
Trong văn hóa châu Âu, thường người ta
chia hai loại: legend và trandition, tuy cùng mang ngữ nghĩa là lời truyền tụng,
lời tục truyền, truyền thuyết. Legend thiên về phía gắn với các nhân vật của lịch
sử linh thiêng như các thánh của Kitô giáo hoặc Hồi giáo. Trandition gắn với
các nhân vật trần thế và không buộc phải có yếu tố thần kỳ. Tuy vậy, sự phân
chia này chỉ phù hợp với những truyền thống trong đó tôn giáo thống trị đã cải
biến các hệ thống thần thoại có sớm hơn (chỉ xảy ra tại các nền văn hóa Kitô
giáo và Hồi giáo), và rất khó thực hiện với các truyền thống trong đó tôn giáo
mang tính thế giới (như Phật giáo) vốn không bác bỏ các hệ thống thần thoại có
sớm hơn. Bên cạnh đó, sự phân chia này chỉ cũng khó làm đối với những hệ thần
thoại đa thần chưa trải qua biến đổi căn bản nào hoặc những truyền thống trong
đó lịch sử linh thiêng không phân lập với thế tục.
Trên một vài dấu hiệu khác biệt có thể rất
nhỏ, sự phân lập truyền thuyết với các thể loại khác cũng có căn cứ nhất định.
Truyền thuyết chung với thần thoại ở dấu hiệu về niềm tin và sự hiện diện của yếu
tố thần kỳ. Truyền thuyết cũng phân biệt với thần thoại có thể ở phương diện sở
hữu ngôn bản của bộ lạc hoặc toàn dòng họ. Thần thoại kể về nguồn gốc cõi đời
và cõi người thì bất cứ một thành viên nào trong bộ lạc cũng có quyền kể lại;
còn những truyền ngôn về các biến cố mở đầu dòng họ thì có thể thuộc sở hữu của
các thành viên dòng họ. Bên cạnh đó, ở các nền văn hóa chưa có sự biến động về
hệ thống tôn giáo, truyền thuyết có thể phân lập với thần thoại về quy chế, việc
có hay không có liên hệ với sự thờ phụng, về nhân vật truyền thuyết v.v. Về tổng
thể, so với thần thoại thì truyền thuyết kém linh thiêng hơn và thường mô tả những
sự kiện xảy ra muộn hơn. Sự lệ thuộc về nguồn gốc (biến sinh) của truyền thuyết
với thần thoại có thể được xác định, tuy không phải thần thoại là nguồn cốt
truyện duy nhất của truyền thuyết. Truyền thuyết nằm ở ranh giới giữa thần thoại
và các ghi chép mô tả lịch sử.
Một số nhóm truyền thuyết[sửa | sửa mã nguồn]
Truyền thuyết liên quan đến Kitô giáo hoặc
ít nhiều tái hiện các cốt truyện của thời tiền Kitô giáo, là một trong những
phương tiện tái mã hóa các biểu tượng Kitô giáo trong các tượng trưng Kitô
giáo[1]. Chẳng hạn hạnh các thánh (hagiographie) thực chất là những văn bản kém
thiêng hơn so với lời thiêng, được phép hòa trộn với các môtip phi Kitô giáo, kể
cả việc biến đổi các thánh thành một kiểu tương tự như trong điện thờ đa thần
giáo. Hạnh các thánh tương tự như mọi loại truyền thuyết, trong khi hướng tới
các thể loại lịch sử, đã đồng thời ứng với ngày kỷ niệm các thánh tính theo lịch.
Từ đó cho phép gắn hai chu trình ngày lễ trong năm (gồm chu kỳ Kitô giáo và chu
kỳ đa thần giáo) thành một chu kỳ thời gian nghi lễ.
Truyền thuyết Kitô giáo còn có một nhóm
riêng trong đó không chỉ có những nhân vật của Cựu ước mà còn có cả thần và quỷ.
Nhóm truyền thuyết này đã bổ sung tính lịch sử cho hệ thần thoại Kitô giáo bằng
những yếu tố thần thoại tiền Thiên Chúa. Các hành động trong loại truyền thuyết
này cũng được chuyển vào cái thời gian, mà đối với Kitô giáo nó thực hiện chức
năng thời gian thần thoại (tức thời gian của Cựu ước và Phúc âm), thậm chí xâm nhập
cả vào thời gian Kinh thánh (thời giai lịch sử linh thiêng), và vào cả thời
gian thần thoại đích thực kể về cuộc đấu tranh của những người khổng lồ, lịch sử
sáng thế v.v.
Bên cạnh các truyền thuyết với hành động
diễn ra trong thời gian lịch sử hoặc thời gian tôn giáo, châu Âu còn biết đến
loại hình truyền thuyết diễn ra trong thời gian trừu tượng, bất định, tương tự
thời gian của truyện ngụ ngôn hoặc truyện cổ tích. Đó là kiểu truyền thuyết mô
tả quan hệ giữa các thánh với con người. Một số tiết đoạn của thể loại truyền
thuyết này có thể được chuyển hóa thành cổ tích.
Cũng cần kể đến các truyền thuyết về những
cư dân tiền bối tại các địa phương mang cùng một truyền thống văn hóa. Các truyền
thuyết này thường miêu tả những sinh thể khác con người, đồng thời gắn với ranh
giới giữa tiền lịch sử và lịch sử. Về phương diện nào đó, loại truyền thuyết
này tương đồng về loại hình với các truyền thuyết kể về khởi thủy dòng họ hoặc
bộ lạc.
Một số truyền thuyết khác, vượt qua ranh
giới nói trên và đặt thời gian lịch sử vào tộc người, thể hiện chức năng của
các thể loại lịch sử hoặc giả lịch sử. Các truyền thuyết này tiếp cận ở mức độ
đáng kể thời gian của cộng đồng cư dân mang truyền thống văn hóa ấy thậm chí vượt
quá thời gian này, kéo dài thời gian lịch sử thành thời gian thần thoại.
Bên cạnh đó còn có loại thể truyền thuyết
miêu tả những xứ sở và xã hội không tưởng, thể hiện sự tương quan không chỉ với
lịch sử mà còn với tình thế xã hội cụ thể. Những truyền thuyết này miêu tả các
bức tranh không tưởng về tương lai và những nhân vật không bị linh thiêng hóa,
họ thực hiện chức năng khôi phục lẽ phải đã bị phá bỏ, xác lập một phúc lợi
không tưởng (tức cái vốn là chức năng của nhân vật văn hóa đương thời được
"dịch" ra thành ngôn ngữ của các quan hệ xã hội muộn hơn).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét