Người
Thái ở Tây Bắc từ đâu tới, cho đến nay vẫn chưa có ý kiến thống nhất. Phần lớn
ý kiến đều cho rằng, họ thiên di từ phía Bắc (Trung Quốc) vào Việt Nam bằng nhiều
con đường với những thời gian khác nhau. Nhưng, qua nhiều cứ liệu thu thập
trong dân gian các nơi có người Thái cư trú hiện nay thì hầu hết các nơi đó đều
rất ít biết hoặc biết rất mơ hồ về sự thiên di của tổ tiên họ mà nhiều người đều
cho rằng nghe người xưa nói như thế.
Để hiểu biết thêm quá trình tộc người của
các nhóm Thái đang sinh sống ở Tây Bắc Việt Nam, từ đó hiểu thêm về nguồn gốc lịch
sử và sự đóng góp của họ vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung,
vùng Tây Bắc nói riêng. Việc tìm hiểu về quá trình thiên di của họ là cần thiết.
Vấn đề này lâu nay đã được nhiều nhà nghiên cứu về người Thái trong nước và nước
ngoài quan tâm. Tuy những ý kiến đó chưa thống nhất nhưng dù sao cũng là những
tư liệu quý để tham khảo cho vấn đề đặt ra. 1. Những ý kiến của các nhà nghiên
cứu Theo Tiến sĩ Leedom Leffert1 cho rằng quá trình thiên di của người Thái
theo lưu vực sông Mê Kông bắt đầu từ thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên.
Một bộ phận của tổ tiên khối cộng đồng Tày - Thái cổ, bắt nguồn từ nhóm Bách Việt
sinh tụ ở miền Nam sông Dương Tử tách dần khỏi khối cộng đồng cùng tộc của
mình, thiên di theo hướng 1 Leedom Leffert: Người Thái và sông Mê Kông. Tư liệu
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, tr2. Tây - Nam vào miền Nam tỉnh Vân Nam và miền
Tây Đông Dương, trong đó có vùng Tây Bắc Việt Nam. Cùng lúc đó, họ (người Thái)
cũng gặp cuộc thiên di của nhóm tổ tiên các dân tộc thuộc ngữ hệ Môn - Khơme từ
Trung Á và Tây Bắc Trung Quốc tràn về. Vùng phía Nam tỉnh Vân Nam, thượng Miến
Điện, Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam từ thời Đường hay từ đời Tần - Hán là địa
bàn cư trú của tổ tiên người Thái sống xen kẽ với các dân tộc thuộc ngữ hệ Môn
- Khơme và ngôn ngữ Tạng - Miến. Trong khi cư dân ngôn ngữ Tạng - Miến sinh sống
ở vùng Tây và Tây Bắc thì cư dân Thái phân bố ở Nam và Đông Nam Châu Á cùng cộng
cư với cư dân nói tiếng Môn - Khơme. Theo ý kiến trên, lịch sử Thái đã diễn ra
hai cuộc thiên di lớn theo hướng Tây - Nam và Nam vào cuối thế kỉ thứ nhất trước
Công nguyên và những thế kỉ đầu của thiên niên kỉ I, đầu thiên niên kỉ II sau
Công nguyên. Tuy nhiên, quá trình thiên di này đã diễn ra hàng trăm năm vì vấp
phải sự chống trả của những tộc người địa phương khi người Thái tràn đến chiếm
những vùng đất đó để sinh sống. Các đợt thiên di này đã khiến tổ tiên người
Thái va chạm, tiếp xúc và hoà hợp với nhiều tộc người khác nhau trong phạm vi rộng
lớn của Nam Á. Kết quả của cuộc thiên di này là sau Công nguyên, một loạt các
nhà nước Thái được thành lập như Vương quốc Thái Lan (thế kỉ XIII), Vương quốc
Lào (thế kỉ XIV). Địa vực các vương quốc này kéo dài từ thượng lưu một số con
sông lớn trong vùng, trong đó có sông Mê Kông tới những miền giáp giới của tỉnh
Vân Nam (Trung Quốc), Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam. Những nhà nước này nối
thành một dải liền với khu vực có người đồng tộc của họ đang sinh sống ở vùng
Lưỡng Quảng, Quý Châu, Hồ Nam (Trung Quốc) và vùng Tây Bắc Việt Nam. Trong thực
tế, địa bàn phân bố của các nhóm Thái này được xác định cụ thể hơn ở thời cổ đại
với 5 vùng như: Xíp xong Bản na (Trung Quốc), Chiềng Tung (Myanmar), Lạn Na
(Thái Lan), Lạn Xạng (Lào) và Xíp bốc châu tay (Mười sáu châu Thái Việt Nam).
Các vùng này có mối quan hệ khá gần gũi nhau, ít nhiều có sự ảnh hưởng lẫn nhau
về nhiều mặt. Nhưng, qua đó cũng thấy rõ một điều là các nhóm Thái ở Tây Bắc Việt
Nam cũng đã xuất hiện ở đây từ đầu Công nguyên và rất có thể còn sớm hơn nữa.
Điều đó hoàn toàn phù hợp với những nguồn tư liệu mà chúng tôi đang có trong
tay hiện nay (xem thêm bài: Sự đóng góp của cư dân Tày - Thái cổ vào sự hình
thành và phát triển văn minh Đông Sơn, in trong Kỷ yếu này). Bên cạnh ý kiến
khái quát của Tiến sĩ Leedom Leffert trên đây cũng còn nhiều ý kiến khác về sự
thiên di của người Thái vào Việt Nam. Trong đó, tiêu biểu là ý kiến căn cứ vào
hai cuốn sử thi Thái Đen Quam tố mương (Truyện kể bản mường) và Tãy phú xớc
(theo đường ông cha chinh chiến). Theo tư liệu của hai cuốn sử thi này thì người
Thái vào Việt Nam khá muộn (sớm nhất là vào thế kỉ XI và muộn nhất là thế kỉ
XIII). Nếu nguồn tư liệu này đúng sự thật thì đó chỉ là cuộc thiên di của bộ phận
Thái Đen chứ không phải là toàn bộ các nhóm Thái có mặt ở Việt Nam hiện nay. Bởi
vì khi người Thái Đen đÕn cư trú ở Mường Lò (Nghĩa Lộ) thì ở Mường Tấc đã có
người Thái Trắng rồi. Theo truyền thuyết Khoai ọk chạng đỏn (Trâu đẻ voi trắng)
khá phổ biến ở vùng Mường Tấc. Thuở đó, tạo Mường Tấc lấy vợ người Kinh ở dưới
xuôi (người vợ đó lại là công chúa vua người Kinh). Hai vợ chồng sinh được một
đứa con trai khá kháu khỉnh, thông minh. Một lần, đứa bé được mẹ cho về xuôi
thăm ông ngoại, khi gặp ông ngoại, đứa bé khoe rằng nhà nó vừa có con trâu đẻ
ra voi trắng. Nghe vậy, ông vua người Kinh rất ngạc nhiên và đoán rằng sự lạ
này báo hiệu con rể sắp làm phản. Vì vậy, ông vua này đã đem quân lên trấn áp
trước để tránh hậu hoạ về sau. Trận chiến này kéo dài mấy chục năm rồi nhà vua
thần phục được đội quân của con rể bằng một trận huyết chiến trên cầu dây mây bắc
từ dãy núi phía Đông (thuộc địa bàn bản Cù - Huy Tân hiện nay) sang Pú Chạng
(núi voi) ở phía Tây (thuộc bản Nà Xá, xã Quang Huy). Cho đến nay, trên Pú Chạng
(Quang Huy) và núi bản Cù (Huy Tân) còn nhiều tầng đá xếp chồng lên nhau như lô
cốt cố thủ (phế tích của đồn bốt xưa kia). Cho đến nay, Pú Chạng thuộc xã Quang
Huy vẫn được nhiều người nhất là các cụ già gọi là Pu Đôn (núi đồn).
Người Thái
Yên Châu cũng có một truyền thuyết kể về đôi Khau cút gắn trên hai đầu hồi mái
nhà của họ. Tương truyền rằng, xưa kia có một cô gái nhà giàu người Kinh lên lấy
chồng ở đây. Vì bản chàng rể đông đúc và dựng san sát nhau (cách thức lập bản
truyền thống của người Thái) mỗi khi lên thăm con gái và con rể, ông bố vợ đều
bị nhầm nhà. Vì thế, ông đã nghĩ ra cách đánh dấu nhà chàng rể của mình bằng việc
cho đúc hai đôi Khau cút bằng bạc trắng gắn trên đầu hồi nhà, để từ xa đã có thể
nhận ra nhà của con gái, con rể mình. Từ đó người Thái ở đây có tục gắn Khau
cút lên đầu hồi mái nhà sàn của mình cho đến ngày nay. Qua các câu chuyện trên,
cho dù chỉ còn trong tiềm thức của nhân dân nơi đây nhưng đã phản ánh một điều:
người Thái ở những địa phương này đã có quan hệ hôn nhân với người Kinh từ lâu
đời. Như vậy, sự có mặt của các nhóm Thái cổ trên vùng Tây Bắc trước khi Lạng
Chượng kéo quân lên chiếm đất lập mường là điều có thể tin được. Các nhóm Thái
cổ đó phải có thời gian tồn tại lâu dài và có quan hệ thân thiết đến một mức độ
nào đó thì mới tiến tới quan hệ hôn nhân như thế được. Cho dù quan hệ hôn nhân
đó diễn ra vì lí do gì thì hiện tượng này vẫn chứng minh một điều: người Thái cổ
và người Kinh là bạn láng giềng với nhau, sống chết có nhau trong lịch sử từ thời
xa xưa. Chí ít cũng từ khi có các đợt thiên di của ngành Thái Đen Lạng Chượng
lên vùng Tây Bắc. Theo cuốn Quam tô mương (truyện kể bản mường) mà chúng tôi có
trong tay hiện nay (bản chép tay bằng chữ Thái Đen của ông Cầm Hom, bản Ang, xã
Chiềng Ban, huyện Mai Sơn, Sơn La) thì điểm xuất phát của đội quân Lạng Chượng
tiến lên vùng Tây Bắc cũng chỉ bắt đầu từ Mường Lò (huyện Văn Chấn, Yên Bái hiện
nay) chứ không ở đâu tới cả. Ông là con trai thứ 7 của Tạo Lò (tạo Mường Lò). Tạo
Lò là con trai Tạo Xuông, người đã có công xây dựng Mường Lò và Tạo Xuông đã
giao Mường Lò cho Tạo Lò cai quản. Việc hai anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần từ Mường
Ôm, Mường Ai xuống Mường Lò có truyền thuyết là: Then đã cho hai Tạo đem một quả
bầu và một cột đồng chống trời xuống dựng Mượng Lò. Lâu nay, vẫn có một số người
cho rằng “ngoài cõi trời” tức ngoài cõi biên cương Trung Quốc lµ không đúng.
Văn bản chữ Thái của cuốn sách này ghi rõ ràng: mương Lo nọk phạ (là Mường Lò ở
ngoài cõi mường Trời - mường của ông Then thống trị, cai quản chứ không phải một
Mường Người cụ thể nào đó). Trước khi có tạo Xuông,
Tạo Ngần xuống Mường Lò thì
Quam Tô Mương có đoạn truyền thuyết như sau: Cõ pên đin pên nhạ Cõ pên nhạ to
luông hết Cõ pên đin chết tọn Cõ pên hin xam xau Cõ pên nặm cảu qué Cõ pên Pák
Té - Tao Nham nặn, Then chắng hợ chết pú chạu xa công Lống má téng phen đin mướng
Lum, Mí chu ăn chu dương Then chắng hợ chét pũ má téng mướng Lum Pên- bản pên
mướng,... dịch: (Khởi nguồn nên đất nên cỏ Khởi nguồn nên trời bằng cái nấm, Khởi
nguồn nên đất bẩy miền Khởi nguồn nên núi ba hòn Khởi nguồn nên nước chín dòng
Khởi nguồn nên cửa Đà - Thao(*) Thủa ấy, Then mới cho bảy ông Xa Công xuống xây
dựng mảnh đất trần gian Có đủ thứ đủ giống, Có đủ con đủ loài Then mới cho bảy
ông đến xây dựng Trần gian nên bản nên mường). Như vậy, nếu căn cứ vào đoạn văn
trên thì chính ông cha của Lạng chượng cũng được sinh ra và lớn lên tại Mường
Lò (Yên Bái). Nói khác đi, nhóm Thái Lạng Chượng cũng thuộc vào lớp cư dân Thái
cổ - Thái bản địa ở Việt Nam. Sau đó do dân số phát triển, mảnh đất Mường Lò
này không còn đủ chỗ cho mị người nên họ phải di chuyển lên vùng Tây Bắc (Sơn
La, Lai Châu, Điện Biên...) để tìm đất sinh sống. Cuộc di chuyển này thực ra
cũng không phải là cuộc chinh phạt như cuốn Tãy Pú Xớc đã miêu tả và như nhiều
người đã quan niệm. Tuy trong quá trình di chuyển này họ đã phải va chạm với
các nhóm dân bản địa ở chỗ này, chỗ khác (đó là điều đương nhiên), nhưng những
cuộc đụng độ đó chưa thể coi là giặc “xớc” mà chỉ đơn giản là các cuộc tranh
giành đất đai sinh sống. Khi đọc kĩ nguyên bản Quam tô mương trên đây, chúng
tôi càng nhận thấy ý kiến nhận xét trên là có cơ sở thực tế. Ví dụ, khi Lạng
Chượng rời khỏi Mường Lò tiến lên vùng Tây Bắc sâu hơn có đi qua Mường Chiến
(Ngọc Chiến, Mường La), tạo Mường Chiến đã gả con gái cho Lạng Chượng làm vợ. Rồi
Lạng Chượng đến Mường Trai (một địa danh khác của huyện Mường La) thì Tạo Mường
Trai cũng đã đem trâu đến nộp. Khi ông đến vùng Xá Xăm Cằm (Xá Trai - người Mảng)
thì nhân dân ở đây cũng đem lương thực, trâu bò đến nộp, đến đón... Xét kü thì
cuộc di dân này diễn ra trong hoà bình chứ không phải là cuộc chinh phạt đẫm
máu như một số người nghĩ. Hơn nữa, qua các cứ liệu trên làm rõ thêm sự có mặt
từ rất sớm của các nhóm Thái cổ ở vùng Tây Bắc như Mường Tấc (Phù Yên), Mường
Chiến, Mường Trai và các vùng Mường Thanh (Điện Biên), Mường Lay (Lai Châu)...
khi tiến sâu lên vùng Tây Bắc, đoàn quân của Lạng Chượng đều đã gặp họ ở những
địa phương đó. Hầu hết các nhóm Thái cổ trên đây khi đưa hồn ma về mường Trời với
tổ tiên họ đều xuôi theo sông Đà hay xuôi theo sông Thao về bến Bạch Hạc - cửa
biển của thời biển tiến Flandri. Theo tôi, cửa biển thời đó đã đi vào tâm thức
của người Thái ở Việt Nam để rồi trở thành bến sông ngăn cách giữa mường người
và mường ma trên trời (các nhóm Thái ở ngoài lãnh thổ Việt Nam không có khái niệm
bến sông Nặm ta khải hay Nặm ta cải này. Để giải thích tên gọi Nặm Tao (sông
Thao), nhiều cụ già Tày, Thái đều cho rằng, trên con sông này thời xa xưa tổ
tiên họ đã từng sinh sống. Cùng với các cuộc biển tiến hoặc biển lùi, lớp cư
dân này đã từng ngược lên , xuôi xuống, quay đi, quay lại nhiều lần. Trong tiếng
Thái từ tao có nghĩa là quay lại tao má hay quay đi tao pay trong thuật ngữ tao
pay, tao má (quay đi, quay lại). Điều đó càng khẳng định thêm nhận xét của Giáo
sư Hà Văn Tấn cho rằng cùng các cư dân đã từng sinh sống xung quanh vịnh Hà Nội
trước khi nước biển rút đi cách ngày nay khoảng 4.000 năm có các nhóm Thái2. Điều
đó đã được phản ánh khá rõ ràng và khá sinh động trong các truyền thuyết kể về
sự kiện này ở nhiều nhóm Tày, Thái trên đất nước chúng ta. Người Tày Hà Giang
khi nói về cội nguồn của mình cũng có câu: Pú dú nặm Te, Tai ta pú nặm Tao (ông
nội ở sông Đà, ông ngoại ở sông Thao) chứng tỏ những nhóm Tày Hà Giang cũng từ
sông Đà, sông Thao di chuyển lên. 2. Những truyền thuyết phản ánh các đợt di cư
của người Thái từ lưu vực sông Thao lên vùng Tây Bắc. Có một điều khá lí thú
khi đi sâu tìm hiểu nghiên cứu về các nhóm Thái cổ ở nước ta là tuy hầu hết các
nhóm đó đều ở miền núi nhưng hình ảnh về nước và thuyền bè lại rất đậm nét
trong tiềm thức và tâm linh của họ. Nói khác đi nước và người Thái là đôi bạn
tri kỉ, sống chết có nhau, vui buồn có nhau. Tại sao lại như vậy? Nhiều người
cho rằng, sở dĩ người Thái có quan hệ sâu sắc với nước như vậy là vì loại hình
kinh tế chính trị của người Thái là làm ruộng nước mí nặm chăng pên ná (có nước
mới thành ruộng), điều đó không sai. Nhưng, sâu xa hơn có lẽ không chỉ có vậy
mà có thể liên quan đến vấn đề nguồn gốc tộc người. Vì thế, ở nhiều trường hợp,
nước còn là tín ngưỡng dân gian truyền thống của người Thái. Theo phương pháp
tư duy dân tộc học thì cái gì đã thuộc về thế giới tâm linh, về tín ngưỡng là
những vấn đề liên quan đến cội nguồn. Trong đời sống hàng ngày những biểu hiện
cụ thể có khi không còn rõ ràng, nhưng ở tận một nơi sâu thẳm nào đó trong trí
nhớ, trong tín ngưỡng hễ có dịp chúng lại loé sáng. Đối với người Thái nước
không chỉ 2 Hà Văn Tấn: Văn hoá Phùng Nguyên và nguồn gốc dân tộc Việt. Tạp chí
dân tộc học số 1 - 1975, tr35. tồn tại trong tâm linh mà nó còn là một thực thể
gắn liền với đời sống hàng ngày. Thực thể đó đã tạo nên cuộc sống Thái. Bất cứ
một bản nào của người Thái, dù chỉ một vài nhà hay đông đúc thì ngay cạnh đấy
phải có sông, suối thậm chí chỉ là cái mương, cái lạch nhỏ hay một mỏ nước bỏ nặm...
Thực ra, bất cứ dân tộc nào, người nào sống cũng cần nước. Nhưng, mức độ cần
thiết phải có nguồn nước ở cạnh mình như người Thái thì không phải tộc người
nào cũng cần. Sự cần thiết được sống bên cạnh nguồn nước của người Thái đã vượt
xa nhu cầu về nước trong sinh hoạt hàng ngày và trở thành sức mạnh tâm linh
Thái, nếp sống Thái và bản sắc văn hoá Thái. Vậy, tại sao nước lại có vị trí
quan trọng hàng đầu và sâu sắc như thế trong đời sống Thái? Có thể có nhiều câu
trả lời, nhưng, phải nói trước là sự sống của người Thái, không có nước không
có người Thái. Nói khác đi môi trường đã sinh ra người Thái.
Trong hầu hết các
truyền thuyết hay huyền thoại liên quan đến nguồn gốc của các nhóm Thái đều có
yếu tố nước. Một trong những yếu tố đó chính là hình tượng con thuồng luồng tô
ngược. Hình tượng con thuồng luồng (Sức mạnh của nước, vua của thế giới nước)
lúc là cha, lúc là mẹ, lúc là vợ, là con hay là bạn của người Thái. Ai đã từng
chú ý đến kho tàng truyện cổ dân gian Thái và Tày thì đều nghe nhiều đến mối
quan hệ đó, quan hệ giữa người với thuồng luồng. Đây là quan hệ mang tính chất
sinh thành như mô tip Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ của người Kinh. Theo tôi biết
đau chính mô típ này đã bắt nguồn từ cơ sở quan hệ người với thuồng luồng của
người Thái. Trong tay của chúng tôi hiện nay có khá nhiều những câu chuyện dân
gian về mối quan hệ đó của cả người Thái và người Tày. Ví dụ ở xã Trùng Khánh,
huyện Na Hang (Tuyên Quang) có câu chuyện về Nàng tiên thứ bảy, về ngọn núi
Mông Tự... đều liên quan đến mối tình giữa người với thuồng luồng. Ở Mường Tấc
(Phù Yên, Sơn La) có câu chuyện về Chàng đuôi cụt (Ải hang cút), thần tích lễ hội
Bưa lừa (Lạng Sơn) liên quan đến chàng thuồng luồng làm con nuôi của vợ chồng
người Tày; sự tích ao xanh “Nong Kheo, Văng Tong hay mối tình Bó Bua... ở Mai
Sơn (Sơn La) đều nói về các mối quan hệ giữa người với thuồng luồng. Sự tích về
Hang Bua (Quỳ Châu - Nghệ An) nói đến thần nước Phi nặm huổi ha xuyên thủng đội
quân thần núi Phi pu phá hung và mối tình giữa tạo Khun Tướng người Thái Mường
Chiềng Xan lạc xuống Mường Nước Chông La rồi lấy nàng Ẹt Khay, đẻ ra Khun Tinh
trở thành tạo trông coi vùng Chiềng Ngam (Quỳ Châu)... Chúng tôi dành nhiều
trang viết về người Thái và nước như vậy với mục đích nhằm giải thích rõ thêm
nguyên nhân của các cuộc di dân từ lưu vực sông Hồng mà trước đó là vùng xung
quanh vịnh Hà Nội. Nói khác đi, chúng tôi nhằm lí giải và chứng minh cho hiện
tượng gắn bó giữa cư dân Thái và nước. Nước là môi trường sống ban đầu của cư
dân Thái ở Việt Nam. Từ môi trường nước đó, có lẽ do biển tiến dâng nước ngập lụt
hết cả nơi sinh sống xưa kia của họ và buộc họ phải ngược các dòng sông (chủ yếu
là 3 con sông Thao, sông Đà và sông Lô) từ của Bạch Hạc lên sinh sống tại các địa
bàn mà ngày nay con cháu họ đang tụ cư. Có lẽ cũng chính vì thế mà trong tâm thức
người Tày, Thái hình ảnh nạn đại hồng thuỷ luôn luôn ám ảnh và trở thành thời
điểm khởi thuỷ của sự hình thành loài người nói chung và người Thái nói riêng.
Trong Quam tô mương (Truyện kể bản mường) cũng bắt đầu từ nạn đại hồng thuỷ xảy
ra từ thủa mới Cõ pên đin pên nhạ...(khởi nguồn nên đất nên cỏ...), từ thủa đất
trần gian có các loài muông thú còn biết nghe, biết nói chu tô, chu xính nặng
mương lum hụ pác, chu tô nạc chu hụ vạu... Nạn đại hồng thuỷ đó có lẽ chính là
sức mạnh của các đợt biển tiến, gây ngập lụt khắp các vùng xung quanh vịnh Hà Nội.
Vì thế, các nhóm Thái cổ thủa đó đã phải chạy nước và ngược sông Thao, sông Lô,
sông Đà lên các vùng núi cao hơn mà sinh sống. Nạn hồng thuỷ trong Quam tô
mương có lẽ cũng bắt nguồn từ đây. Như vậy nhóm Thái Đen của Tạo Xuông, Tạo Ngần
rồi là Tạo Lò (bố của Lạng Chượng) xuất hiện ở Mường Lò (Yên Bái) cũng thuộc
các nhóm cư dân Thái cổ. Tổ tiên họ xuống theo sông Thao rồi vào Nghĩa Lộ và tạo
thành lớp cư dân Thái ở đây. Sau đó, do số dân phát triển một số mới di chuyển
lên Tây Bắc như cuốn sử thi này đã kể. Cho đến nay, người Thái nhiều vùng vẫn
còn nhớ những truyền thuyết về thuyền da trâu hưa năng khoai và thuyền vỏ cây
sa - hưa năng sa (một loại cây vỏ rất dai, có thể bện làm thừng). Đây là hai loại
thuyền được làm vội trong cơn nguy cấp chạy lụt. Có thể coi đó là sự nhanh trí
và sáng tạo của cư dân Thái cổ thủa đó. Với hai loại thuyền làm vội này, nhiều
nhóm Thái đã không thể đi xa hơn được, đành dạt dần lên sinh sống ở hai bên bờ
sông Thao và tạo thành các nhóm Tày, Thái nơi đây. Từ những nơi này có thể có một
số nhóm đã đi sâu vào vùng Tây Bắc và tạo nên các nhóm Tày, Thái ở Hưng Khánh,
Văn Chấn (Mường Lò) thuộc Yên Bái, nhóm Thái Mường Tấc, một số ở Mường Vạt (Sơn
La), một số đến Mộc Châu rồi xuôi về Hoà Bình thành nhóm Thái Mai Châu và vượt
sông Mã sang vùng Quan Hoá, Bá Thước (Thanh Hoá)... Trong áng mo đám ma của các
nhóm Tày, Thái này vẫn còn nhiều đoạn lần theo các con đường đó của ông cha họ
xưa kia. Phần lớn con đường đó đều theo các suối nhỏ của địa phương rồi ra sông
Đà, sông Thao mà về nơi bến Cái nặm ta cải hay nặm ta khải như đã nói ở trên.
Người Thái ở Mường Tấc hầu hết đều đưa hồn ma vượt suối Tấc ra ngòi Lao hay
ngòi Thia (Văn Chấn) rồi xuôi sông Thao đi qua Vũ Ẻn mà về Bạch Hạc ngã ba
sông. Một số dòng họ khác của người Thái Mường Tấc (Phù Yên, Sơn La) lại theo
suối Tấc ra cửa Vạn Yên xuôi sông Đà về nơi nặm khạu hu, pu khậu cởm thác Bờ,
lên chơi và mua sắm gương lược ở chợ Bờ trước khi đi tiếp về Bạch Hạc. Từ đay sẽ
thuê thuyền người Kinh hưa toong về mường Trời với tổ tiên. Bài mo đám ma của
người Thái Yên Châu (Sơn La) cũng đưa hồn ma theo suối Vạt ra sông Đà rồi xuôi
theo sông Đà về xuôi... Khi hồn ma đến chợ Bờ (Hoà Bình) cũng lên mua sắm ở chợ
rồi mới tiếp tục về nơi nặm khảu hu, pu khảu cợm (nước vào lỗ, cua vào hang) và
bến nước thiêng nặm ta khải để lên mường trời với tổ tiên... Hàng năm, cứ vào dịp
trước Tết và sau Tết Nguyên đán, người Tày ở huyện Văn Bàn (Lào Cai) vẫn có tục
ngắt lá cây thả trôi sông, suối làm “thuyền” đón, đưa tổ tiên về ăn Tết với con
cháu. Những chiếc thuyền lá cây đó trôi đến tận đâu không ai biết, nhưng chắc
chắn chúng cũng đến tận cửa sông Thao - nơi bến cái đổ ra biển. Từ đó những chiếc
thuyền lá mới đón đưa dược tổ tiên của họ. Người Thái Yên Châu (Sơn La) còn nhớ
rõ sự tích núi Chom nong và hàng năm vẫn Xên Mường - thờ thần thổ địa tại chân
núi này. Đồng thời những năm hạn hán kéo dài, nhân dân thường tổ chức tế thần
Chom Nong bằng trâu trắng để cầu mưa. Tuy hình ảnh chiếc thuyền đồng khổng lồ
theo cơn lốc bay tới đỉnh núi này và khoét sâu vào đỉnh núi tạo nên cái ao trên
núi Chom Nong mang chất huyền thoại. Nhưng huyền thoại đó cũng đã phản ánh một
thực tế quá trình di dân bằng thuyền đồng của tổ tiên họ lên lập bản mường ở
nơi đây. Phải chăng do quá xa xưa rồi tổ tiên họ không còn nhớ được những chặng
đường ngược sông Đà từ bến cái Bạch Hạc lên đây như thế nào, nên đã sáng tạo ra
hình ảnh “thuyền bay” theo cơn lốc lên nơi này. Tuy nhiên trong áng mo đám ma
thì họ vẫn lần trở về “quê cũ” theo con đường mà họ đã ra đi - bến cái Nặm ta
khải. Như vậy bến cái Bạch Hạc chính là bến thuyền “cửa biển” của cư dân sống
xung quanh vịnh Hà Nội với biển Đông, ma người Thái là thành viên của lớp cư
dân ấy. Dĩ nhiên, cái bến thuyền cửa biển này dã lùi vào dĩ vãng hàng mấy nghìn
năm, cho nên trong thực tế không ai còn nhớ mà chỉ còn trong tiềm thức và tâm
linh. Trong tư duy nguyên thuỷ, từ địa điểm có thật ở thời xa xưa vẫn in sâu
trong tiềm thức đã trở thành một địa chỉ linh thiêng của tâm linh. Bến Bạch Hạc
ngày ấy đã trở thành bến thiêng trong tâm linh dân Thái. Xét co cùng mường Trời
hay mường Then của thế giới tổ tiên cũng chính là phản ánh mường người ở dưới
trần gian. Cái bến nước “Nặm ta khải” ở mường trời cũng chính là hình ảnh của bến
Cái cửa biển từ thủa xa xưa đó. Bến sông ngăn cách giữa mường người và mường ma
trên mường trời ấy thực ra cũng phản ánh sự ngăn cách đầy bí ẩn giữa thế giới
mường người (những cư dân sống quanh vịnh Hà Nội) và thế giới biển khơi đầy trắc
trở mà con người thủa đó chưa thể lí giải và làm chủ được. Trước khi lên đến mường
trời, hồn ma phải vượt qua bao nhiêu thử thách của thế giới đầy sóng gió và bí
hiểm ấy. Còn mường trời, nơi trú ngụ của thế giới tổ tiên ở đâu, thực ra cũng
chỉ là một địa bàn trong tưởng tượng nhưng lại là ánh xạ của một bến nước có thật
từ thủa xa xưa. Theo tư duy logic trí tưởng tượng cũng phải được bắt nguồn từ
hiện thực nào đó. Tuy những kiến giải trên chưa thật có sức thuyết phục và hơi
khiên cưỡng nhưng dù sao nó cũng góp phần vào giải quyết phần nào hiện tượng
các hồn ma người Thái (nhất là các nhóm Thái cổ) lại xuôi các con sông Thao,
sông Đà về bến cái cửa biển. Đồng thời từ đó cũng giúp giải thích được tên con
sông Thao cũng như các đợt di chuyển ngược con sông đó của lớp cư dân Tày, Thái
cổ lên sinh sống ở hai bên bờ cá con sông này và các vùng lân cận trên vùng Tây
Bắc. Qua các cứ liệu trên lại càng có cơ sở chứng minh thêm sự có mặt của các
nhóm Tày, Thái cổ ở Việt Nam từ thời tiền Đông Sơn chí ít cũng là từ thời Phùng
Nguyên, trước khi hình thành đồng bằng Bắc Bộ. Quá trình đóng góp của họ vào sự
hình thành và phát triển văn minh Đông Sơn là điều hiển nhiên.
TS. Hoàng Lương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét