Gươm chém thuồng luồng suối rồng
Vua thuồng luồng
Ngày xửa ngày xưa con trai út của vua Then
và nàng xao con gái út của một vị xen cha [1] ở trên mường bun (tiên giới) thương
yêu nhau tha thiết. Nhưng khi chàng còn chưa kịp nhờ người mai mối tới dạm hỏi
thì nàng đã bị con trai của vua thuồng luồng cướp đem về làm vợ. Chàng út đi xuống
mường lúm (trần gian) để tìm nàng. Chàng đi mãi khắp mọi nơi hang cùng ngõ hẻm
mà vẫn không thể nào tìm được nàng.
Một buổi đương lang thang ở trong rừng chàng út bỗng tình cờ gặp một vị
xen cha đang cưỡi ngựa đi săn. Nhìn thấy bộ dạng chàng thảm hại thểu não vì mãi
vẫn chưa tìm được người yêu nên xen cha mới xuống ngựa để hỏi thăm. Chàng út kể
cho xen cha nghe chuyện. Thương tình xen cha liền đưa cho chàng một thanh gươm
và dặn bao giờ chàng mài sắc được thanh gươm này thì sẽ tìm lại được nàng xao
út.
Chàng út cầm thanh gươm đi tìm chỗ mài đợi ngày báo thù thuồng luồng đã
cướp mất người yêu. Chàng đi cho đến khi gặp một bản nhỏ nằm cạnh con suối tá
xi[2] (Suối Rồng) thì dừng lại ở nơi này để mài gươm. Chàng mài từ khi còn là một
thanh niên cường tráng cho tới khi trở thành ông lão râu dài tóc bạc mà thanh
gươm vẫn cùn chưa sắc. Không hề nản ngày
nào cũng như ngày nào chàng út lúc này đã là ông lão cứ bắt đầu vào lúc mặt trời
mọc là lại cầm gươm ra ngồi mài ở bến suối tá xi. Nếu có ai hỏi ông mài gươm
làm gì thì ông nói là mài gươm để đến mùa thi còn đem đi thi chém. Nhưng rồi mặc
cho tháng trôi năm qua mọi người vẫn chẳng thấy ông mang gươm đi thi thố ở đâu
cả mà chỉ thấy ngày ngày ông đem gươm ra cặm cụi mài ở ngoài bờ suối. Dân bản
chứng kiến cái chuyện kỳ dị này mãi rồi cũng quen họ mặc kệ ông ngồi mài không
ai hỏi đả động gì đến ông nữa.
Thế rồi một hôm có một đám buôn lớn đi qua chỗ ông lão đang ngồi mài
gươm. Nhìn thấy thanh gươm sáng loáng đẹp quá họ bèn nằn nỉ gạ hỏi mua với ông
và trả giá cực cao. Nhưng nói thế nào thì ông lão vẫn cũng cứ lắc đầu từ chối
không bán. Họ hỏi lý do tại sao ông không muốn bán thanh gươm.
Ông lão thủng thẳng đáp:
- Gươm này còn dùng để chém thuồng luồng suối tá xi!
Đám lái buôn đành ngao ngán thất vọng bỏ đi. Nhưng câu nói của ông lão
thì đã bị bầy cá nghe thấy. Chúng liền đem tâu lại với vua thuồng luồng cai quản
con suối tá xi. Vua thuồng luồng tức quá mới lên bờ và hoá thành một cụ già
lưng còng chống gậy tới gặp người ông lão mài gươm.
Ban đầu vua thuồng luồng giả vờ ngỏ ý hỏi mua thanh gươm. Ông lão từ chối
không bán. Vua thuồng luồng hỏi tiếp:
- Vậy thanh gươm này ông định dùng để làm gì?
Ông lão đáp:
- Gươm ta dùng để đi thi chém thứ gì cũng chém con gì cũng chém cái gì
trôi qua trước mặt là chém! Và chém chỉ một nhát là đứt!
Vua thuồng luồng lại hỏi:
- Thế thần thuồng luồng ở dưới nước ông có chém được không?
Ông lão khẳng định:
- Chém được tất! Nếu chém một nhát mà không đứt thì ta sẽ chịu mất thanh
gươm này.
Thế rồi ông lão vừa ngồi mài gươm vừa hát nghêu ngao:
"Gươm lưỡi thiêng ta mài từ thưở nhỏ
"Mài cho đến già để chém thuồng luồng tá xi
"Cho tới mùa thi lưỡi gươm thật sắc bén
"Già này sẽ đem chém thuồng luồng tá xi![3]"
Nghe ông lão nghêu ngao hát vậy vua thuồng luồng giật mình trong lòng dạ
của cảm thấy không yên bởi sợ sau này có lúc ông lão sẽ mang gươm đi chém họ
hàng thuồng luồng sống ở dưới nước. Vua thuồng luồng bèn đánh cược với ông lão
nếu ông không chém chết được thuồng luồng tá xi thì sẽ phải chịu mất thanh gươm
của xen cha.
Vì lúc nãy đã chót nói mạnh nên ông lão đành phải đồng ý và hẹn ngày
đánh cược. Sau khi vua thuồng luồng đi rồi nhìn lưỡi của thanh gươm vẫn còn cùn
lòng dạ buồn rười rượi nên ông lão bật ra những tiếng than thở. Đúng lúc này
thì có một con rái cá chạy qua. Nhìn thấy ông lão buồn bã thở dài rái cá cất tiếng
hỏi:
- Tại sao ông lại buồn đến như vậy?
Ông lão đem chuyện kể cho rái cá nghe. Rái cá bèn bảo ông:
- Khó gì đâu! Muốn lưỡi gươm sắc thì trong khi mài ông hãy khóc và nhỏ
những giọt nước mắt của ông vào đó.
Ông lão làm theo đúng như lời của rái cá không ngờ rằng lưỡi gươm đã
nhanh chóng trở nên sắc bén. Và để cho thanh gươm sắc bén hơn nữa hôm nào ông
cũng vẫn mang gươm ra bờ suối mài và thấp thỏm chờ mong đến ngày hẹn.
Sắp tới ngày hẹn vua thuồng luồng lại hoá thành người tìm đến gặp ông
lão. Vua thuồng luồng hỏi thăm dò:
- Ông định làm thế nào để chém chết thuồng luồng?
Đoán biết đó chính là vua thuồng luồng hoá thành người để dò hỏi ông lão
tỉnh bơ đáp lại:
- Cho dù thuồng luồng hoá thành bất cứ con vật gì hay là các loại gỗ gì
thì lão cũng chỉ chém một nhát là đứt. Chỉ khi nào thuồng luồng hoá thành cây
chuối rừng thì lão mới chịu không thể chém đứt được!
Vua thuồng luồng không tin nên tìm cách thử ông lão. Vua cho quân hoá
thành con chim dữ bay đến mổ ông lão. Ông chém một nhát đứt đôi con chim. Vua lại
cho quân hoá thành thân cây chuối rừng trôi qua trước mặt ông lão. Ông bỏ qua
không chém. Thấy mọi điều đúng như ông lão đã nói vua thuồng luồng yên tâm trở
về mường nước.
Đến ngày hẹn ông lão cầm gươm ra đứng đợi sẵn ở bên bờ suối. Họ hàng thuồng
luồng tất cả đều hoá thành cây chuối rừng cứ thế lững thững trôi qua trước mặt
ông lão. Ông không dám chém vì sợ chém nhầm phải cả người yêu. Bối rối quá ông
lão ôm đầu rồi ngửa mặt lên trời than kêu Vua Then giúp đỡ. Vua Then bèn hoá
thành một con diều hâu bay xuống giúp con trai.
Diều hâu bảo:
- Thân cây chuối nào mà ta bay tới đậu thì đó chính là nàng xao út! Đừng
có chém phải!
Không sợ nhầm nữa vậy là ông lão vung gươm chém lia lịa vào thân các cây
chuối trôi qua trước mặt. Nhưng chém đã mỏi tay mà vẫn chẳng thấy diều hâu đậu
xuống đâu cả nên ông lão rất sốt ruột. Ông vừa chém vừa ngóng nhìn lên bầu trời
để tìm bóng diều hâu. Bỗng dưng từ giữa không trung nổ ầm vang một hồi sấm bầu
trời tối sầm lại. Rồi từ phía thượng nguồn lừng lững trôi xuống một bè chuối
trên bè có một con nôộc cháu phạ (chim thiên nga) đang đậu. Đúng lúc này chim
diều hâu bất thình lình xuất hiện nó lao xuống cắp chặt lấy nôộc cháu phạ rồi
bay vút lên trời.
Đoán biết được là người yêu đã được diều hâu cứu thoát đem trở về mường
bun nên ông lão yên tâm ra sức chém chết hết số thuồng luồng còn lại. Sau đó
ông ném thanh gươm vào rừng trả lại cho xen cha rồi lập tức bay theo một ngọn
gió để trở về trên mường bun.
Trở về đến mường bun thì ông lão thấy đám cưới cho mình và nàng xao út
đã được chuẩn bị chu đáo đâu vào đấy. Mọi người chỉ còn đợi ông lão về tới nơi
là bắt đầu cuộc vui. Đám cưới diễn ra linh đình ai ai cũng chúc phúc cho hai
người dù cho nay đã tóc bạc da mồi nhưng được ở bên nhau như hằng mong ước.
Sau đám cưới hai người không ở lại sống cùng với vua Then. Mà họ hai mái
đầu bạc cùng nắm tay nhau biến thành đám mây trắng bay lang thang nay đây mai
đó khắp mọi nơi nhàn du rong chơi ngắm nhìn thiên hạ.
Người mường lúm thấy vậy mới đặt thơ hát về họ:
"Đời người tựa như mây trắng bay
"Nắm tay nhau rong chơi khắp bản mường
"Khi trời nắng ta hoá mây che đầu cho mẹ
"Làm bóng mây râm che mát
cho mẹ yêu!"[4].
[1] Xen cha: Là từ mà người
Thái dùng để chỉ chung các vị thần tiên.
[2] Theo lịch cổ của người
Thái thì chi xi đứng tinh con rồng tương tự như chi thìn ở trong lịch Can Chi.
Bởi vậy tá xi cũng có thể được hiểu là Suối Rồng. Song lại có người hiểu từ xi
theo nghĩa kỳ rửa vậy cho nên giải thích tá xi có nghĩa là con suối để kỳ rửa tắm
giặt. Tuy nhiên tác giả biên soạn nghiêng về cách giải thích xi là rồng bởi thấy
cách giải thích này hay và phù hợp với nội dung câu chuyện hơn.
[3] Nguyên văn phiên âm tiếng
Thái: "Đáp cặm lợm lặp chợ mớ nọi/ Khỏi thảu vạy phặn ngợ tá xi/ Họt mộ pí
đáp lặp chắng khảu/ Thảu mạ lọ phặn ngợ tá xi!".
[4] Nguyên văn phiên âm tiếng
Thái: "Chố cụn pin vả mók khao/ Chung khen căn cá mợng ỉn dú/ Phạ đét họn
chí dú hẳư mé ý lả hủm hô/ Chợ bơn mộ hẳư mé ý pẹng dú din".
2 - Truyện cổ dân gian Thái
- Tại sao loài ve sầu rỗng ruột ?
Ve sầu cánh xanh
Chuyện xảy ra đã từ ngày xửa ngày xưa. Vào một buổi trưa mùa hè trời nắng
chang chang đàn ve rừng cất tiếng kêu inh ỏi. Có một con hoẵng đang kiếm ăn ở
bên cạnh nương vừng nghe thấy tiếng ve đột ngột cất lên thì giật thót mình. Hoẵng
co chân nhảy chạy qua đám quả cây vừng đang vào độ chín làm cho hạt vừng bị bắn
tung toé phải vào mắt của một con gà rừng. Gà rừng đột ngột bị hạt vừng bắn
đúng vào mắt nên cuống cuồng bay đậu lên cành cây nơi có một tổ kiến bống. Bởi
mắt đang bị đau cộm bởi hạt vừng nên gà rừng tức bực cứ thế bới lia lịa phá tổ
kiến bống. Kiến bống bị phá tổ liền bò ra khắp cả cành cây. Bầy kiến bống đang
bò thì gặp một con sóc thế là chúng bám chặt lấy con sóc và cùng nhau ra sức đốt.
Sóc bị kiến đốt đau liền leo tót lên dây mák tỉnh kình[1] đồng thời cắn lung
tung vào những thứ gặp ở xung quanh. Vô tình sóc cắn đứt cuống một quả mák tỉnh
kình làm quả mák tỉnh kình rơi xuống trúng phải lưng một con trâu. Trâu giật mình
tưởng có ai lấy đá ném mình nên lồng lên chạy thục mạng và nhảy xuống một cái
ao. Không ngờ trâu giẫm phải một con nòng nọc khiến cho nòng nọc bị thủng bụng
lòi gan ruột ra ngoài. Bị mất hết ruột gan nên nòng nọc bèn lên tận mường bun
tìm tới vua Then để kêu kiện.
Vua Then hỏi:
- Nòng nọc tìm lên đây có việc gì?
Nòng nọc đáp:
- Thưa con muốn kiện kẻ đã làm hại con.
Vua Then hỏi tiếp:
- Vậy kẻ nào đã làm hại nòng nọc?
Nòng nọc bèn kể rõ từ đầu:
- Thưa vua Then! Con đang sống yên ổn ở dưới ao. Bỗng dưng vô cớ lại có
một con trâu chạy lồng đến. Nó dẫm phải con khiến cho con bị vỡ nát bụng gan ruột
chẳng còn gì. Vậy mong vua Then hãy trừng trị con trâu.
Vua Then cho gọi trâu tới để xét hỏi.
- Tại sao trâu lại tự dưng giẫm bẹp gan nát ruột của nòng nọc?
Trâu ra sức thanh minh:
- Xin vua Then xem xét cho công bằng. Không phải là tại do con cố ý. Mà
là tại có một quả mák tỉnh kình rơi trúng phải lưng con khiến cho con hoảng sợ
mà lồng chạy lung tung nên mới vô ý giẫm phải nòng nọc đấy thôi.
Vua Then lại cho gọi quả mák tỉnh kình đến để hỏi:
- Bỗng dưng tại sao ngươi lại rơi rụng trúng vào lưng trâu?
Mák tỉnh kình thưa:
- Tất cả đều tại con sóc. Con vẫn đang gắn lơ lửng ở trên dây. Tự dưng
sóc ở đâu chạy tới cắn đứt cuống vì thế nên con mới rụng xuống trúng phải lưng
trâu đấy ạ.
Vua Then lại cho gọi đến sóc.
- Sao ngươi bỗng dưng lại đi cắn đứt cuống của quả Mák tỉnh kình?
Sóc liền ra sức thanh minh để chối tội:
- Dạ thưa vua Then. Con đang kiếm ăn ở trên một cành cây. Nào ngờ có đám
kiến bống lại bâu đến cắn con. Đau không chịu nổi nên con mới cắn lung tung lỡ
trúng phải quả mák tỉnh kình. Vậy nên có trách tội thì xin vua Then hãy trách tội
đám kiến bống đã cắn con ấy ạ.
Vua Then tiếp tục cho gọi bầy kiến bống lên và hạch tội:
- Sao đám kiến các ngươi tự dưng lại đi cắn con sóc?
Kiến từ tốn trình bày:
- Đàn kiến chúng con xưa nay vốn chỉ biết chăm chỉ làm ăn nào đâu có nỡ
muốn hại ai. Nhưng chẳng hiểu sao có một con gà rừng bay xổ đến cào bới lung
tung phá tổ của chúng con làm chúng con hoảng loạn phải chạy hết ra khỏi tổ.
Trong lúc chạy đó chúng con gặp sóc nên mới cắn sóc cho hả cơn tức bỗng dưng bị
gà rừng phá tổ.
Lần này thì vua Then cho gọi gà rừng. Vừa nhìn thấy gà vua Then đã quát
ngay:
- Gà rừng tại sao tự dưng ngươi lại đi bới phá tổ kiến bống?
Gà rừng thật thà đáp:
- Lúc ấy con đang kiếm ăn ở chỗ nương vừng. Tự nhiên có hạt vừng bắn vào
đúng mắt con. Không chịu nổi con mới bay lên cành cây đậu rồi đạp chân lung vô
tình làm hỏng tổ kiến chứ không phải là do cố ý.
Vua Then lại cho gọi cây vừng để hạch tội. Cây vừng đổ tội cho hoẵng. Hoẵng
lại đổ tội cho ve sầu.
Vua Then bèn cho gọi đến ve sầu. Ve sầu cố gắng thanh minh:
- Dạ bẩm thưa vua Then. Cứ mùa hè tới
nắng nóng nên ve sầu chúng con tìm đậu ở dưới những bóng cây râm mát. Tụ tập
cùng nhau đông đúc nên chúng con rủ nhau hát chơi cho vui mà thôi.
Nghe ve sầu nói xong vua Then phán xử:
- Ve sầu các ngươi chỉ vì thú vui của mình mà làm tổn hại tới người
khác. Vì vậy các ngươi phải lấy ruột gan của mình đền cho nòng nọc.
Thế là từ đấy loài ve sầu con nào trong bụng cũng bị rỗng bởi ruột gan
đã phải đem đền cho nòng nọc.
[1] Cây mák tỉnh kình: Là loài
thân dây leo như gấc quả to cỡ bằng quả bưởi lớn. Bổ ra trong mỗi quả có từ 6 -
8 múi hạt nhân hạt đem nướng hoặc luộc lên ăn rất bùi và ngậy.
3
- Truyện cổ dân gian Thái
- Truyền thuyết Dá Tai Nao.
Ngày xửa ngày xưa ở vùng đất Mường Xo có hai dòng họ lớn dòng họ Hoàng
và dòng họ Tao (là dòng họ Đèo ngày nay). Chẳng biết từ thưở nào có một lời
nguyền cho rằng nếu người họ Hoàng mà lấy người họ Tao thì mường bản sẽ không
được bình yên và trở nên loạn lạc (bá mợng). Cho nên hai dòng họ này không bao
giờ dám gả con cái cho nhau.
Thế rồi lời nguyền cũng không ngăn cản được có một người con trai họ
Hoàng yêu một người con gái họ Tao. Hai người yêu nhau tha thiết bất chấp sự cấm
đoán của cả hai bên dòng họ.
Thấy nếu ở lại bản thì hai người sẽ không bao giờ lấy được nhau vậy là họ
bàn nhau cùng dắt nhau chạy trốn đi sang sống ở nơi khác. Nhưng cho dù họ có trốn
đến ở bản nào thì gia đình họ hàng cũng biết rồi lại đi bắt họ về. Mỗi lần bị bắt
trở về hai người đều bị trói nhốt ở chuồng ngựa bị đánh đập rất khổ sở.
Không nản hai người lại tìm cách rủ nhau trốn. Lần này họ bàn nhau phải
trốn đi xa tới tận chân trời góc bể (tin phạ che nặm) thì mới không bị bắt lại
nữa.
Đôi trai gái cùng nhau chạy trốn khi đi đến địa phận núi Cổ Rồng (Pụ khọ
lôộng)[1] thì họ gặp một bà cụ già râu tóc bạc phơ trên tay cầm cây gậy trúc.
Hai người cùng quỳ xuống hỏi cụ rằng:
- Cụ ơi làm thế nào thì chúng cháu mới có thể lấy được nhau?
Bà cụ không trả lời câu hỏi mà chỉ kể cho hai người nghe lại câu chuyện
về cuộc đời của mình. Đời bà ở kiếp trước cũng đã từng yêu say đắm một người
nhưng cha mẹ hai bên không đồng ý cho lấy. Không thắng được số mệnh nên bà và
người yêu cùng gieo mình xuống vực tự vẫn. Vì thế sang cho đến kiếp này bà vẫn
một mình ở vậy cho đến già mà không hề yêu ai.
Nghe xong câu chuyện buồn đôi trai gái thất vọng đến khôn cùng. Họ cũng
định gieo mình xuống vực tự vẫn như hai người trong câu chuyện kể của bà cụ.
Nhưng bà cụ ngăn lại và bảo:
- Thôi đừng có bao giờ để mình hết hy vọng. Hai cháu hãy tiếp tục lên đường
đi tìm Dá Tai Nao. Dá Tai Nao sống ở đâu hai cháu sống ở đấy thì sẽ không một
ai tìm thấy hai cháu. Và hai cháu sẽ được ở bên cạnh nhau mãi mãi.
Đôi trai gái họ Hoàng và họ Tao được thắp lên tia hy vọng liền lên đường
đi tìm Dá Tai Nao theo như lời chỉ bảo của bà cụ. Hai người đi đến đâu cũng hỏi
dân bản địa có ai biết Dá Tai Nao ở chỗ nào không. Được hỏi người thì lắc đầu
nói không biết người thì chỉ xa tận chân trời và bảo Dá Tai Nao ở đó.
Đôi trai gái không hề nản lòng họ cứ thế dìu tựa vào nhau mà đi. Năm
trôi rồi tháng qua đôi trai gái trẻ xưa kia đã trở nên tóc bạc da mồi mà vẫn
không tìm được Dá Tai Nao. Hai người đứng ở lưng núi Cổ Rồng mà khóc than. Vua
Then động lòng nên mới phái xen cha xuống giúp họ. Xen cha xuống chỉ lối cho
hai người đi thẳng. Đi theo lối xen cha chỉ hai người gặp được một cụ già đang
chăn trâu. Cụ nghêu ngao hát:
"Núi Cổ Rồng đường xa và hiểm trở
"Lạnh khiến con người hoá thành đá lặng câm
"Đỉnh núi Cổ Rồng cây mọc lông người mọc râu[2]
"Nhưng đã đến được nơi này thì đời bình yên không lo lắng".[3]
Nghe câu hát của ông cụ hai người hiểu ý là đi nữa thì sẽ gặp được Dá
Tai Nao và họ sẽ được sống cùng bên nhau trọn đời.
Từ chỗ hai người gặp cụ già chăn trâu lên đến đỉnh núi Cổ Rồng còn phải
đi qua 9 con dốc cao dài và hiểm trở nữa. Hai người lại dìu nhau tựa vào nhau
men theo lối trâu rừng mà đi. Khi hai người đi qua hết được đỉnh dốc thứ 8 thì
chỉ thấy xung quanh toàn là những cây cổ thụ. Không khí lạnh rét run người
sương mây che kín lấp chẳng còn nhìn thấy gì. Hai người vừa mệt vừa đói vừa rét
không thể đi tiếp được nữa. Họ bèn ngồi xuống một tảng đá ôm lấy nhau mong truyền
hơi ấm cho nhau. Tuyết rơi xuống phủ lên hai người. Họ chết đi hoá thành một tảng
đá hình một nam một nữ ôm chặt lấy nhau không rời.
Về sau người đời nhìn thấy đặt tên cho tảng đá đó là Dá Tai Nao (Già chết
rét) mỗi khi đi qua hòn đá này người ta thường đến vái và cầu chúc cho họ mãi
mãi bên nhau như ước nguyện.[4]
[1] Pụ khọ lôộng chính
là dãy núi Hoàng Liên Sơn bây giờ. Theo tín ngưỡng của người Thái vùng Mường Xo
thì đây chính là nơi tiếp giáp giữa trời và đất. Linh hồn con người khi tạ thế
muốn đi lên trời (mường bun) thì phải đi qua nơi đây.
[2] Bắt nguồn từ câu chuyện
truyền thuyết này người Thái mới sử dụng câu "mạy ók khun cụn ók nốt"
(cây mọc lông người mọc râu) để chỉ những nơi cực rét. Rét đến nỗi có tuyết rơi
bám vào cây vào người khiến cho cây trông như mọc lông người như mọc râu vậy.
[3] Nguyên văn phiên âm tiếng
Thái: "Pụ khọ lôộng phái phơng pay đắc/ Hẳư cụn chăư nọi pến dá tai nao/
Hô khọ lôộng mị mạy ók khun cụn ók nốt/ Pay họt đảy cá nặn bớ mí phắư tọ họt".
[4] Tảng đá Dá Tai Nao mang
hình một đôi trai gái ôm ấp nhau trước đây tồn tại ở chỗ trạm tôn (ranh giới giữa
tỉnh Lào Cai và Lai Châu bây giờ). Người dân sống xung quanh vùng này coi đó là
một biểu tượng của tình yêu. Họ rất tôn trọng tảng đá khi đi qua bao giờ cũng
phải ngả mũ nón sợ không dám nói chuyện vì sợ làm mất giấc ngủ của đôi Dá Tai
Nao. Nhưng về sau do nhu cầu mở đường quốc lộ người ta đã phá mất tảng đá này.
4 - Truyện cổ dân gian Thái
-
Tạo Hôm Nàng Hai.
Đây là bản có nội dung khá đầy đủ và
chi tiết so với một số bản khác
do tác giả Vương Thị Mín ST và biên soạn
Ngày xửa ngày xưa có hai chị em gái nhà nọ đều rất xinh đẹp tính tình nết
na thuỳ mị. Thường thường tối nào hai chị em cũng ngồi ở đầu sàn cùng nhau quay
xa kéo sợi cho đến tận khuya mới đi ngủ.
Vào một đêm trăng sau khi ngửa
mặt lên nhìn các vì sao trên bầu trời mọc chi chít sáng lấp lánh người chị chỉ
vào một ngôi sao to và sáng nhất và nói với em gái:
- Nếu cho chị ước lấy ngôi sao trên bầu trời làm chồng thì chị sẽ ước là
được lấy ngôi sao to nhất kia làm chồng.
Còn cô em gái thì chỉ vào một ngôi sao nhỏ và nói:
- Còn em thì chỉ xin được lấy ngôi sao nhỏ đang nhấp nháy đằng kia làm
chồng thôi!
Chuyện hai chị em nói với nhau ban đầu chỉ là đùa. Nhưng có ai nào ngờ
vào một đêm khuya ngôi sao lớn bỗng dưng sà xuống và rơi đúng vào trong lòng
người chị. Đầu tiên ngôi sao hoá thành một nắm đất to. Người chị vừa cầm nắm đất
lên tay thì nắm đất đó tiếp tục hoá thành một chàng trai tuấn tú vạm vỡ. Hai
người nói chuyện với nhau thâu đêm. Sau đó người chị vui mừng bèn dẫn chàng
trai đến ra mắt bố mẹ và xin cho chàng được ở lại làm con rể. Bố mẹ đồng ý cho
hai người kết nghĩa thành vợ thành chồng ngày ngày vui vẻ bên nhau chăm lo công
việc ruộng nương.
Rồi lại vào một đêm khác khi cô em gái đang ngồi một mình quay xa quấn
búp thì ngôi sao nhỏ lấp lánh đột nhiên rụng xuống hoá thành một quả cau nhỏ
tươi roi rói rơi đúng vào lòng. Cô em gái vô cùng thích thú đem quả cau cất giấu
kỹ vào trong chiếc bem đựng quần áo. Đến gần sáng quả cau bỗng biến hoá thành một
tạo trẻ đến bên trò chuyện với cô em. Tạo trẻ nói cho cô em biết tên của mình
là Tạo Hôm và hỏi tên của cô. Cô em thưa lại rằng tên mình là Nàng Hai.
Hai người chuyện trò vô cùng tâm đầu ý hợp. Họ quấn quít lấy nhau chẳng
muốn rời. Bắt đầu từ đây cứ ban ngày thì ngôi sao nhỏ hoá thành quả cau được cất
giấu ở trong bem còn khi đêm tối buông xuống ngôi sao nhỏ lại hoá thành tạo trẻ
sống ân ái như vợ chồng cùng với cô em gái.
Sợ mọi người trong gia đình biết chuyện cho nên mỗi khi có việc đi đâu rời
khỏi nhà thì Nàng Hai lại dặn mẹ:
- Mẹ à mẹ ơi! Con đi vắng không ở nhà mẹ đừng có cho ai lục bem của con
mẹ nhé!
Nhiều lần như vậy khiến cho bà mẹ sinh nghi không biết ở trong bem có thứ
gì mà con gái của bà lại không muốn để cho mọi người biết? Thế là một hôm nhân
lúc Nàng Hai đang làm ở ngoài ruộng chưa về bà bèn lén mở bem của cô ra và lục
lọi xem ở trong có thứ gì.
Lục đi lục lại mãi bà mẹ chỉ tìm thấy có mỗi quả cau nhỏ tươi roi rói.
Đúng phải dịp đang thiếu cau ăn trầu bà mẹ liền đem quả cau ra bổ. Nào ngờ chỉ
vừa mới khẽ cứa lưỡi dao vào cau thôi thì bà mẹ đã thấy những giọt máu tươi ứa
ra rớt xuống đất. Quá hốt hoảng bà vội vứt quả cau ra ngoài vườn.
Nàng Hai đi làm ruộng về mở
bem ra xem thì thấy mất quả cau. Cô bèn hỏi mẹ:
- Mẹ ơi! Mẹ có biết ai lấy quả cau của con không?
Bà mẹ đáp:
- Mẹ định bổ ra để ăn trầu nhưng nhìn thấy cau đỏ như máu sợ quá nên mẹ
đã đem vứt ra ngoài vườn rồi.
Nàng Hai chạy ra chỗ mẹ vứt quả cau thì chẳng còn thấy cau đâu mà chỉ thấy
ở chỗ đó tự nhiên mọc lên một cây rau dền đỏ tốt tươi. Biết là quả cau đã hoá
thành cây rau dền đỏ nên ngày nào Nàng Hai cũng tưới tắm chăm sóc cho cây rau dền
cẩn thận. Cô còn dặn mẹ:
- Mẹ đừng có để cho ai vặt cây rau dền của con mẹ nhé!
Nhưng rồi một hôm nhà hết sạch rau ăn quên mất lời Nàng Hai dặn bà mẹ đã
ra vườn vặt cây rau dền đem bỏ vào chõ xôi rồi đồ lên. Bà đun to lửa đồ mãi mà
vẫn không thấy rau chín. Đúng lúc đó Nàng Hai đi làm về. Cô lấy nước đi tưới
cây rau dền như mọi khi thì thấy cây rau đã bị vặt trụi. Nàng Hai hớt hải chạy
lên nhà hỏi mẹ. Mẹ cô chỉ vào chõ xôi đang đặt trên bếp bảo:
- Nhà không có rau ăn nên mẹ đã hái lấy nó đem về đồ rồi!
Nàng Hai vội vàng mở vung chõ đồ ra xem. Một làn hơi từ trong chõ bốc
lên. Giữa làn hơi mỏng Nàng Hai nhìn thấy Tạo Hôm đang cưỡi trên lưng một con
ngựa cánh (mạ pík).
Trước khi cùng ngựa cánh bay lên trời Tạo Hôm dặn lại:
- Nếu em vẫn còn thương anh thì hãy đi tìm!
Không muốn mất người mình thương yêu Nàng Hai nhằm theo hướng ngựa cánh
bay vào không trung mà đuổi theo. Trên đường đi nàng gặp một cái cây to đổ chặn
ngang đường. Nàng định trèo qua thì thân cây cao lên. Nàng định chui qua thì
thân cây lại hạ thấp xuống bởi khi cưỡi ngựa bay qua đây để thử thách xem Nàng
Hai có thật sự yêu thương mình hay không Tạo Hôm đã chặt đổ cây và dặn:
- Nếu Nàng Hai đi đến đây thì "Nàng muốn chui qua thì hạ thấp. Nàng
muốn vòng qua thì dài ra!"[1].
Không còn cách nào khác nàng đành lần theo chiều dài đi về phía ngọn cây
để tìm cách vượt qua. Nàng đi tới đâu thì thân cây lại cứ kéo dài ra đến đấy
khiến cho Nàng Hai cứ phải đi mãi đi mãi mà vẫn không qua được. Đang mệt nhọc
thì nàng nhìn thấy một vườn mía. Vừa đói vừa khát nàng liền bẻ mía ăn mà không
biết đó là vườn mía của mụ yêu tinh Dá Cói[2]. Dá Cói đang nằm ngủ nghe thấy có
tiếng bẻ mía thì thức dậy. Tưởng là con lợn của mình nuôi ra phá mía nên mụ ta
vẫn nằm tại chỗ và quát vọng ra:
- Chúi con lợn đen thả trong chuồng của bà đừng ăn mía của bà. Chúi con
lợn khoang thả trong chuồng của ta đừng ăn mía của ta![3]
Nhưng yêu tinh Dá Cói quát đến mấy lần như vậy mà vẫn nghe thấy tiếng bẻ
mía rào rào. Vậy là mụ bèn dậy để đi ra xem có kẻ nào cả gan dám phá mía của mụ.
Yêu tinh Dá Cói chạy ra ngoài vườn thì nhìn thấy Nàng Hai đang ăn mía. Mụ
ngửa cổ lên trời vừa cười sằng sặc vừa nói:
- Cũng tốt cũng tốt. Thịt bỗng dưng tự đến cá bỗng dưng tự tới. Cũng tốt
cũng tốt![4]
Lúc này Nàng Hai đã có mang trong người được 8 tháng. Nghe Dá Cói nói
như thế nàng sợ đến mức cảm thấy như rụng rời hết chân tay.
Nàng khóc lóc van xin với mụ yêu tinh:
- Xin bà đừng có vội ăn thịt cháu mà hãy tạm để cháu hầu hạ bà. Nay cháu
đang có mang. Nếu cháu đẻ ra con trai thì sẽ cho làm chồng nhỏ của bà. Nếu đẻ
con gái thì bà ăn thịt cả hai mẹ con cũng chưa muộn![5]
Dá Cói nghe thấy vậy thì bùi tai nên chưa vội ăn thịt Nàng Hai. Không những
thế mà hàng ngày mụ còn đi tìm kiếm thức ăn về nuôi nàng mong nàng sinh ra được
một đứa con trai để cho mụ lấy làm chồng.
Đủ chín tháng mười ngày Nàng Hai sinh hạ được một đứa con trai. Yêu tinh
Dá Cói vô cùng mừng rỡ lại càng chịu khó đi vào rừng kiếm thịt hươu nai về để
nuôi hai mẹ con Nàng Hai.
Ngày nối ngày tháng tiếp tháng trôi đi đứa con trai của Nàng Hai dần cứng
cáp. Sống bên cạnh Dá Cói Nàng Hai để ý thấy rằng mụ rất thường hay nói ngược.
Nếu mụ như dặn: "Chồng bé chồng nhỏ của ta/ Ta chỉ đi chốc lát sẽ
trở về/ Ta chỉ đi một lúc sẽ quay lại/ Chồng bé chồng nhỏ của ta ơi/ Ngoan ở
nhà đợi ta nhé!"[6] thì chắc chắn là mụ sẽ đi rất lâu.
Còn nếu như mụ dặn: "Chồng bé chồng nhỏ của ta/ Ở nhà đợi ta nhé/
Ta phải đi thật lấu thật lâu mới về"[7] thì là mụ chỉ đi đâu đó một thoáng
một chốc thôi là sẽ quay lại ngay.
Ngoài điều đó ra mụ yêu tinh Dá Cói còn có một cây gậy sinh tử có thể
làm người ta chết đi sống lại một chiếc quạt thần có khả năng quạt ra nước ra lửa.
Nắm biết vậy nên Nàng Hai nghĩ ra kế để bỏ trốn. Nàng tính toán trong bụng muốn
trốn thì trước tiên phải lấy cho bằng được chiếc quạt thần và chiếc gậy sinh tử.
Vậy là đợi vào đúng lúc nửa đêm nàng mới cấu cho con khóc. Dá Cói nghe
thấy tiếng khóc nên cất tiếng hỏi:
- Tại sao chồng nhỏ của ta khóc vậy hả?
Nàng đáp:
- Chồng nhỏ của bà đòi lấy cây gậy để chơi!
Mụ Dá Cói tưởng thật liền đưa chiếc gậy sinh tử cho Nàng Hai. Một lát
sau Nàng Hai lại cấu cho con khóc.
Dá Cói lại hỏi:
- Tại sao chồng nhỏ của ta vẫn khóc vậy hả?
Lần này Nàng Hai đáp:
- Chồng nhỏ của bà muốn đòi lấy chiếc quạt để chơi!
Cứ ngỡ là thật Dá Cói lại đưa tiếp chiếc quạt thần cho Nàng Hai.
Có được gậy sinh tử và quạt thần rồi nhưng chưa biết cách sử dụng nên
Nàng Hai lại sử dụng mẹo cũ để hỏi Dá Cói. Không chút nghi ngờ Dá Cói nói cho
nàng biết: Đối với cây gậy sinh tử thì "chỉ bằng đằng gốc thì chết chỉ bằng
đằng ngọn thì sống"[8]. Còn với chiếc quạt thần thì "quạt xuống phía
cuối dòng thì suối lũ quạt lên phía trên dòng thì suối cạn"[9].
Đã biết được hết bí mật cách sử dụng gậy sinh tử và quạt thần Nàng Hai
chỉ còn đợi thời cơ để đưa con đi trốn.
Nàng chẳng phải đợi lâu. Ngay sáng hôm sau Yêu tinh Dá Cói đã lại đi ra
ngoài săn thú. Trước khi đi mụ ta dặn là chỉ đi một lát là về ngay có nghĩa là
mụ sẽ đi rất lâu. Lợi dụng nhân dịp này Nàng Hai quyết định đem con bỏ trốn.
Trước khi bỏ trốn nàng ra dặn vườn mía con lợn cái cối phên gianh … là
khi mụ Dá Cói trở về có hỏi thì hãy đáp rằng không biết mẹ con nàng đi đâu. Cẩn
thận đến vậy nhưng nàng vẫn quên mất không dặn con gà mái đang bận ấp trứng ở
trên ổ. Không những thế nàng còn lấy của gà mái một quả trứng để mang theo. Cho
nên con gà mái hận nàng lắm.
Lúc Dá Cói trở về không nhìn thấy mẹ con Nàng Hai đâu cả nên hỏi khắp mọi
thứ mọi vật. Chúng đều trả lời là không biết. Nhưng khi Dá Cói hỏi đến gà mái
đang ấp vì tức giận Nàng Hai nên nó mách ngay là tói tạng tá tói tạng tá (đi đường
suối đi đường suối). Yêu tinh Dá Cói liền cưỡi lợn tức tốc đuổi theo.
Hai mẹ con Nàng Hai vừa kịp lội qua khỏi bờ bên kia suối thì Dá Cói đã
cưỡi lợn đuổi đến bờ bên này. Mụ gọi với theo sau lưng:
- Chồng nhỏ chồng bé của ta ơi đợi ta với!
Nàng Hai quay lại bảo:
- Bà ơi! Giặc đang đến đằng dưới hổ đang tới đằng trên. Chồng nhỏ của bà
chạy vội quá quên cả đem theo cái chum con lợn cái và mái gà đang ấp. Vì thế bà
hãy quay về để lấy đem theo!
Dá Cói tưởng là thật nên quay trở về để lấy những thứ mà Nàng Hai đã dặn.
Khi mụ đem những thứ đó đến bờ suối thì Nàng Hai lại tiếp tục nói:
- Bà hãy lấy chum buộc vào cổ lấy ổ gà buộc vào ngực còn con lợn nái thì
buộc vào chân. Bà buộc xong thì chồng nhỏ sẽ quạt khiến cho nước suối cạn để bà
lội sang.
Mụ Dá Cói lập tức làm theo lời của Nàng Hai. Nàng quạt về phía đầu nguồn
khiến cho nước suối cạn để Dá Cói lội sang. Nhưng khi mụ vừa đi ra đến giữa
dòng thì nàng lại quạt về phía cuối nguồn khiến cho lũ ầm ầm kéo về nước chảy
cuồn cuộn cuốn trôi chìm nghỉm mụ yêu tinh Dá Cói.
Thoát được khỏi Dá Cói hai mẹ con Nàng Hai đi mãi đi mãi thì tới một nơi
rất nghèo người dân ở đây khi nấu nướng toàn phải dùng nồi vỡ và chảo vỡ nên bị
gọi là mường Mỏ Té. Mệt quá nên hai mẹ con nàng nghỉ lại ở Mỏ Té một đêm. Sáng
hôm sau hai mẹ con lại lên đường đi tiếp tới một nơi nom xơ xác đìu hiu nên gọi
là mường Moong Quạnh. Ở nơi này hai mẹ con nàng chẳng nhìn thấy bóng dáng một
ai cả mà chỉ toàn nhìn thấy xương người phơi đầy khắp mọi chỗ. Đi đến cuối mường
thì mẹ con Nàng Hai bắt gặp một chiếc loỏng[10] nằm úp xuống đất bên trong phát
ra tiếng động. Nàng Hai lật loỏng lên thì thấy có một cô gái trẻ đang nấp ở
trong đó. Nàng Hai đỡ cô gái chui ra rồi hỏi chuyện. Cô gái trẻ kể cho nàng
hay: Mường Moong Quạnh nay đang gặp phải tai hoạ "quạ đen ăn thịt trẻ con
còn quạ trắng ăn thịt người già"[11].
Sẵn cây gậy sinh tử ở trong tay Nàng Hai quyết định sẽ giết lũ quạ để trừ
hoạ giúp dân mường Moong Quạnh. Trước khi lũ quạ kéo đến nàng bảo cô gái trẻ
còn sống sót hãy cùng nàng đi gom tất cả xương những người đã bị chết đem về xếp
tập trung vào một chỗ. Sau đấy nàng dùng đằng ngọn của cây gậy sinh tử để cứu mọi
người sống lại.
Cứu được mọi người rồi Nàng Hai mới hỏi khi nào thì bầy quạ đen quạ trắng
tìm đến. Mọi người nói cứ nhìn thấy khói bếp là chúng sẽ lập tức bay tới. Vậy
là nàng bảo mọi người hãy đi đốt một đống lửa. Khói lửa vừa mới bốc lên thì bầy
quạ đã kéo nhau tới chúng đông đến nỗi tiếng vỗ cánh ầm ầm tạo nên một cơn lốc
lớn. Nàng Hai liền lấy cây gậy sinh tử chỉ đằng gốc vào lũ quạ khiến chúng chết
hết không còn sót mống nào.
Dân mường Moong Quạnh vô cùng biết ơn cứu mạng của Nàng Hai nên đã đồng
lòng tôn nàng lên làm người đứng đầu và cùng nhau dựng một ngôi nhà lớn cao hai
mươi tầng lầu (hợn ho xạo hạn) để cho hai mẹ con nàng ở.
Tháng trôi và năm qua đứa con trai của Nàng Hai đã lớn đến tuổi biết ôm
gà đi chọi. Con gà con được nở ra từ quả trứng gà mà nàng đã mang theo nay cũng
đã trở thành một con gà chọi dũng mãnh. Đứa con trai của Nàng Hai đem đi chọi
đâu là thắng đấy. Mặc dù cuộc sống hiện đang rất sung sướng nhưng trong lòng của
Nàng Hai vẫn không nguôi nỗi niềm nhớ tới Tạo Hôm. Cho nên nàng dạy con hằng
ngày bế gà ra bờ suối uống nước thì vừa xui gà bới đất vừa hát rằng:
"Gà ơi hãy bươi
"Gà ơi hãy bới
"Nước đục chảy sang bờ bên kia để Tạo Hôm uống
"Nước sạch chảy ở bờ bên này để mẹ
ta dùng!"[12]
Tình cờ trùng hợp mường do Tạo Hôm cai quản và mường Moong Quạnh cùng đều
ăn chung nước của cùng một con suối. Vì thế khi con gà chọi bươi đất đã làm bẩn
đục nước suối chảy qua mường của Tạo Hôm. Thấy đang yên đang lành bỗng dưng nước
suối chảy qua mường mình bị bẩn đục Tạo Hôm bèn sai người nhà đi tìm hiểu xem
nguyên nhân tại sao. Người nhà đi rồi về kể lại chuyện đứa bé và con gà chọi
cho Tạo Hôm nghe. Tạo bán tính bán nghi trong lòng đoán rằng biết đâu đấy lại
là đứa con trai của mình.
Vậy là tạo đem theo quân lính đi tới bến suối của mường Moong Quạnh mong
tìm được Nàng Hai cùng đứa con trai. Nhưng khi tạo đem quân lính tới đó thì chẳng
thấy đứa bé và con gà chọi đâu mà chỉ thấy người trong bản ra suối tắm giặt và
lấy nước.
Tạo bèn bảo quân lính tạm lánh đi còn mình thì cởi quần áo đắp bỏ thành
đống giấu thanh kiếm vào trong đó rồi xuống suối tắm.
Trong lúc Tạo Hôm đang bơi đang tắm thì đứa bé lại ôm gà ra và hát. Tạo
Hôm vội chạy tới gần và giữ đứa bé lại. Tạo giơ ngửa lưỡi thanh kiếm lên và
nói:
- Nếu đúng là con của Tạo Hôm thì hãy đứng lên trên lưỡi kiếm này. Còn nếu
không phải là con của Tạo Hôm thì từ nay không được cho gà bới làm đục nước ở bến
dưới.
Đứa bé không hề sợ sệt mà rất dạn dĩ. Nó lập tức đứng ngay lên trên lưỡi
kiếm rồi vòng cánh tay ôm chặt lấy cổ tạo. Biết chắc chắn đấy là con của mình tạo
dặn đứa trẻ trở về nhà với mẹ còn tạo thì đem quân lính quay trở về mường nhà để
còn sai người cùng mình đem lễ sang đón mẹ con Nàng Hai một cách đường hoàng.
Nào ngờ khi tạo đến rước vợ và con thì Nàng Hai đã dặn dân mường Moong
Quạnh không được nói cho tạo biết mẹ con nàng đang ở đâu. Dân mường Moong Quạnh
cũng không muốn để cho nàng đi nên nghe theo lời dặn của nàng. Khi tạo hỏi thăm đến ai ai cũng đều lắc đầu
nói rằng không biết.
Nhưng có một bà cụ sống gần ngôi nhà lớn cao 20 tầng lầu mà mẹ con Nàng
Hai đang ở sau khi vô tình biết mọi chuyện đã quyết định giúp cho cả nhà Tạo
Hôm Nàng Hai gặp nhau. Bà đi ra ruộng nhặt rau phắc vén (rau cỏ bợ) rồi làm cơm
mời Tạo Hôm đến ăn. Bà xếp đặt cho Tạo Hôm ngồi xoay mặt về phía ngôi nhà lớn
20 tầng lầu. Bà dặn tạo khi ăn rau phắc vén thì không được cuộn lại sợi dài thế
nào thì phải để nguyên như thế. Sợi rau phắc vén quá dài khiến cho Tạo Hôm khi
ăn cứ phải ngửa cổ lên. Vậy là tạo nhìn thấy mẹ con Nàng Hai đang đứng ở tận
tít trên tầng lầu thứ 20. Tạo Hôm mừng rỡ khôn xiết bèn xin dân mường Moong Quạnh
cho phép được chính thức cưới Nàng Hai. Tạo hứa vẫn sẽ để nàng ở lại làm người
đứng đầu mường Moong Quạnh. Còn chàng thì sẽ đứng ra làm tạo chăm lo cho dân
cai quản chung công việc của cả hai mường.
Và bắt đầu từ đấy vợ chồng Tạo Hôm Nàng Hai đã được xum họp. Họ cùng con
trai sống một cuộc đời hạnh phúc bên nhau.
[1] Nguyên văn phiên âm tiếng
Thái: "Nạng chí chọn dơ tắm/ Nạng chí vịn dơ hị nơ!".
[2] Có người lại kể rằng là mụ
yêu tinh Cang Cói. Tuy nhiên cho dù gọi là Cang Cói Dá Cói hoặc Phi Ca Đạ thì đều
là cái tên người Thái dùng để chỉ chung loài đười ươi. Còn có vùng khi kể câu
chuyện này thì yêu tinh Dá Cói lại được gọi bằng cái tên là Dá Bái (hoặc Dá
Vái).
[3] Nguyên văn phiên âm tiếng
Thái: "Chúi mé mu đăm thả láng dá nà kin ỏi dá/ Chúi mé mu báng thả láng
dá nà kin ỏi dá!". Còn chúi là từ tượng thanh người dân dùng để đuổi lợn.
[4] Nguyên văn phiên âm tiếng
Thái: "Cọ đi cọ đi/ Chịn ma ha pa mạ xú/ Cọ đi cọ đi!".
[5] Nguyên văn phiên âm tiếng
Thái: "Lan ók đảy lụk nhịnh/ Hẳư dá kin hôộc kin hại/ Lan ók đảy lụk chại/
Hẳư dá au hệt phô nọi phô nói dá ởi!".
[6] Nguyên văn phiên âm tiếng
Thái:"Phô nọi phô nói/ Dá pay ít í lè tảu/ Dá pay ít ảu lè mạ? Phô nọi phô
nói/ Cói dú hợn thả dá nơ!".
[7] Nguyên văn phiên âm tiếng
Thái:"Phô nọi phô nói/ Cói dú hợn thả dá nơ/ Dá pay hứng pay hừng chắng mạ!".
[8] Nguyên văn phiên âm tiếng
Thái:"Chị tạng côốc lè tai/ Chị tạng pai lè tứn".
[9] Nguyên văn phiên âm tiếng
Thái:"Pặt pay tạng lả nặm lè nặm mả/ Pặt pay tạng hô tá lè tá hẻng".
[10] Loỏng: Là một loại đạo cụ
được đục trực tiếp từ thân cây gỗ hình lòng máng dài khoảng từ 5 - 7m. Được
dùng làm đạo cụ phục vụ múa toỏng loỏng trong lễ tết cốm diễn ra vào tháng chín
âm lịch.
[11] Nguyên văn phiên âm tiếng
Thái: "Ca đăm kin lụk ón/ Ca đón kin lụk cụn!".
[12] Nguyên văn phiên âm tiếng
Thái: "Cáy ả khắc khắc/ Cáy ả khế khế/ Nặm khún pay máng nặư hẳư tạo hôm tạo
hai kin/ Nặm xăư mạ máng nị hẳư ý cu kin!".
5 - Truyện cổ dân gian Thái
- Địa danh liên quan đến truyền thuyết
Nàng Han.
Chuyện kể lại rằng trước đây ở khu vực Bản Mấn (Phong Thổ) bây
giờ có một rừng bưởi (đung pục) rất ngon. Ở ngay trong rừng bưởi đó có một mỏ
nước muối (bó cơ) chảy ra liên tục dân sống xung quanh đấy thường xuyên đến lấy
nước mỏ để đem về dùng thay muối.
Vào một ngày giặc tàu ô đưa quân sang hòng cướp bóc của cải của các dân
tộc thiểu số sống ở vùng biên. Cờ của lũ giặc tàu ô này có màu vàng và màu đỏ
nên mọi người còn gọi chúng là Xớc cợ lơng cợ đeng (Giặc cờ vàng cờ đỏ). Giặc
tàu ô kéo đến gần khu vực rừng bưởi và đóng quân trú ở trên một ngọn đồi. Dân bản
bèn gọi đồi mà chúng đóng là Pom Hán (Đồi Hán). Giặc tàu ô rất dã man tàn ác
chúng cướp lấy hết tất cả lương thực súc vật gia cầm ... khiến cho dân lành ở
vùng biên sống rất khổ sở.
Đúng lúc đó thì hai chị em Nàng Han cưỡi chung một con voi đưa quân lính
người Kinh lên tới tận nơi đây để giúp dân đánh đuổi quân tàu ô. Nàng Han cho
quân lính đóng đối diện với Pom Hán cách nhau con suối Nặm Pạt và dân bản gọi
chỗ nàng Han đóng quân là Pom Keo (Đồi Kinh).
6 - Truyện cổ dân gian Thái
- Ý Cáy Ý Pết
Chuyện kể lại rằng ngày xưa có một cặp vợ chồng nọ lúc nào cũng nói năng
khắc khẩu với nhau. Thường thì ban ngày chồng đi làm ruộng hoặc làm nương còn vợ
thì ở nhà lo liệu cơm nước.
Một hôm nhân khi chồng dắt trâu đi ra cày ruộng. Người vợ liền bảo đứa
con gái nhỏ tên là Ý Pết đi theo cùng cha xem có con ếch nào thì bắt đem về để
nấu bữa trưa.
Ý Pết theo cha ra ruộng mà không để ý chiếc giỏ đựng mình đem theo đã bị
thủng một lỗ ở dưới đáy. Và cứ thế cha thì cày đi trước Ý Pết buộc giỏ ở ngang
hông lẽo đẽo theo sau. Đi được mươi đường cày thì cha bắt được một con ếch và
đưa cho Ý Pết. Ý Pết cho ếch vào giỏ giỏ thủng nên ếch tìm cách chui thoát được
ra ngoài. Khi cày quay lại cha Ý Pết lại bắt được con ếch cũ và đưa cho Ý Pết.
Đúng như thế tất cả là 9 lần nên cha Ý Pết cứ ngỡ là mình đã bắt được 9 con ếch.
Ông bèn bảo con đem ếch về cho mẹ nướng làm bữa trưa. Cũng may ở lần bắt được
thứ 9 ông đã bẻ chân con ếch nên nó không chui ra khỏi giỏ được nữa.
7 - Truyện cổ dân gian Thái
- Truyện cổ dân gian Thái - Ý Cú.
Xưa kia đã từ lâu lắm rồi có một người đàn ông tên là Ý Cú vừa lười lại vừa không được thông minh cho lắm thường
xuyên bị dân bản chê cười là đần ngốc. Mọi việc trong nhà của Ý Cú đều do người
vợ đảm đương gánh vác. Sáng nào vợ giục mãi Ý Cú cũng mới chịu dậy.
Một buổi tối vợ Ý Cú bảo:
- Ngày mai anh chịu khó dậy sớm đi phát nương em ở nhà nấu cơm lên nương
muộn hơn một chút. Nương nhà người ta thì đã được đốt rồi đấy còn nương nhà
mình thì vẫn chưa phát được là bao.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét