(Ghi chép về Bản cũ, Mường xư
21 - BẾN TẠ BÚ
(Tặng:
Nguyễn Văn Huân)
Bến
Tạ Bú một sớm mai mình đến
Nước
sông sâu xanh biếc tự đáy lòng
Hòn
cuội trắng soi hồn ta tỏa nắng
Theo
ngựa thồ sang tận Ít Ong
Ơi thác Chiến, có xuôi thuyền đuôi Én
Bản Pha Khinh ai đó hẹn ta về
Đêm nay "lẩu xiêu" vui cạn chén
Bếp nhà sàn tiếng "Pí" thổi say
mê
Bến Ta Bú nào có ai ra tắm
Để vừng trăng đắm đuối giữa dòng
Mình là trai bản Phiêng Ngùa lạ lẫm
Đến bến thuyền xuống ngựa ngẩn ngơ trông.
Nguyễn Khôi
"Nước Sơn La ma Tạ Bú" (cũng có
người nói ma Hòa Bình)
22 - CÂY ĐÀO TÔ HIỆU - AI TRỒNG ?
Ở khu di tích bảo tàng "nhà tù Sơn
La" trên đồi Khau Cả, áp sát dinh Công Sứ (thời Pháp thuộc) nay là trụ sở
UBND khu tự trị Tây Bắc, rồi tiếp là trụ sở UBND tỉnh Sơn La.
Ở cách cổng nhà tù xưa một quãng có một ô
nhỏ "Izôlê" (Isolé - nơi cách ly)rộng khoảng 4m2, hình tam giác vuông
- xưa có cửa là một phiến gỗ lim dày, vừa để 1 người lọt ra vào. "I
đôlê" ở ngay bức tường sau khu thường phạm, bước chân ra là đường hành
lang tròn (đường Rông - Ronde).
Năm 1940, nơi đây nhốt 1 người tù Cộng Sản:
Anh Tô Hiệu (30 tuổi) nguyên Bí thư Thành ủy Hải Phòng Đảng Cộng sản Đông Dương
- quê Xuân Cầu, Văn Giang, Bắc Ninh. Sau những trận đòn thù của thực dân Pháp ở
các nhà tù như Côn Đảo, Hỏa Lò... anh Tô Hiệu đã bị "lao" nặng nên bị
nhốt cách ly ở "I zôlê"- lúc này anh Tô Hiệu là Bí thư chi bộ nhà tù,
tuy bị đau nặng, lại phải nằm bệ ci ment, nhưng anh vẫn làm việc hết mình... đến
ngày 16/7/1944 thì anh trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay các đồng chí của
anh.
Nhà tù Sơn La do thực dân Pháp xây để nhốt
tù chính trị, tường cao, sàn sân láng ci ment, 1 ngọn cỏ không thể mọc được, tường
và sân, kể cả đường "nông" đều dầm đá dăm + ci ment (bê tông) dày
hàng nửa mét (để đề phòng tù nhân đào hầm tẩu thoát). Luật lệ canh gác nghiêm
ngặt, thường có lính gác đi lại liên tục ngày đêm nên không ai có thể đào bới
trồng cây trong sân nhà tù.
Sau Cách mạng tháng 8, khoảng năm 1948 (do
các đ/c ở đây kể lại) khu di tích nhà tù bị bom Pháp đánh sập, bị bỏ hoang...
Sau năm 1954 (hòa bình lập lại) thủ phủ
khu tự trị Thái Mèo đặt ở Chiềng Ly (Thị trấn Thuận Châu), tỉnh lỵ Sơn La cũ
(Chiềng Lê là một thành phố chết và đổ nát)... thuộc 2 xã Chiềng An, Chiềng
Cơi, huyện Mường La (Châu Mường La)... mãi tới năm 1962 mới thành lập thị xã
Sơn La: Các cơ quan của khu và tỉnh mới chuyển từ Thuận Châu về thị xã , nhà cửa
mới được xây dựng, khu nhà tù vẫn là một phế tích, nay là Thành phố.
Năm 1958, nhà văn Nguyễn Tuân đi thực tế ở
Sơn La, trong tùy bút "Sông Đà" nổi tiếng, ở trang 129 - 134, ông có
viết thiên "Đào cộng sản" nhân sau khi đến thăm khu phế tích nhà tù
Sơn La xưa "tôi dạo hết sân ngoài sân trong, nhìn tường đá, nhìn xi măng cốt
sắt, nhìn cây. Có những cây hao hao cây Xoan, và mấy gốc muỗm. Thế thôi. Tôi biết.
Ở đây còn có cây đào, cây đào ông Tô Hiệu"... Rồi nhà văn xuống khu vườn ổi
chân đồi Khau Cả viếng mộ anh Tô Hiệu:
"Đứng trước mộ đ/c Tô Hiệu nơi rừng ổi,
tôi bảo tôi "nơi nghĩa trang tiễn biệt này, cần có đào".... Đối với bậc
lãng mạn cách mạng, lấy hoa đào để thực hiện lên cái vui hoa quả XHCN của Sơn
La - Thủ phủ Tây Bắc ngày nay, thấy cần có bóng hoa ấy trên chữ vàng bia
đá".
Nhà văn Hoàng Công Khanh (1921 - 2010). Một
bạn tù của anh Tô Hiệu, trong cuốn "Hoa nhạn lại hồng" NXB Văn Học
1992, trang 157 có viết "sau các trận bom Pháp, nhà tù Sơn La chỉ còn cái
cổng và cái hầm sâu. Trên quảng đường "rông" gần "I đôlê" bỗng
xuất hiện một cây đào rừng (đào phai không ăn quả được) nó lớn nhanh và hoa phớt
hồng, sinh thời nhà văn Nguyễn Tuân nhân một dịp lên thăm qua thăm vết tích nhà
tù thấy cây đào mọc bên cạnh phòng giam (xưa) anh Tô Hiệu đã vui miệng nói đó
là cây đào Tô Hiệu".
Rồi truyền miệng, báo chí đăng tải, rồi Bảo
tàng Sơn La gắn biển "cây đào Tô Hiệu" một huyền thoại thành hiện thực
ca ngợi một chiến sỹ cộng sản.
Năm 1980 - 1981 tỉnh mới tu bổ lại thành
khu di tích bảo tàng cách mạng.
Nguyễn Khôi tôi lên công tác Sơn La 21 năm
(1963 - 1984) có cái may mắn: Hồi 1966 - 1970 công tác ở Ban Nông nghiệp tỉnh ủy
Sơn La, 1978 - 1984 làm thư ký ở văn phòng UBND tỉnh Sơn La, nơi ở và nơi làm
việc cách 1 bức tường là sang khu di tích nhà tù, cách chỗ gọi là "cây đào
Tô Hiệu" vài chục mét.
Nguyễn Khôi tôi cũng có cái may mắn đã từng
được đưa các bác Trần Huy Liệu, Văn Tân đi thăm lại nhà tù... và được nghe các
bác kể chuyện đủ thứ về nhà tù. Năm 1984 tôi về công tác ở VPQH và HĐNN, có điều
kiện cận kề bác Trường Chinh, Nguyễn Hữu Thọ, Lê Thanh Nghị, Xuân Thủy... lại
thường xuyên giúp việc bác Lê Thanh Nghị nên có điều kiện hỏi về chuyện nhà tù
Sơn La (vì bác Nghị hồi trước 1945 cũng bị tù ở đây 5 năm cùng các bác Nguyễn
Lương Bằng, Tô Hiệu, Trần Huy Liệu, Lê Đức Thọ, Xuân Thủy... bác Xuân Thủy, hồi
sau làm Phó chủ tịch Quốc Hội).
Qua câu chuyện về cây đào "Tô Hiệu"
thì bác Lê Thanh Nghị, Xuân Thủy đều bảo thời trước 1945, nhà tù chưa bị phá
thì không thể trồng cây gì ở trong đó được. Sau này, đó là chuyện của Nhà Văn
Nguyễn Tuân trong tùy bút Sông Đà với mấy câu lấp lửng "Cây đào ông Tô Hiệu",
rồi sau đó được báo chí "môđiphê"(modifier-làm thay đổi) như khẳng định...
câu chuyện thực là thế, và có lẽ cũng chỉ nên nói là "cây đào bên buồng
giam Tô Hiệu". Cây đào này (bên cạnh còn nhiều cây đào khác) hiện nay được
Bảo tàng Sơn La gắn biển "cây đào Tô Hiệu"... vậy thực là do ai trồng?
Đó là do chim rừng, gió núi đem những quả đào dại (đào rừng) mọc đầy trên đồi
Khau Cả gieo vào các khe nứt trên sân nhà tù xưa đã vỡ nát, rồi nảy mầm mọc lên
thành cây... tất cả đào Sơn La hầu hết là "trời trồng" (mọc tự nhiên)
không phải ai tưới tắm gì cả. Hậu thế, do quá yêu tấm gương hy sinh của người
chiến sỹ cộng sản Tô Hiệu nên đã gán cho anh thêm cái "tình": Ho lao
rũ rượi chết đến nơi rồi mà vẫn gieo hạt, trồng đào nở hoa cho các thế hệ mai
sau. Từ văn học (tùy bút) rồi thành huyền thoại, âu cũng là một tấm lòng, không
nên bàn cãi qúa nhiều. Vấn đề là cất cái biển đã ghi tên kia đi... (Rendez
à César ce qui appartient à César)./.
23 - NHÀ SÀN THÁI
Nhà
sàn của người Thái - Sơn La - Tây Bắc
"hướn hạn phủ táy" là một công trình kiến trúc tài hoa, hòa đồng
với thiên nhiên, trời đất cùng vạn vật, có 2 loại:
-
Nhà sàn khung cột: bộ khung được gá lắp từ các bộ phận rời, bắt đầu từ việc
chôn cột (nhà cột chôn - nghèo) "hươn chim mạy".
- Nhà sàn vì kèo "vì cột": Kèo,
cột, xà ngang đã được lắp ráp thành các đơn vị "vì kèo" dựng nối các
vì bằng các xà dọc (tiến từ hườn khứ sang kẻ khứ (quá giang = khứ) có hai trụ để
đỡ đòn tay (pe hản) là con cung. Đó là loại nhà "hườn kè khang" (nhà
kê hạ).
Nhà sàn Thái bao giờ cũng làm số gian lẻ,
2 đầu hồi - "tụp cống" khum khum như mai Rùa, gắn với truyền thuyết
thủa khai thiên lấp địa, thần Rùa "Pua tẩu". Dạy người Thái làm nhà
theo hình Rùa đứng.
"Khửn song phái/ cái song đay" -
mở 2 cửa/ đi 2 cầu thang là "tang chan" và "tang quản".
"Tang chan" ở cuối nhà bên trái dành cho phụ nữ. "Chan" là
phần nhà sàn được nối dài ra ngoài trời. Đây là nơi đàn bà trong nhà ngồi nghỉ
ngơi chơi lúc nhàn rỗi, thêu thùa, cầu thang phía này thường 9 bậc (9 vía).
Cầu thang đầu bên phải "tang quản"
dùng cho nam giới; 7 bậc (7 vía).
Có 2 bếp lửa: "chik pháy" phía
tang quản dành cho người già. Bếp chính phía tang chan dành cho nấu nướng, phụ
nữ. Bếp lửa nhà sàn ở giữa nơi núi rừng âm u được coi như "trái tim bốc lửa"
sưởi ấm nuôi dưỡng cả về vật chất, tinh thần cho cả nhà.
Gian "quản" có bàn thờ tổ tiên
"hỏng hóng" và cột thiêng "sau hẹ". Trên cột thiêng có treo
hình Rùa bằng gỗ 3 bông lúa "sam huống khẩu" và 3 nhánh rau "thì
là" "sam hóm chik" - đó là biểu tượng của tô tem giáo cùng bóng
dáng thuyết thiên - địa - nhân.
Nhà sàn Thái vừa trang nhã vừa chắc chắn:
Hươn đi tẳng cang tèn
Hươn én tẳng cang vên
Lốm luông pặt bấu chại
Lốm hại pặt pấu pay.
(Nhà tốt dựng nơi cao ráo
Nhà đẹp dựng giữa mường
Gió to thổi không xiêu
Bão lớn không lay động).
* Sự tích cái Khau cút (hoa nhà)
Theo Quắm tố mướng (kề chuyện mường)
Thì: Cuộc thiên đi/ đi đường thuyền sợ
rơi/ phải chuồn theo đường con don, con dím...
Người Thái từ xíp xoong păn na (Vân Nam)
đi theo dọc sông Hồng (Nậm Tao - Sông Thao) ra đi vào cuối tuần trăng. Họ đi cứ
đoán lũ nhìn vào mặt trăng khuyết ở cuối dãy núi, họ hẹn nhau, hễ ai đến được
phương đất nào khi làm nhà thì dựng trên đầu hồi nhà (nóc) một cái dấu hình mặt
trăng khuyết để nhận ra đồng tộc - và cái đó gọi là "khao cót" và gọi
chệch là "khau cút" = sừng cuộn.
Theo tiếng Thái "khao" là trắng,
cót là ôm có ý nghĩa là mối hận ly hương. Cái mô típ trang trí nghệ thuật
"mặt trăng khuyết" này còn có ở cửa sổ, khăn Piêu...
Khau cút vẽ vân sen/ đầu kèo vẽ vân én/
mái nhà xén chân gianh bằng rui: Đó là tiêu chí nghệ thuật về nhà sàn Thái.
Khau cút là 2 thanh gỗ đóng chéo hình chữ
X trên đòn nóc "tiêu bôn" trước hết là để chắn gió "pảy lốm"
nẹp 2 mái gianh 2 đầu hồi nhà. Những nhà tầng lớp trên xưa còn thêm bông sen
cách điệu ở 2 giao điểm 2 tấm gỗ và 8 hình trăng khuyết hướng vào nhau so le
trên khau cút.
Có nhiều cách hiểu về khau cút:
Đó là cặp sừng trâu cách điệu (văn minh
lúa nước); Đó là những búp cây Guột (rau dớn)... nhìn thấy nó là ta nhớ bản nhớ
mường.
Trên bậu cửa thường chạm hình đôi Thuồng
luồng (tô ngựa) linh vật làm chủ trên sông suối, biểu tượng cho sức mạnh và gia
đình hạnh phúc.
* Các loại khau cút:
- Khau cút mải: Là dạng đơn giản nhất chỉ
là 2 thanh tre bắt chéo vào nhau, là dấu hiệu nhà của phụ nữ góa bụa (me mải).
- Khau quai (sừng trâu), khau pẻ (sừng
dê), cút chim may (trăng khuyết) cút nêm (cút lá tre) là dấu hiệu của nhà bình
thường.
- Khau của pụa (khau cút Vua) dấu hiệu nhà
Quan lại, quý tộc gồm 2 miếng ván dài trên 1m, phần chót có đóng 2 miếng gỗ
ngang, chia 5 nhánh, mỗi nhánh có gắn hình hoa thị theo số đếm của luật tục làm
nhà.
- Khau cút căm (khau cút vàng) dưới có
thanh gươm, là dấu hiệu của Nhà quý tộc "quan võ".
- Khau cút hoa sen: Nhà quý tộc lớn.
Bố trí nội thất: Tiếp liền vách gian buồng
thờ tổ tiên (hóong) là buồng ngủ của chủ nhà, phía chân thường đặt thêm bếp lửa
để gia đình sum họp, sưởi ấm... chăn đệm chất đống đặt ở phía đầu ngủ.
Vị trí ngủ của các thành viên trong gia
đình: Gian giữa "xáo hạch" và "hỏng ly" là gian khách đàn
ông ngủ. Đối diện phía dưới là nơi con trai chưa vợ ngủ. Kề cột xáo hạch là vợ
chông chủ nhà ngủ. Kế tiếp là vị trí Bố mẹ chủ nhà ngủ, tiếp là vợ chồng con
trai ngủ, tiếp là nơi vợ chồng con gái ngủ, rồi đến con gái chưa chồng ngủ.
Con rể không được vào khu vực bố mẹ vợ ngủ,
con dâu, con rể không vào khu bố mẹ chồng ngủ. Bố mẹ chồng không vào khu con
dâu ngủ.
Sợi dây "xảo lỏng luông" là ranh
giới (sợi dây linh thiêng) nên người ta chỉ vắt khăn mặt, khăn Piêu lên sợi dây
này.
Tuyệt đối không vắt quần áo, tối kỵ là váy
áo phụ nữ.
Con gái chưa chồng
Vợ chồng con rể
Vợ chồng con trai
Bố mẹ
(ông bà)
Vợ chồng chủ nhà
Khách đàn ông
* Các vị trí khác:
- Nơi để hạt giống (giàn 2 bếp)
- Nơi để ống nước: Dựa vào vách bên phải
(thường ngồi quay mặt vào bếp)
- Nơi để khung dệt vải: Bên phải sàn xia
phía trong nhà hoặc bên trái sàn xia phía ngoài nhà.
- Nhà kho: Ở dưới gầm sàn
Lễ lên nhà mới: mời Lúng ta (ngoại) châm lửa
nhóm củi ở bếp mới, mời mo đọc bài xua đuổi tà ma
24 - GÁI THÁI
Cảm tưởng đầu tiên khi gặp "gái
Thái" là nõn nà, sạch sẽ, đẹp, hấp dẫn cả dáng lẫn da.
Trang phục đẹp "độc đáo" tạo
dáng đi tha thướt, uyển chuyển, làm nổi bật các đường cong gợi cảm nhưng vẫn
kín đáo, thắt đáy lưng ong. Tính tình dịu dàng, hiền thục, dễ gần gũi, thực
thà, chất phác, nói năng vừa phải.
Tình cảm: chân thành, yêu tha thiết, hoạt
động tình dục mạnh mẽ, đứng tuổi mà bộ ngực vẫn đầy đặn.
"Gái Thái tóc thơm, da trắng, thịt mềm
Đôi bầu nhật nguyệt như mộng ước
Ru hồn trai lên cõi trời tiên"
Thông minh, hoạt bát, ham học hỏi và nhanh
tiếp thu cái mới.
Sinh hoạt cộng đồng: dám phát biểu chính
kiến, hay hát và hát hay, múa (xòe) giỏi.
Chăm chỉ đảm đang, nuôi con khéo, dạy con
ngoan. Không đánh con, ít xảy ra cãi nhau (to tiếng), không ăn cắp, không nói dối
(ba vẹo).
Có tính bình đẳng bình quyền (không tự
ti), có chí khí vươn lên (danh ca có nghệ sĩ ưu tú Vi Hoa; chính trị cấp cao có
Tòng Thị Phóng - ủy viên bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội...)
Nhận xét (đánh giá) về "gái
Thái" của chính các chàng trai Thái qua "Tản chụ xiết xương"
(tâm tình người yêu) với cái lối nói "xiết" (kiểu nói kháy, hơi cường
điệu, phóng đại "quá" lên một chút) đã ca ngợi cô gái có vẻ đẹp thông
qua lao động:
"Xai pánh nhịp lang chủm pên hún nộc
dung / phung lang he pến hún luống bin xẻo/. Lả tắt kẻo pên chớp lao vi"
(Em khâu vó nên hình chim công /vá chài
thành hình lượn con rồng) đưa nhát kéo thành Sao Tua Rua/.
Cô gái xinh xắn ở trên sàn khuống khiêm
nhường đáp lại:
"Khuống phủ khuôn nhinh khuống nọi,
khống ai khái
Khuống pai chán dú ngăm nga phả
Báu đáng nả chụ pươn má cha đău ná"
(Khuống của em, Khuống nhỏ lại xiêu vẹo ở
bên sàn ngoài, cớm cành cớm nguội chẳng xứng mặt chàng yêu của người sang
chơi).
Người Thái có câu "au mia bấng me
nai" (lấy vợ thì xem bà mẹ cô ta) ý là "mẹ nào con ấy"...từ lên
sáu, lên bảy, bé gái đã được mẹ dạy tập nhặt bông, cán bông, quay xa, kéo sợi,
cầm kim chỉ để khi lớn là thông thạo dệt vải vá may, tự tay trồng bông, dệt vải,
nhuộm màu, cắt may quần áo, làm chăn gối đệm màu...Phụ nữ Thái còn giỏi trồng
dâu, nuôi tằm, ươm tơ dệt thổ cẩm đẹp, thêu piêu...coi đây là các nghề phụ làm
ngoài giờ ra ruộng, lên nương, nuôi dạy con cái. Đó là những bàn tay tài hoa,
khéo léo:
"Sai pánh khuổn mư sại lẹo chum bok
cai
Hai mư khoa chum bơk Mường Hỏ
Năng dóng dỏ nhịp lụa pên pik bin lá"
(Em úp tay trái nở hoa đào
Ngữa tay phải thành hoa Mường Hỏ
Khép ngồi khâu lụa thành (chim) vỗ cánh
bay.
Sự chăm chỉ của các cô gái Thái thức khuya
dậy sớm trên khung cửi từ canh ba, canh tư đến tang tảng sáng mới rời khung cửi
đi nương, ra ruộng.
"Tứn tắm húk kem bươn hai
Tứn tắm húk lai kem bươn hai póng
hung"
(Dậy dệt thổ cẩm cùng trăng sáng
Dậy dệt vải hoa cùng trăng tỏ rạng đông).
Người phụ nữ Thái quên ăn quên ngủ làm lụng
tận tụy vì chồng con, xã hội... đã tạo ra các sản phẩm thiết thực quý giá...
các chàng trai Thái luôn mơ ước kiếm được cô vợ đảm đang, qua lời hát "khắp"
đã lý tưởng hóa về việc nàng thêu khăn đào tặng chàng:
"Lả tắm phải pên póc nong xe
Pánh tắm pé pên khoáng lái lủ
Chụ tắm khẳm pên khoáy lai lương
Cốn táng phương lướt le chăử hảy".
(Em dệt sợi thành vóc hoa dâu
Em dệt tơ thành gấm hoa vân chéo
Dệt thổ cẩm rực rỡ hoa văn
Ước được em thêu dệt khăn đào).
Như vậy: Gái Thái với vẻ đẹp hình thể (vào
loại nhất ở nước ta) thì cái đẹp bên trong, vẻ đẹp nội tâm quả là các cô nàng
xinh đẹp để cho ta chiêm ngưỡng và yêu thương hết dạ.
8/3/2012.
25 - PÍ PẶP (1)
Chàng trai Thái tỏ tình với người yêu bằng
tiếng sao trúc (pí pặp) được nhà thơ Lò Vũ Vân đặc tả bằng sáu câu thơ ngắn với
36 con chữ rơi thánh thót rót vào lòng cô gái:
Tiếng Pí Pặp lảnh lót
Rơi xuống nhà sàn em
Nhà sàn em tỏa sáng vừng trăng
Tiếng Pí Pặp nỉ non đêm ngày
Trải thảm lên thang gỗ chín bậc
Rơi vào đáy tim em.
Lò Vũ Vân
_________
(1) Pí Pặp: Sáo trúc nhỏ
Pí = sáo "páu pí xáư hu quai" thổi
sáo vào tai trâu (đàn gãy tai trâu)
Pí láo = sáo trúc dài
* Nhà thơ Lò Vũ Vân (19 - 8 - 1943) quê bản
Noong Đa, Bắc Yên. Ở tổ 8. phường Tô Hiệu. TP Sơn La.
BÌNH: Một tứ thơ lạ, ý rất xưa mà đủ cả
tình, cảnh, sự - đủ cả nhạc, họa... thật là độc đáo đến lịm người.
26 - TÊN MỘT SỐ MÓN ĂN THÁI
Người Thái có câu "dệt kin xấư xốp
nhăng báu hụ" - làm ăn vào miệng còn không biết thì mọi lời nói chữ nghĩa
cũng chỉ là "tô xư tai" (con chữ chết) mà thôi. Theo Vi Liên:
1. Căm khảu (Phần về cơm):
Khảu nửng (cơm xôi), khảu lam (cơm lam),
khảu tổm (bánh chưng), khảu chảo (cơm thổi), khảu canh (cháo), khẩu chí (cơm nướng)...
Khảu bái pa (cơm cá), khảu bái sáy (cơm độn
trứng), khảu bái bay (cơm độn trám đen), khảu bái cưởm (với trám xanh), khẩu
bái nậm ỏi (với mật), khẩu nhọm (nhuộm các màu), khảu qua mắn có (độn sắn), khảu
qua khảu phảng (độn kê), khẩu qua li tổm (với ý dĩ), khảu qua phứa hom (khoai
thơm)...
2. Căm chảm (các loại chấm).
* Le cưa khao (muối trắng), le ướt cưa (muối
ớt).
* Các loại "chéo": Chéo khinh
hom (gừng), chéo ướt cưa (ớt tỏi), chéo báư líu (lá chanh), chéo hom chi lang
(húng chó), chéo inh ki (húng) chéo hom kíp (tỏi), chéo hom pẻn (mùi tàu), chéo
phắc chậu (sả), chéo thúa nau (đỗ tương), chéo pa (cá), chéo pu (cua), chéo mẹ
(sâu măng), chéo non tó chéo manh i (nhộng,
ve), chéo đẻ mọn (nhộng tăm).
* Các loại mắm: Mẳm ca (cá), mẳm nước, mẳm
khụa (nòng nọc), mẳm mẹ (sâu măng), mẳm co đường Pừng (nhộng cây móc), mẳm manh
ti (nhộng ve), mẳm manh po (nhộng cánh cam), mẳm tắc ten (châu chấu), mẳm pu
(cua), mẳm non tó (nhộng ong), mẳm manh đa (cà cuống), mẳm tô niểng (niềng niểng).
* Các loại nước chấm:
Nặm xổm đanh (măng chua), nặm xổm má xim
(quả xím), nặm xổm mák (quả bứa), nặm xổm má liu (chanh)... kham bong (quả me),
nặm mắm (nước mắm), nặm tôm (mắm tôm), pảnh van (mì chính).
3. Căm kin (phần về các món ăn):
* Phau (đốt) - chí (nướng)
Các món nướng (pỉnh): Pỉnh họn, pỉnh tộp
(cá), pỉnh ho (gói), pỉnh mịnh (hơ), pỉnh mản (xiên), pỉnh mản xót (xiên miếng
to).
* Các loại lam: Lam nhứa phặc (thịt nạc),
lam nhứa hạp hạ (thịt bạc nhạc), lam phắc (rau), lam nó (măng), lam tô họk (con
sóc), lam tô ổn (con dúi).
* Các loại "mốc" cá:
Gói lá vùi tro nóng: Móc tong (lá), mốc ố
(ủ), mốc nhứa đảng (thịt khô), mốc cay (rêu đá), mốc pho, mốc ốt, ...
* Các loại Ók gồm:
Hầm cách thủy: ók năng min, ók nhứa đảng
(thịt chó), ók cay (rêu đá), ók tau (tảo), ók bon, ók ốt...
* Các loại nhọk (nghiền nhuyễn): Nhọk mák
khừa (cà), nhọk mák thú (đỗ), nhọk năng (da), nhọk nhứa (thịt).
* Các loại mọk (tẩm bột hầm cách thủy):
Mọk cáy (gà), mọk pa (cá), mọk nhứa (thịt),
mọk tô pụng (diều hâu), mọk tô hơn (don), mọk tô mển (dím), mọk cay (rêu đá), mọk
hết (nấm), mọk mắk mư (quả chua ngọt).
* Các loại pho (đùm lá vùi nướng):
Pho hết côn (nấm rơm), pho cốp (ếch), pho
hết hẹk (nấm hương), pho hết khôn cày (nấm da), pho chương tọng (lòng), pho pa
(cá).
* Các loại nửng (xôi) "đồ":
Nửng táo, nửng xá - đíp (chín tới), nửng
pa (cá), nửng phắc kén (rau khúc), nửng man ca (búp sự), nửng pưới (nhừ), nửng
nhứa (thịt), nửng mák buốp (mướp), nửng mák pi (hoa chuối), nửng dúak pi (nõn
cây chuối rừng)...
* Các loại quả:...
* Các loại rau: Đều đem "đồ" mới
ăn, phắc cát úp (bắp cải), phắc cát mong (cải xanh), mướk (bồ công anh), khỉ
táu (diếp cá), noók (rau má), ngỗm (xương sông), cát đon (cải bẹ), cát choong
(cải xoong), ót (rau ngót), xô-ók (dọc mùng), cút nặm (dớn), phắc ở lợt (lá lốt),
phắc ven.
4.
Các loại lá (lá non và ngon):
Bâư mắn co (ngọn sắn), bâư ổi, bâư ngoa, bâư
đứa.
5. Các loại măng ăn ghém sống:
Nó khá, nó van, nó bới, nó thúa ngọk (đá),
nó pửng, nó lau, nó man ca, nó tao, nó vai...
6. Các loại nấm: Hết bỉ, hết thu nún nặm.
7. Các loại quả thơm:
Măk khén (hạt tiêu rừng), măk he (tiêu),
măk ớt (ớt).
8. Các loại vỏ:
Năng co hăm (vỏ cây hạt dổi)
Năng chưa bi mi
9. Các loại quả ăn sau bữa cơm (đét xe):
Măk teng (dưa), kiểng (cam), hảu (bứa ngọt),
phong mạt (dứa), mắk muông (muỗm), hăm (hạt dổi), liu (chanh), cuổi (chuối),
nghe (quýt), na (na), pục van (bưởi ngọt)...
10. Các loại bánh kẹo:...
11. Các loại chụp (nộm):
Chụp phắc chiệu (rau bướm), nó (măng)...
12. Nó xổm (măng chua)
Nó héo (măng khô chua)
Nó hang (măng khô)
13. Các loại củ quả:
Mắk ứk (bí đỏ), mắk phặc (bí xanh).
14. Các loại hoa "đồ" chín ăn được:
Bók ban (hoa ban), ít ương, thúa (đỗ),
tong tay, hởng, nôm nẹ, pip, ứk, khạnh...
15. Các loại gỏi: Cỏi năng (da) cỏi pa
(cá), cỏi nhứa (thịt), cỏi xổm (chua), cỏi khôm (đắng)...
16. Năm pịa, nặm bi (mật).
17. Kăm cắp (ghém):
* Các loại ghém rau thơm:
Hom kim (húng), hon xa au, hon pẻn, hon chỉ,
hon kip (tỏi).
18. Căm nặm (phần để các món uống):
: Lảu xá chúp (rượu cần mút)
: Lẩu xiêu (rượu cất).
: Lẩu vạng (rượu cái).
Nặm ta (nước lã), lẩu xá nóng (rượu đóng
chai), lẩu xong xiêu (cất 2 lần), nặm che (nước chè)...
Cơ cấu một bữa ăn (mâm cơm) thường phải có
đủ 5 thứ (năm miếng) xếp thứ tự.
1. Căm khảu (về cơm)
2. Căm chảm (về chấm)
3. Căm kin (về món ăn)
4. Căm cắp (về món ghém)
5. Căm nặm (về món uống)
Khi sắp xếp mâm cơm: Đặt trước tiên là
"đĩa muối ớt" coi như đã có chủ nhà (mi chản hươn) tiếp theo là các
món khác.
Do thích ăn "xôi nếp thơm" nên cả
hệ thống tiếp theo sau cơm (xôi) là các món thức ăn khô (trừ rượu) mùa nào thức
ấy.
Các món ăn "đồ" (không luộc) nên
ăn ngọt đậm (không nhạt)...
Bữa cơm Thái quả thật là độc đáo, hấp dẫn,
ngon mà như đủ các vị thuốc thu lượm từ rừng núi rất bổ dưỡng cho cơ thể con
người./.
27 - LẨU XÁ
Rượu cần (lẩu xá - rượu của người Xá
"Khơ Mú") là thứ rượu ủ men (không cất = lẩu xiêu).
* Men lá gồm các thứ quả bơ, mắk cái, củ
riềng, lá trầu không, quả ớt...giã nhuyễn với gạo tấm, sau đó nắm thành từng miếng
tròn dẹt như bánh rán, đem ủ trong đống rơm, xếp từng lớp đều nhau từ 15 - 20
ngày có mùi men bốc lên đem phơi, để gác bếp khô. Khi dùng giã nhỏ rắc vào cơm
rượu. Mỗi mẻ rượu cần 7 - 9 bánh.
* Cái rượu: Vỏ sắn khô gọt ra ngâm suối 3
ngày đêm cho hết mùi bồ hóng và độc tố ở sắn, vớt lên phơi khô trộn với trấu lẫn
tấm đưa lên "chõ" (dụng cụ đồ hấp, đồ cho chín, đổ ra mẹt để nguội
đem men rắc trộn đều, tiếp tục ủ bằng lá chuối hoặc lá rừng (bó nhum, bỏ cá) để
rượu bốc men rổi bỏ vào chum (ché) lấy lá chuối hoặc mảnh ny long bịt kín (để hở
thì rượu sẽ bị chua) - sau 25 - 30 ngày thì có thể dùng được, để càng lâu thì
rượu càng đặc, càng ngọt.
Ngoài sắn khô, còn làm bằng ngô, ý dĩ, củ
dong riềng, chuối, dừa, củ mài...
*VĂN HÓA RƯỢU CẦN:
Rượu cần (lẩu xá) còn có tên là lẩu kép
(rượu trấu), lẩu pẳng (rượu ống), lẩu co (rượu cây) rất đậm ngọt.
Rượu Thái Sơn La: 1kg gạo + 2kg trấu + ½ lạng
men. Ủ 5 - 7 ngày.
Khi uống: Mở nắp, đổ nước lã sạch vào ngâm
1 phút cho ngấm, cắm cần vào và đổ nước (sừng trâu) liên tục khi ta hút... uống
đông vui: 1 hũ từ 10 - 12 bạn bè coi như là anh em "lẩu khay cáy khả"
(rượu mở là thịt gà...).
Khi chum rượu lẩu xá đã mở là trống, khèn,
cồng chiêng hòa theo các điệu "khắp", múa xòe dập dìu say sưa tới
sáng.
Bên hũ rượu cần là nơi hội tụ mọi cộng đồng
mường bản, chân thành, đoàn kết, bình đẳng, không phân biệt ai với ai.
* Lẩu Xá chính hiệu:
Tháng 11/1993, Nguyễn Khôi tôi tháp tùng
đoàn đại biểu Hội đồng dân tộc của Quốc hội do B.S Y Ngông Niêk đăm (chủ tịch)
làm trưởng đoàn sang thăm hữu nghị nước CHDCND Lào. Ngày 25/2/1993 Đoàn Việt
Nam lên vùng Lào Thâng, Lào Sủng ở tỉnh Luông Phạ Bang giáp với Sơn La.
Ở bên Lào: Người Lào Lùm (Thái) là ở vùng
thấp, đông nhất. Thứ nhì là Lào Thâng (rẻo giữa) chủ yếu là người Khơ Mú. Thứ 3
là Lào Sủng (Mèo, H'mông) ở vùng cao.
"Xá" là tên gọi miệt thị với người
Khơ Mú của giới quý tộc Thái Sơn La xưa.
Thật là dân dã: Trên một bãi đất rộng, các
chum "lẩu xá" được bày ra, khèn Hmông (khèn lên man điệu) cất lên các
điệu múa Khơ Mú rất phong phú và đặc sắc đan xen với các đợt hút rượu cần với
kiểu uống 2 người đủ đầy 2 sừng trâu (ống rót nước lã pha thêm vào chum rượu) -
nước rượu râm ran cay ngọt chảy từ cổ họng vào tới dạ dày làm bừng tỉnh cả người
(đúng là một liều thuốc tăng lực mạnh hơn cả "bò húc" của Thái Lan).
Thật là vui như tết, trong cuộc vui say đoàn kết, người người hòa đồng với nhau
tưởng như không còn phân biệt dân tộc, không còn Quốc gia, người với người là bạn,
là đồng chí anh em cùng chung cuộc sống thanh bình./.
28 - ĐƯỜNG LÊN TÂY BẮC
*Đường lên Tây Bắc xa xôi
Nếp nhà sàn thấp thoáng
* Đường lên Tây Bắc quanh co
Tiếng chim rừng đây đó...
(Nhạc sỹ Văn An)
Có 3 đường lên Tây Bắc theo 3 nẻo:
- Nẻo thông thường (năm 1963) đi từ bến
Kim Liên (liền công viên Thống Nhất và hồ Bảy mẫu) qua thị xã Hà Đông theo Quốc
lộ 6...
- Đường đi chiến dịch Điện Biên Phủ (1953
- 1954) đi từ Yên Bái - Nghĩa Lộ qua đèo Lũng Lô sang Phù Yên...
- Đường nhánh đi từ Hà Nội qua Hưng Hóa -
Thanh Sơn (Phú Thọ) vượt đèo Cón vào Phù Yên theo đường 13 qua Sông Đà.
* Sau khi qua bản Song Pe (xem vợ chồng A
Phủ) sang đò bến Ta Khoa, lên đèo Chẹn, tới chân đèo Chiềng Đông tụt xuống Cò Nòi
(đường 6) lên TX Sơn La.
1. NẺO QUỐC LỘ 6:
Quốc lộ 6 đi từ Hà Nội - Sơn La - Điện
Biên dài 504km, điểm đầu là cầu sông Nhuệ (TX Hà Đông) là km số 0, điểm cuối là
TX Mường Lay.
*Cầu sông Nhuệ - TX Hòa Bình 63km (đêm ngủ
ở Hòa Bình hay chợ Bờ) - ở đoạn quốc lộ 6 này có đài kỷ niệm anh hùng Cù Chính
Lan đánh xe tăng Pháp năm (1953).
- Từ cây số 65 TX Hòa Bình đến TX Sơn La
256Km
- Sơn La - Tuần Giáo 56km
- Tuần Giáo - Mường Lay 100km
Thời Pháp (trước 1945) Quốc lộ 6 chỉ hết địa
phận tỉnh Hòa Bình, sang tới địa phận Sơn La là đường 41 (xã Chiềng Yên): Khởi
đầu cây số 0 là chỗ suối Rút đổ vào sông Đà, đi một chặng tới cây số 22 (năm
1963) ô tô sáng đi từ Hòa Bình hay chợ Bờ lên tới cây số 22 (Sơn La) là trạm
Công an kiểm tra giấy tờ và nghỉ ăn trưa, có cửa hàng mậu dịch Quốc doanh. Ăn
trưa xong đi lên ngược dốc tới đỉnh Đèo 46 (cây số 46) cao khoảng 1500m ngang
núi Tam Đảo - Đây là bản Mèo (Hmông) đỉnh núi sương mù, nước suối giữa tháng 4
dương lịch nhúng lạnh buốt tay; tại đây cũng có 1 cửa hàng Mậu dịch Quốc doanh
(vùng cao) nơi hội tụ dân bản đến mua hàng gặp gỡ khá đông vui. Xe ô tô ca (giá
12đồng/ từ bến Kim Liên Hà Nội lên tới Sơn La, cây số 302 km đầu cầu Trắng bắc
trên suối Nậm La qua thị xã tới bản Xẳng (xã Chiềng Xôm) chui qua gầm đèo Cao
Pha đổ xuống Nậm Bú (xã Mường Bú rồi tới Sông Đà chỗ bến Tạ Bú).
Từ đỉnh đèo 46, xe ô tô xuống dốc một mạch
suốt xã Lõng Luông (Mèo) tới chân đèo là bản Hang Trùng (mường) cây số 58, rồi
tới vườn Đào - cây số 64 có cửa hàng Bưu điện, trụ sở Sư đoàn 335, 1 đội của
nông trường Mộc Châu (sau này thêm nông trường bò sữa Sao Đỏ ở cạnh đấy). Chợ
Thảo Nguyên cùng Phố Thảo Nguyên đông vui, thấy máy cày, máy kéo biểu tượng của
Chủ nghĩa xã hội hồi những năm 60 của thế kỷ 20 "anh đi khai phá miền
Tây", 4 giờ chiều xe tới thị trấn huyện lỵ Mộc Châu đông vui. 1 bàn ăn thịnh
soạn, mất độ 1đồng (0,3đồng/1kg gạo) đủ bia rượu, thịt bò xào. Nhà trọ Quốc
doanh đủ chăn đệm (đêm Mộc Châu mùa hè cũng dưới 20oC).
Sáng hôm sau, ăn phở 5 hào, xe ngược đi
Yên Châu, tới cây số 82 là hết địa phận nông trường Mộc Châu, xuống 1 cái đèo
nhỏ vào đất Tú Nang, cứ thế xe đi 1 bên núi, 1 bên suối Sập, 11 giờ tới thị trấn
Yên Châu nóng bức như mùa hè dưới xuôi, chuối, muỗm, đường phên... bày đầy các
"Quán" tự giác bên đường. Đến đoạn suối có cầu đi vào thị trấn là thấy
chị em tắm truồng ngập sâu dưới suối...
Cơm trưa ở Yên Châu, xong vượt đèo Chiềng
Đông xuống Cò Nòi, Hát lót vượt dốc Mường Hồng vào khu sân bay Na Sản... khoảng
2 - 3 giờ chiều là tới thị xã.
Thị xã Sơn La hồi 1963 - 1965 các tòa nhà
đang xây, lô nhà 2 tầng chân đồi Khau cả là dành cho cơ quan, phía dưới đường
Tô Hiệu là các dãy nhà cấp 4 cho cán bộ công nhân viên. Thời đó cơ quan biên chế
còn ít người (Ty Nông nghiệp tất cả có 21 người).
Thời đó Quốc lộ 6 đi 1 xe/ 1 luồng, rải đá
dăm, cấp phối - đi từ Hà Nội - Sơn La mất 2 ngày rưỡi (qua nẻo Suối Rút - chợ Bờ,
nay đã là lòng hồ sông Đà), nay đi mất có 6 tiếng đồng hồ.
2. NẺO QUA ĐÈO LỦNG LÔ
"Cho tới đầu năm 1953, Quốc lộ 13A (tức
Quốc lộ 37 ngay nay) mới được khởi công để cho Tướng Giáp đưa quân lên đánh
Pháp, ở Nà Sản..., con đường nối từ ngã 3 Vực Tuần qua Thượng Bằng La (Văn Chấn,
Yên Bái) lên đèo Lũng Lô".
Từ đèo Lũng Lô qua Phù Yên, qua Sông Đà vượt
đèo Chẹn ra Cò Noi (Sơn La). Từ ấy mới thực sự có con đường nối từ chiến khu Việt
Bắc sang Tây Bắc và cũng là con đường huyết mạch của từng đoàn từng đoàn bộ đội
- dân công lên đánh Pháp giải phóng Lai Châu - Điện Biên Phủ (1953 - 1954) làm
chấn động địa cầu. "Đường lên Tây Bắc quanh co" chính là đi lối này.
"Lũng Lô", tên bản địa là
"Trảng nương hoang giữa rừng cây cổ thụ". Đèo Lũng Lô ngăn cách hai tỉnh
Yên Bái - Sơn La, đỉnh đèo ngợp trong sương mù bao phủ, bốn mùa ẩm ướt, nước chảy
qua đường đá gồ ghề. Trước ngày hình thành đường 13A, Lũng Lô chỉ là một con đường
mòn men theo triền núi, rất ít người qua lại. Thi thoảng mới có dân bản Cơi
(Phù Yên) và bản Dạ (Văn Chấn) qua lại thăm nhau hoặc đi săn muông thú, vào rừng
đèo lấy song mây, đào củ mài trong những ngày giáp hạt. Người Mường ở vùng này
gọi là đèo Lũng Lỗ (lỗ thủng) với hình tượng là trên đỉnh đèo mây mù trắng,
nhìn từ chân đèo lên đỉnh xuyên qua một lối mòn dưới tán cây cổ thụ thì thấy
như một cái lỗ thủng trên trời cao? Cũng có ý kiến giải thích "lũng"
là thung lũng, "lô" là cây lau? Trước ngày giải phóng Tây Bắc (1953)
Lũng Lô thuộc khu du kích Mường Thải (Phù Yên) đánh quân Pháp rất kiên cường.
Giặc Pháp và tay sai ở Phù Yên sợ không dám bén mảng đến. (theo Đinh Chanh -
văn nghệ Sơn La "suối reo" số 6/2004).
3. NẺO QUA ĐÈO CÓN GIỮA THANH SƠN (PHÚ THỌ)
VÀ PHÙ YÊN (SƠN LA) là thêm 1 đường chính phụ trợ cho Quốc lộ 6.
Quốc lộ 6 tới địa điểm Cò Nòi (co là cây,
Noi, có lẽ đọc chệch "loi" là mậy loi, một loại nứa nhỏ bằng ngón tay
dùng đan phên liếp thưng nhà)...đây là "rốn bom" do tàu bay B26 của
Pháp dội bom chặn đường quân ta lên Điện Biên, ở đấy có tượng đài TNXP.
Con đường 13A (nay là đường 37) từ đèo
Lũng Lô qua rừng ông Giáp ra Cò Nòi xưa qua đoạn núi Pu chạng hảy (dốc voi
khóc) vượt hẻm dốc đá Suối Cao (Bắc Yên) ra bến Tạ Khoa (nay đã có cầu) qua pha
Sông Đà lên đèo chẹn.
4, ĐƯỜNG LÊN TÂY BẮC THỜI LÊ TRỊNH : Theo
Lê Qúy Đôn trong "Kiến văn tiểu lục" thì một dải sông Đà có 8 châu
(huyện).
8 châu thuộc Phủ Gia Hưng là Phù Yên, Mộc
Châu, Đà Bắc, Thuận Châu, Mai Sơn, Mai Châu, Sơn La và An Châu.
3 châu thuộc phủ Điện Biên là Ninh Biên,
Lai Châu và Tuần Giáo.
3 châu thuộc phủ An Tây là Chiêu Tấn, Quỳnh
Nhai và Luân Châu. Đường đi từ Thăng Long lên thì Châu Phù Hoa (nay là Phù Yên)
đi mất 6 ngày; Châu Mộc; 8 ngày; châu Mai Sơn; 10 ngày; châu Mai Sơn có các động
(Mường Bản) là Trình ban (Chiềng Ban), Trình chanh (Mường chanh).
- Châu Sơn La đi mất 12 ngày, có một xứ gọi
là "hang cá" (chính là bản Bó Cá có cầu đá ở TX Sơn La), có mỏ yết
Ong (Hiếu Chai - Mường Chai).
- Lên Châu Thuận (Mường Muổi) hết 12 ngày.
- Châu Quỳnh Nhai, thổ âm gọi là Mường
Chăn (Mường Chiên) đi lên mất 20 ngày có mỏ đồng Vạn Bằng, Vạn Ma.
- Lai Châu, thồ âm là Mường Lễ (Mường Lay)
đi đường 22 ngày phong tục sân vật giống như Quỳnh Nhai (cũng là người Thái trắng).
- Châu Tuần Giáo: Thổ âm là Mường Quay (Mường
Quài = con trâu) đi mất 18 ngày.
- Chây Tuy Phụ: Thổ âm là Mường Tè
Hồ Chí Minh viết:
Đi đường mới thấy gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
"Đường lên Tây Bắc" quả thật là
như vậy.
7/3/2012 - NK
29 - CÂY MẮC CHAI
Ở Tây Nguyên, bên Lào có cây Kơnia đặc
thù, đã đi vào lời ca tiếng hát, như một biểu tượng của quê hương xứ sở... thì ở
vùng Yên Châu - Mường La (Sơn La) có cây Mắc Chai, mà hầu như khắp nước Việt
Nam này không đầu có? Đó là một loại cây thuộc họ nhà Muỗm - Xoài, nhưng cao to
vượt tầm: Cao vài ba chục mét, gốc hai ba người ôm không xuể, đặc biệt là tán
tròn như một quả cầu xanh (lá nhỏ như lá cây Quéo), thường là cao vượt lên trên
mọi cây cổ thụ khác, nên trên đường đi Quốc lộ 6 hay bề Bản, từ xa hàng cây số,
ta đã trông thấy cái tán quả cầu xanh Mắc Chai in lừng lững trên nền trời xanh
cùng bóng núi tím thẫm cao vời vợi như đang chờ đón đợi ta về...
Ở cây Mắc Chai như một điềm nghịch lý của
tạo hóa: Cây thì cao to vật vã nhưng quả thì lại bé như quả trứng gà (có khác
gì một bà mẹ to béo đẫy đà hết cỡ lại đẻ ra một chú bé tí hon?) - Quả Mắc Chai
bé, hạt to chiếm tới 4/5 thể tích quả (thật là vô duyên, ăn chẳng bỏ) nhưng bù
lại: Khi quả chín, chỉ một làn gió là nghe tiếng "lộp bộp", một loạt
quả tự rụng, ta nhặt lên bóp vân vê (như trước khi ăn quả vú sữa Miền Nam) rồi
cắn đủ có một lỗ, rồi hút lấy nước cùi (bột vàng óng) thì ôi thôi rồi: Thơm
ngon vượt cả nước quả xoài đóng hộp ở sân bay Mun Bai (bên Ấn Độ) mà Nguyễn
Khôi tôi có lần Transis (ghé qua) được thưởng thức thơm mát đến lịm người dưới
cái nắng 45oc cùng những người dân bản địa da đen như bồ hóng.
Thời chiến tranh, ai từ Thuận Châu về thị
xã, lên tới đỉnh đèo Sơn La, dựng xe đạp vào gốc Mắc Chai, trải tấm Nylông, giở
cơm nắm ra ăn, tu một hơi nước bi đông rồi ngả lưng đánh giấc. Vòm cây Mắc Chai
như một cái lọng xanh vừa che mát, vừa che kín mắt bọn giặc trời Mỹ... thế là cứ
yên chí nằm nghe chim hót, lũ sóc chuyền cành kiếm quả rồi ngủ thiếp đi lúc nào
không biết nữa... và cây Mắc Chai như Mẹ hiền che chở ru cho ta một giấc ngủ
bình yên để rồi (lấy sức) lại lên đường ra trận...
Cây Mắc Chai như ai đứng đợi
Đón ta về ngọt lịm giấc trưa.
30 - HOA BAN
* Chua chụ xướng chua bók ban
Pan Péng xướng pan bók khẳm
(Đời
son trẻ như hoa ban
Đời
thương như hoa khẳm).
Hoa
Ban Tây Bắc là biểu tượng, là tín hiệu
nghệ thuật đặc thù biểu hiện bản sắc văn hóa của thiên nhiên và con người Sơn
La - Tây Bắc.
Nó là loài hòa kỳ diệu gắn bó mật thiết giữa
thiên nhiên với đời sống con người... Nó là món ăn ngon (hoa ngọt), là hình tượng
thơ tượng trưng cho những ước mơ, tâm hồn trẻ trung (mùa xuân) tính cách cao đẹp,
mối tình thủy chung của con người.
Tết xong: Hoa đào đỏ, hoa mơ, hoa mận nở
trắng các lối đi khắp các bản mường, và gió lào ù ù bốc lửa, trời hanh khô đến
khó chịu - ngày 4 mùa: Sớm xuân, trưa hè, chiều thu, đêm đông, đang mùa đốt
nương, khát khao cháy bỏng trời đất và lòng người thì đột nhiên qua một đêm tất
cả các cánh rừng đều trắng ngát hoa Ban - Toàn bộ cây là hoa (lá mới nhú) cây
đơm hoa, mát thơm dịu ngọt...
Thật là cái đẹp, cái ngọt, cái mát trời
cho giữa ngày tháng 3 nắng nóng ngột ngạt.
"Mùa hoa
Người đàn bà
Mặt đỏ phừng
Đủ sức vác ông chồng
Chạy phăm phăm lên núi.
Mùa hoa
Người đàn ông
Mệt như chiếc áo rũ
Vừa vịn rào vừa ngái ngủ"
- Y Phương.
Đó là mùa động tình (tìm bạn) của con Nai,
con hoẵng, mùa của ân ái lứa đôi.
Cây Ban thuộc họ Mưồng, thân gỗ "bộp"
cao 5 - 6 mét, hoa trắng hay tím 5 cánh bướm. Trong 5 cánh có 1 cách chủ (cánh
chúa): Tựa như 4 cách kia nhưng trên cái nền trắng hồng hoặc tím phớt của cả
bông hoa, cánh chúa có thêm những kẻ xanh, tím, hồng (màu sắc cầu vồng) mềm mại
trải dọc theo cánh hoa tạo thành những đường nét hình khối rất lạ mắt. Nếu nhìn
xa thì mỗi bông hoa Ban giống như một nàng Bướm mà cánh chúa và nhị hoa là thân
và vòi bướm, 4 cánh còn lại là 4 cánh bướm, cả chùm hoa Ban là cả một đàn bướm
bay rập rờn trong gió xuân nhẹ nhàng - cánh Ban chúa tạo hồn cho sắc hoa là vậy.
Cây Ban ở Sơn La thường mọc trong các
phiêng đá lồi đầu, những triền núi khô cằn mà cây vẫn phát triển xanh tốt.
Ở nhiều nơi như Lào, Malaysia, Nam Ninh
(Quảng Tây - Trung Quốc) không thiếu cây Ban nhưng khi nở hoa thì cây vẫn xanh,
hoa thưa nên không độc đáo như rừng Ban Tây Bắc Việt Nam. Tất cả cành trơ khẳng
khiu qua một mùa đông sương muối (dưới 0oc về đêm), sang xuân là "Ban
pún" lấm tấm mầm non của nụ và lộc. Chúng đang chờ những cơn mưa đầu mùa
(để gieo ngô, trồng sắn) để hút lấy cái hơi ẩm của trời đất, hút lấy hơi Xuân ấm
nóng (của gió Lào) mà nở bung.
"Và em ơi, một đêm xuân
Hoa Ban bừng nở
tần ngần
chào em ".
"Nghĩ đến em đi đường sông chỉ thấy
đá vồng chỉ thấy hoa Đào, hoa Ban, hoa Vông rụng đầy dòng trôi..."
Lúc hoa Ban tàn để lại quả non trong đám
lá xanh mới nảy mầm lúc cuối mùa xuân, báo hiệu mùa làm nương rẫy mới.
Hoa Ban tàn anh hãy tra ngô
Hoa Ban làm quả anh hãy dọn nương tra lúa.
Cây Ban là cây "chỉ thị": Đất
nào cằn, cạn kiệt màu mỡ là xuất hiện cây Ban.
Kinh nghiệm dân gian Thái: Nhìn Ban nở để
dự đoán thời tiết mùa màng trong năm "năm nào vào đúng tuần cữ Ban nở rộ đều
một lượt trắng ngát cả rừng, hai bên bờ suối là năm ấy mưa không dai quá, nắng
không dữ, ít lũ lụt, ít hạn hán (mưa thuận gió hòa) mùa màng tươi tốt thu hoạch
lúa ngô đầy bồ.
Về món rau mùa khô (cuối xuân) thì hoa Ban
cả một rừng, dân bản tha hồ đi hái về "đồ" lên thay rau, phơi khô trữ
ăn dần, hoa Ban làm nộm. Ăn hoa Ban như ăn 1 vị thuốc (trị kiết lỵ), giải nhiệt,
lợi sữa, giải độc.
Hạt Ban già rang lên ăn thơm ngậy.
Rễ Ban đỏ chữa dạ dày, gan. Lá ban nấu để
rửa vết thương, sát trùng.
Song hau hặc căn báu mau Ban bók
Báu hên mua bók Ban xia
Báu tính bươn tính pi
Sướng pi cánh nọng hau hặc nhám lằng
(Đôi ta yêu nhau không tính mùa Ban nở
Không thấy ngày Ban tàn
Không tính tháng, không tính năm
Mãi mãi như mùa ban đầu đôi ta yêu nhau).
Ngoài hoa Ban, ở Sơn La - Tây Bắc dọc theo
các khe suối còn có cây hoa Mạ (hoa ngựa) gắn với sự tích "bó mạ khun
chương": Kể về con ngựa của anh hùng Lạn Chượng khi chết hóa thành bông
hoa Mạ, xuân đến nở rực vàng bên bờ suối, đón các cô gái chàng trai đến gặp gỡ
tự tình nơi bến tắm bản quê./.
8/3/2012 - NK
31- ĐÔI NÉT VỀ LỊCH SỬ NGUỒN GỐC THÁI SƠN
LA
* Người Thái - mơ hồ trong tên gọi? Gốc
gác ở Trung Quốc (trong số 56 dân tộc; với 1,16 triệu người), tên xưa gọi
"Thái Lặc" (Tai Lue) - "Dai" (Thái tây song bản nạp) 2 ngôn
ngữ là Tày Pong và Thái Đam (Tày đăm). Ngoài ra là tiếng Tráng (choang).
Thư tịch cổ gọi Điền Việt, Kim Xì, Hắc Xỉ,
Hoa Man, Bạch Y, Bạch Di, Bách Si, Bá Di...
Thời Hán quận Ích Châu là của người Thái
(xem thất cầm Mạnh Hoạch - Tam Quốc Chí)? Rồi di cư theo dọc sông Lan Thương
(Mê Kông) tới Myanma, Lào, Thái Lan, theo sông Hồng xuống Việt Nam.
* Người Thái ở Việt Nam:
Còn được gọi là Tày Khao (trắng) đăm (đen)
Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), hàng Tổng (Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà Bắc.
Nguồn gốc: Bách Việt, gồm với nhóm Choang
(tráng), Tày, Nùng.
Di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 7 - 13,
trung tâm là Mường Theng (Điện Biên), từ đây họ tỏa đi Lào, Thái Lan, bang Shan
(Myanma), đông bắc Ấn Độ cũng như ở Nam Việt Nam? (gốc đi từ - xíp xoong păn
na).
Ở Việt Nam: Đời Lý 1067 có Ngưu Hống (rắn
hổ mang - tô tem), chỉ người Thái vào triều Cống, sau 1280 dưới sự cai quản của
triều Trần.
Các thủ lĩnh Thái được gọi là "Phụ đạo".
- Họ Đèo cai quản các Châu Lai (lay),
chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nhan.
- Họ Cầm cai trị Châu Phù Hoa (Phù Yên),
Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Châu Luân, Châu Ninh Biên.
- Họ Xa cai quản Châu Mộc
- Họ Hà cai quản Châu Mai
- Họ Bạc ở Châu Thuận
- Họ Hoàng ở Châu Việt (Mường Vạt - Yên
Châu).
Dân số: 2009 có 1.550.423 người Thái (thứ
3 ở Việt Nam) có mặt khắp cả nước. (Sơn La có 572.441 người chiếm 53,2% toàn tỉnh);
Nghệ An 295,132 người, Thanh Hóa có 225,336 người; Điện Biên 186,270 người, Lai
Châu 119,803 người, Yên Bái 53,104 người, Hòa Bình 31,386 người, Đắc Lắk 17,135
người, Đắk Nông 10,311 người.
* Họ của người Thái: Bạc, Bế, Bua, Bum, Cà
(Hà, Kha, Mài, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo, Điều, Điêu, Hà, Hoàng, Khằm, Leo,
Lèo, Lềm, (Lâm, Lịm) Lý, Lò, (Lô, La), Lộc (Lục), Lự, Lường, (Lương), Manh, Mè,
Nam, Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, phìa, Quàng (Hoàng, Vàng),
Quảng, Sầm, Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Tòng (Toòng), Vang, Vi (Vì) Xa (Sa), Xin.
- Ngôn ngữ: Nhóm ngôn ngữ gốc Thái của hệ
ngôn ngữ Thái - Kađai.
- Kinh tế: Nông nghiệp (lúa nước, lúa nếp),
các thứ hoa màu, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, dê, cá... đan lát, dệt thổ cẩm, số
nơi làm đồ gồm.
- Gia đình: Phụ hệ, vợ theo họ chồng, có tục
ở rể.
Hôn nhân một vợ một chồng.
- Tục lệ ma chay: Chết là về Mường trời tiếp
tục sống ở thế giới đó.
- Văn hóa: Thần thoại, cổ tích, truyền
thuyết khá phong phú, có chữ viết riêng, có nhiều truyện thơ (sống chụ son sao,
khum lú - Nàng ủa, tản chụ xiết xướng...).
- Nhà cửa: Người Thái đen có nhà nóc hình
mai rùa, chỏm đẩu đốc có khau cút (hoa nhà) rất độc đáo.
- Trang phục: Đẹp, nhiều kiểu.
Nam giống với người Tày, Nùng, Kinh.
Nữ: Thái đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối
(chàm, đen) cổ áo khác Thái trắng là loại cổ tròn đứng.
Đầu đội khăn Piêu thêu hoa văn theo môtyp
từng mường. Váy ống (kín) giống Thái trắng, màu đen, cạp gấu váy phía trong nẹp
đỏ.
Khi lấy chồng tóc búi ngược lên đỉnh đầu
"tằng cẩu" (Thái trắng vẫn búi tóc sau gáy).
CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC
Người thái sang ở Sơn La đến nay đã trên
10 thế kỷ nhưng không thấy có dấu vết gì về các công trình kiến trúc gạch,
đá...? Có lẽ chỉ có một cầu đá bản Cá bắc qua suối Nậm Cá chảy ra Nậm La ở đầu
thị xã ra phía Chiềng Xôm? Và một số khu nhà xây của tỉnh trưởng Sơn La Bạc Cầm
Qúy, (sau này trụ sở huyện ủy Thuận Châu, rồi bị bom Mỹ phá hủy hồi 1966 -
1973)... còn không hề thấy Đình, Chùa, đến Miếu gì ở Sơn La đất cũ?
Người Thái ở Sơn La không theo Tôn Giáo
nào, chỉ thờ "Phi" (ma tưởng tượng) người chết làm lễ chia của
"bỏ mả" là xong, không có giỗ chạp hàng năm, Tang ma có lễ gọi hồn, dẫn
hồn về mường trời, xong coi là xong.
Nhà ở người Thái: hầu hết là gianh, tre, gỗ,
nứa - đục đẽo đơn giản, đa số là không ngăn buồng (2 loài: cột chôn và cột kê)
hoàn toàn là vật liệu tự nhiên sẵn có ở rừng núi bản địa.
- Người Thái ở Sơn La: Có 4 ngành (chi): tới
2009 có 58 vạn người.
- Thái trắng (Tày đón) cư trú ở Mường
Chiên (Quỳnh Nhai), Ngọc Chiến (Mường La).
- Thái đen (Tày đăm) ở Thuận Châu, Mường
La, Vai Sơn, Yên Châu, Sông Mã. Đặc biệt Thái đen ở Yên Châu lại khác hẳn so với
ở vùng trên cả về tiếng nói, ăn mặc, phong cách, tập tuc.
Chi (ngành) ở Mộc Châu, họ tự gọi là Thái
đỏ (Tay đeng); cũng một chi ấy. Ở Bắc Yên, Phù Yên lại tự xưng là Tay đón (Thái
trắng) ở xã Huy Bắc tự gọi là Tay khoong (người khoong) - "khoong" là
một địa danh miền Tây Thanh Hóa (nơi họ từng ở ngày xưa). Nhóm Thái ở Pác Ngà
(Bắc Yên) tự gọi là Tay Eng (người Eng) "Eng" cũng là địa danh ở
Thanh Hóa.
Tay đeng (Thái đỏ Mộc Châu) gốc gác từ Vân
Nam qua Lào: từ Luông Pha Bang qua Mường Xáng; Mường Xăm, qua rừng Mường Xén
vào đất giao chỉ (đời Lý) thuộc Nghệ An. Từ Mường xén họ tỏa ra Thanh Hóa qua Hồi
Xuân, La Hán vào Mường Mun (Nai Châu) rồi lên Mộc Châu Sơn La.
Cuộc di cư này do chúa đất họ Vi Khăm (Vi
Vàng dẫn đầu vùng em trai là Vi Ngân (vi bạc): Vi Ngân ở lại M ai Châu, người
anh Vi Khăm ngược lên Mường Moóc (Mường Xang - Mộc Châu).
Do đi tới nơi đất mới nên: Ở Mai Châu có bản
Lác (bản lạ). Tòng Đậu nguyên âm là Toong Táu (Toong = lá, táu là cây gỗ Táu -
cây to, lá to dùng để gói muối, lót xôi khi cúng lễ. Đồng Bảng nguyên âm là
"Động Páng" (động: rừng già, rừng cây cổ thụ, Páng là cây chuối rừng,
nay ta qua Đồng Bảng vẫn thấy nhiều cây chuối rừng vì đất quanh năm ẩm ướt.
Họ "Vi Khăm" sau đổi thành họ Xa
(Sa) có 2 truyền thuyết:
- Chúa Vi Khăm vào triều đình (nhà Lê Trịnh)
qua cổng thành thì Quan coi cổng thành Thăng Long vấn danh, hỏi họ tên gì ở đàu
tới? Do ngôn ngữ bất đồng nên Chúa Vi Khăm trả lời sai ý đi "Tôi là ở xa đến"
- Quan nghe ú ớ ghi "Chúa đất họ Xa - nay do chữ nghĩa chính tả lung tung
ghi xa = Sa"?
Thuyết 2: Sau khi Chúa đất Vi Khăm qua đời
- anh em trong nội tộc tranh giành... người anh thắng thế làm chúa, em phải xuống
làm thường dân lấy họ "Vi Văn..." Người anh vì đã thề độc "cụ
chí pái sá xịa mưng, mưng nha Pay năm hó phụ" (Tao sẽ từ mày, cạch từ đây
không chung Họ nữa).
Từ đấy từ (Xá = Sa) thành họ chính của
dòng Vi Khăm. Mãi về sau gọi chệch cho nhẹ đi Sá thành Sa... nhưng khi khấn
cúng bái vẫn phải xưng là "Chúm mú Vi Khăm " - (dòng họ Vi Khăm) cho
đến ngày nay.
* Quan hệ xã hội Thái:
Cơ cấu xã hội cổ truyền là Bản mường hay
chế độ Phìa Tạo Tông Tộc gọi là "Đằm". Mỗi người có 3 quan hệ trọng yếu:
- Ải noọng: Nam giới 4 đời trong gia tộc
(bên nội):
- Nhinh Sao: Tất cả thành viên nữ...
- Lúng ta: Tất cả thành viên Nam thuộc họ
vợ (bên ngoại).
32- MƯỜNG TRỜI
Với người Thái: chia vũ trụ thành 3 tầng
theo một trục dọc. Trên cùng là Mường Phạ (Mường Trời), ở giữa là Mường Lùm (mường
người thấp) và dưới cùng nữa là lòng đất là Mường bọoc đai (Mường của những người
lùn sống trong lòng đất). Còn gọi Mường Pha là Mường Bôn nhằm chỉ thế giới ở
trên đỉnh đầu - ngoài ra còn gọi là Mường Then (Mường của các Then = thượng đế,
thần linh). Người Thái ở Qùy Châu: "theo quan niệm hữu thức của người Thái
thì Mường Phạ là nơi cao nhất của vũ trụ, đó là một khoảng rộng màu xanh, hình
tròn úp lên mặt đất. Còn đất là một tấm rộng vô hạn mà trời chỉ úp được một phần.
Tầng trên cùng là tầng riêng của các thế lực siêu nhiên, đó là một thế giới hỗn
mang, chưa định hình, không rõ ràng, rất ít ảnh hưởng tới cuộc sống của con người.
Xuống thấp hơn là Mường Then của các vị thần
linh, còn tổ tiên của người Thái thì ở một cỏi riêng khác: Nhóm Tày Thanh gọi
là "đẳm chảo", còn nhóm Tày Dọ (đều ở Nghệ An) thì gọi là "Đẳm
Pang". "Đẳm Chảo"là nơi trú ngụ của người chết theo các dòng họ
khác nhau, rồi lại còn phân đẳng cấp:Tầng lớp trên là cho các họ Lò Căm, Hủn
Vi, Mừn Quang. Tầng lớp mới là các họ bình dân như Quản Quang, Quản Lự... (có 2
"đăm":bậc giữa và bậc cuối).
Theo Cầm Trọng thì người Thái đen Sơn La
cũng na ná là "đẳm hướn luông" (quý tộc) và "đẳm hướn nọi"cho
thường dân.
Mường Then là hình ảnh thu nhỏ của thế giới
trần gian: Cùng lao động sản xuất, đó là một xã hội giàu có trù phú, ruộng đồng
quanh năm tươi tốt, dưới ao cá lội từng đàn, đèn thắp sáng quanh năm. (như
thiên đường), vị thần chủ là "Then Luông" (Then lớn) - thường gọi là
Pò Then: Cai quản cả thế giới.
Dưới Pò Then là một hệ thống các vị thần
giúp việc như Then Ná, Then Ảo, Then Thao Ai, Then Thư ai, quản lý các dòng họ
Quý tộc, thấp hơn là Châu Cuống Cảng (họ ở bậc trung) do các Then Thư Noọng cai
quản trông coi các họ bình dân... tuy vậy có những dòng họ khác nhau nhưng lại
chung 1 Then Ná.
Ở Then Ná còn có các Mẹ Náng (bà mụ) là vợ
các Then, làm nhiệm vụ Me bẩu (đúc nặn người cho đầu thai xuống trần gian), Me
Náng nặn rồi chỉ sang Then Bẩu (khuôn), rồi qua Then Chằng để cân đo số mệnh rồi
rơi xuống Then Chẳng cân đo xong rồi tiếp xuống Then Bắc để đi đầu thai...
Trên Then Ná còn có Mẹ Xuổn Ném và Pù Noọng
Pả trông coi vườn mệnh và ao cá vía để giữ cho mệnh luôn được bình yên, trên
Then Ná có một vườn mệnh trong đó có một máng nước chảy vào ao nuôi cá mệnh (Pa
Vẳn) mỗi con tượng trưng cho một mệnh người dưới trần. Nếu nước chảy đều thì hồn
khỏe mạnh, con người được bình an, nước không chảy thì cá chết, mệnh người cũng
hết.
Chính vì vậy: Khi con người lên cao tuổi
thường tổ chức lễ "Tum bẩư nho bủn" (lau chài sửa lại vườn mệnh, đặt
lại máng nước), để tăng tinh lực và sức sống cho con người.
Ở Mường Then còn có nhiều vị thần linh
khác: "Then Khúm" trông coi việc thiện, Then Tàng lo làm ra con người
và loài vật, Then Bấu lo đúc người, Then Khạt (Then Chằng) đo số mệnh,... Then
Bắc theo dõi sổ số mệnh, Then Kôm quan sát bốn phương trời, Then Cáo quản lý phạm
nhân, Then Thùm coi lũ lụt, Then Lốm tạo mưa gió, Then Ú, Then Đá lo xử phạt
sát sinh. Tầng cuối cùng của Mường Phạ là nơi ở của các hồn người chết (chết
không bình thường) thì phải vào "Mường phi tai sút đuôn" ở gần Mường
Lùm - Còn bình thường thì vào Đẳm Chào.
Trạm dừng chân đầu tiên do Mo dẫn hồn là Pặc
Phắng Kén, nơi trời và trần gian gặp nhau là Táng Cộp "Táng cộp nừng hả
phiền" - Chỗ gặp nhau (như kiểu chợ âm phủ) đan xen như cái nan xe kéo sợi,
ở đây là trạm tiếp đón nên có nhiều xôi thịt do người trần cúng lễ. Do đó những
hồn nghèo đói, chết không bình thường kéo tới đây kiếm ăn - vì thế người Thái rất
sợ phải qua nơi này; khi đói loại ma này còn xuống cả Mường Lùm quấy nhiễu.
MƯỜNG NGƯỜI
Mường Lùm: Qua tụt khỏi Mường Phạ, xuống
dưới là Mường Lùm (cõi người) là mường ở dưới sàn trời "mường tớ cọng lùm
phạ".
Lùm là thấp, thung lũng - Còn gọi Mường Piếng
(bằng phẳng) = mường bằng phẳng ở dưới gầm mường trời là mường có thật trong vũ
trụ luận Thái, đây là thế giới của con người khác biệt về bản chất so với Mường
Phạ - Mường Phạ là cõi hư, tâm linh, còn Mường Lùm là cõi thực của con người và
các loài vật, là các bản mường của nhiều tộc người (kể cả Kinh, Lào...) và
"dân số" của các loại Mường (Phạ, Lùm) bao gồm cả các thế lực siêu
nhiên khác, kể cả ma quỷ. Ma quỷ đi lang thang ở các Mường Phi, người thì ở các
Mường Côn (có phi pú ở núi cao, phi pá ở mường sâu, phi ngược ở vùng nước xoáy
cùng cõi Mường Lùm do con người làm chủ thể).
MƯỜNG BOỌC ĐAI
Là "Mường trong lòng đất" của loại
người tí hon "Táy boọc đai" đây là ở Quỳ Châu (Nghệ An), còn phía Sơn
La - Tây Bắc không có khái niệm này. Đó là thứ "phi đóng kín" hay
"phi dóc dách".
"Cờ boọc đai" là cái ống nhỏ cuốn
dùng tơ lấy ra từ kén tằm (cái suốt) - Boọc còn có nghĩa là "hoa", đó
là nụ tơ hoa biểu tượng của lũ người tí hon sống dưới lòng đất, đứng đầu là
"vua hoa tơ" (Pủa boọc đai).
"Phi" với người Thái là gồm cả
thần thánh, hồn người chết và cả hồn, vía người đang sống - "Phi" là
tín ngưỡng thờ vật hinh, một thứ sơ khai của Tôn giáo.
Linh hồn người sống là "phi vẳn",
ở người chết là "phi bướn", với các thần linh là "phi
then", các tổ sư nghề Mo (phi môn, phi một) rồi phi bản, phi mường, phi
pú, phi huổi, phi pá...
Thế giới của Phi có ảnh hưởng rất lớn tới
thế giới thực của con người (can thiệp, phù hộ) - do đó phải cúng bái cầu khẩn...
*
* *
Theo Hoàng Nó (Sơn La) thì:
Quan niệm về trời đó là Mường Phạ, Mường
Bôn hay Mường Then. Có 11 Then gốc gọi là "Then ngồi chõng" (Then
năng chóng) và 22 Then anh em (Then Pi Noong), mỗi vị Then là một đấng
"sáng tạo" tạo mưa, gió, nắng hạn, lụt...
11 Then gốc, đáng kể là Then Luông (cụ
Then già Pú Then Thẩu) hay chủ Tum Vang (như Ngọc Hoàng).
Hai là "Then chăng tê ba" - chữ
"tê ba" gốc chữ Pali - Sancrít thì Têbra nghiã là "cõi trời"
- hư vô ngự trên đỉnh Pha Bôn điều khiển đúc ra người... Ba là "Then
Ban" tạo ra họa phúc, duyên phận, sang giàu...
* Tục lệ cúng Then: Có 3 lễ chính:
1. Căm xeng: Báo ngày kiêng cấm
2. Xên kẻ: Cúng giải hạn
3. Xên hươn: Cúng nhà tức tổ tiên
Tháng giêng Tạo kiêng kỹ
Tháng hai Tạo căm xeng
* Đêm của ngày kiêng cấm: Mỗi nhà lấy một
bó cỏ gianh, bó lạt, một con dao buộc vào đòn gánh - tượng trưng để phi tổ tiên
đem lên sửa chữa nhà cho Then. Đầu đòn gánh treo một túi xôi, gói thịt gà luộc
để cho tổ tiên ăn - Đặc biệt bắt 1 con dế mèn đực bỏ vào giỏ để đêm chúng gáy -
Dế Mèn sinh nở vào tháng 7, nó tượng trưng 1 con trâu để tổ tiên dắt lên cày bừa
ruộng nhà Then. Còn có việc: Lấy 1 tổ hoang rỗng của ong bò vẽ treo lên mái nhà
để báo hiệu nhà tôi đã thực hiện đầy đủ cúng căm xeng.
* Xên kẻ: Cúng đầu tháng 2, cụ tổ phải lên
chầu Then phục dịch. Làm ở gian giữa nhà có đầu trâu hay đầu gà, phía sau bà Một
ngồi, phía trước lót vải trắng đổ gạo nếp thành một đống con, trên đặt 1 quả trứng
gà luồn trong 1 vòng tay bạc, xung quanh mâm có đốt nến (sáp ong).
Đọc hát bài Xên do bà Một gòi là "Á
ní" mất 1 ngày đêm "lời thỉnh cầu Then xá tội cho tổ tiên, cầu xin
phúc lộc".
* Xên hươn còn gọi Ló Liêng tổ chức cúng
nhà trong 3 tháng (giêng, hai, ba) vào các ngày 7, 8, 9, âm lịch thành một chuỗi
lễ hội đan xen căm xeng - xên kẻ và xên hươn.
Xiên hươn là mời tổ tiên về ăn cỗ cuối buổi
cúng, ông mo phải cúng cơm rượu để đưa tiễn đưa đi đưa lại để các vị về nơi Mường
phi của các hồn.
33 - XỬA CỎM ÁO NGẮN PHỤ NỮ THÁI
Trong trang phục Thái thì cái áo ngắn (Xửa
cỏm, xửa cóm) là độc đáo và đặc sắc nổi bật ít dân tộc tạo hình được đẹp như thế.
Áo phụ nữ Thái có nhiều kiểu dáng: Áo dài
(xửa hí), áo ngắn dài tay có cúc bướm bạc (mắc pém) gọi là xửa cỏm, áo ngắn hở
nách là "xửa khép"...
"Xửa cỏm" cổ truyền vừa là lễ phục
vừa là thường phục, chỉ khác là về chất liệu vải (vải thường hay tơ lụa, cát
bá, sa tanh) khi đi lễ thì quàng thêm tấm thổ cẩm rộng chừng ba bốn mươi phân
hơi lệch chéo sang một bên, cách điệu một chút nghệ thuật ở phần hạ bán thân,
chỗ ngay thắt lưng "xửa eo" xuống.
Màu sắc xửa cỏm tùy thị hiếu từng người có
thể giữ nguyên màu vàng óng của tơ tằm hay nhuộm hồng nhạt hoa đào, xanh thanh
thiên, màu tím hay màu nõn chuối... đó là những màu sắc được ưa chuộng (vải tự
dệt) mua của người Kinh, người Hán..., còn Váy thì màu đen, đen nhánh, váy lụa
thì nhuộm chàm, tím thẫm rồi nhúng bùn ao cho thật đen, thật mượt.
Xửa cỏm may thân áo bó sát người, tay áo rộng,
từ nách khâu hẹp dần xuống. Gấu áo khâu lót thêm 2 lần vải, rộng chừng ba phân,
khâu đột nịt chặt ôm lấy vòng eo thắt đúng lưng long, phần trên đủ ôm lấy bộ ngực
nở nang khít khao gây ấn tượng. Mép gấu áo chỉ đủ chấm tới mép cạp váy, ngang
thắt lưng nên khi cử động (cúi xuống hở tí eo lưng, dướn mình hay ngã về phía
sau thì hơi hở nude (nuy) chỗ rốn khá gợi cảm. Trước ngực từ tới Rốn là 2 hàng
cúc bạc "mắc pém" như một đàn bướm bay dọc trên 2 nẹp tà áo.
Về số cúc bướm (mắc pém) có 2 ý kiến:
1. Hàng mắc pém với số lẻ 11 cặp được bố
trí khéo léo dày đặc lấp lánh trên ngực phụ nữ Thái - Số lẻ ở đây tượng trưng
cho sự vận động, phát triển đi lên (số chẵn tượng trưng cho sự yên tĩnh, không
động, không phát triển - những sản phẩm dùng cho phụ nữ đang sống thường thiết
kế với số lẻ, còn để cho thế giới hư vô "phi" là số chẵn).
Bậc cầu thang để lên xuống nhà này hàng
ngày có số lẻ, chỉ làm chẵn khi đưa ma.
2. Hai là: Màu nền tà áo không trùng với
màu áo và cúc bạc. Số cúc bao giờ cũng "số chẵn" với ý nghĩa đầy đặn,
trọn vẹn dành cho chồng con - khác với những số lẻ trong kiến trúc nhà ở,
"lẻ" là sự sinh sôi phát triển.
Hai ý kiến trên đều có lý lẻ... Thực tế ở
mỗi vùng, mỗi chi (ngành) Thái có quan niệm khác nhau đôi chút - có lẽ là:
* Với con gái chưa chồng thì Xửa Cỏm có số
hàng Mắc phém số lẻ.
* Khi có chồng con rồi thì xửa cỏm có số
hàng cúc bướm số chẵn.
Cũng có thể số hàng chẵn hay lẻ phụ thuộc
vào chiều dài của áo (áo người cao hay thấp) miễn sao cho nó cân đối hợp lý là
đẹp.
Xửa cỏm của phụ nữ Thái đen: Cổ áo cạp hai
lần vải, khâu đột, cổ đứng có phần gò bó cứng nhắc thì xửa cỏm của chị em Thái
trắng lại bẻ tai, chiết giấu mép, vòng cổ rộng hình trái tim mở dài hở đến trước
ngực rất mềm mại duyên dáng.
Các cô gái rất ưa kiểu xửa cỏm này, còn
các "bà xã" khi vẻ đẹp lý tưởng "eo kíu meng nhay" lưng eo
con tò vò không còn nữa, thì các chị rất ý tứ khi mặc xửa cỏm đã khéo léo dùng
các móng tay ém đẩy lớp mỡ bụng lên (đã qua nhiều lần sinh đẻ) rồi vừa cài cúc
bướm nên vẫn tạo được hình dáng thon thả gọn gang.
VÁY THÁI
Có nhà thơ đã cảm:
"Váy em sắm lệch, nhiều khi cũng
tình"
Váy (xỉn) của phụ nữ Thái màu đen, khâu
kín mép kiểu váy ống, vòng ống rộng gấp đôi vòng eo, cạp váy màu trắng, còn độ
dài tùy theo cao thấp của người mặc và thường là chùng quá bắp chân. Ở trong gấu
váy, chị em cạp thêm một đường viền vải màu đỏ thắm rất cách điệu gợi cảm:
Ai đó hát ngất ngư Phố Bản
Lũ nghé tơ nhảy giỡn rộn bờ khe
Ngọn gió quẩn thổi tung viền váy đỏ
Làm ngả nghiêng lơi lả cánh rừng tre.
Váy mặc bó sát vào mông, tạo 1 đường cong
thật đúng như một nhà Văn Trung Hoa đã khắc họa cái đẹp "phong nhũ phi đồn"
(vú nở, mông to) của người phụ nữ đang thì của thời hoạt động tình dục mạnh mẽ,
sinh con đẻ cái để nòi giống phát triển và trường tồn.
Khi mặc váy nếp phần thừa quấn vào một bên
hông rồi gấp bẻ trở lại đằng trước thành một đường chiết ly thẳng từ eo xuống gấu
váy. Tuy thế, nếp gấp này không làm mất đi nét uốn lượn ở phần hạ bán thân của
người phụ nữ Thái.
Thắt lưng được làm bằng lụa tơ tằm dài gấp
2 lần rưỡi vòng eo, rộng chừng bốn năm phân, màu hoa lý hoặc màu xanh nõn chuối.
Hai đầu chính nối thêm 2 mẩu vải màu đỏ chói gây chú ý.
Từ nhỏ các bà, các mẹ đã dạy con cách thắt
khăn nơi thắt lưng (xài yêu) để sao "Eo kíu manh po" (thắt đáy lưng
con tò vò).
Khi thắt lưng thì thắt ngay dưới cạp váy
trên hông, mối đằng trước hơi chếch về phía bên hông một chút. Ngày nay, nhiều
cô gái đã "cải tiến" dùng dây thắt lưng hoa nhiều màu gấp nếp - không
thắt mà quấn giấu mối, trông khá điệu đàng, mảnh dẻ, kiêu sa. (Theo Phan Kiến
Giang)
Khách quan mà chiêm ngưỡng: Ngắm phụ nữ
Thái với trang phục xửa cỏm ta ngỡ đó là một nàng vệ nữ rất cổ điển mà vẫn hiện
đại, bó sát tạo eo, nổi bật các đường cong lý tưởng (như thi hoa hậu)... chị em
Thái đã rất táo bạo trong sắp xếp đường nét (gây gợi cảm). Cái váy dài tha thướt
xúng xính như muốn kéo dài thêm cho phận hạ bán thân, làm sao chân dài thêm;
còn cái xửa cỏm thì cứ như hơi quá ngắn lại ôm xít thân thể vùng trên như dồn
nén chật chội, căng phồng như muốn bung ra "bong ra" hiến dâng cho
người tình "của em của anh đây mà" rất gần gũi thân thương đầy chất
nhục cảm.
Khi may mặc bộ "xửa cỏm", chị em
rất chú ý bố trí phối hợp màu sắc (các tông màu) không diêm dúa, lộng lẫy mà vẫn
giản dị, ấm cúng.
Váy đen nhánh thêm viền phía trong đỏ ở gấu
váy, khi bước đi xao động cùng khăn piêu trên đầu, bộ xà tích bạc ở thắt lưng
thật là vừa tạo hình, vừa tạo sắc (hai cái màu nóng tương phản): Màu đỏ ẩn hiện
làm cho màu đen thăm thẳm, sâu hơn như ẩn sau đó là vùng "âm" của
tình ái...
Sự tương phản lung linh sống động ấy trong
một tồn tại ở một chỉnh thể thấp nhất, sự hài hòa cân bằng âm dương như "ải
cắp êm" (bố với mẹ) đời đời bền vững hội nhập với áo sơ mi, quần Jin hiện
đại vẫn không lạc mốt.
KHĂN PIÊU
"Piêu" tiếng Thái nghĩa là
"khăn". Đó là một tấm vải thổ cẩm tự dệt rộng chừng hai gang tay và
dài một sải tay, mặt vải sợi dệt thô nhuộm chàm kỹ ngả màu xanh đen, còn nhấn
thêm nước vỏ cây Ban cho đen nhánh bóng.
Khăn tuy dài nhưng khi đội thì chỉ một đầu
khăn vắt trên đỉnh đầu rủ xuống trán và một đầu thả xuống sau lưng dưới gáy, chỉ
những phần hở ngoài mới thêu trang trí hai đầu khăn, còn đoạn giữa để nguyên vải
chàm thô.
Hai mép đầu Piêu được viền một diềm vải đỏ
(hay vải ngũ sắc) kéo sang 2 bên mép cạnh bên bằng một đoạn bằng một nửa chiều
rộng khăn, các góc khăn trên mép vải viền được tết chỉ màu thành các "cút
Piêu" bằng chỉ nhiều màu thành các vòng tròn nhỏ mỗi đoạn vòng một màu.
Tùy loại Piêu mà tết thành từng nhóm 3 hay 5 hay 7 cút.
"Cút Piêu"; hình tượng cây guột ở
đoạn chồi là non xoắn hình trôn ốc nó cũng như 2 cái khău cút trên đỉnh đầu hồi
nhà.
Ô vải vuông ở hai đầu khăn là gương mặt của
Piêu, là nơi trổ tài thêu thùa của chị em... Bố cục vuông gấm, vải đỏ thành những
ô vuông đồng tâm hay lệch 45o so với ô bao ngoài gần mép đầu khăn gây cảm giác
chuyển động như bánh xe quay. Cũng có khi bao quanh vuông gấm là các ô vuông nhỡ
xếp cạnh nhau thành 4 băng dọc theo các cạnh hình vuông, mảng vuông bên trong mới
bố cục thành các ô vuông đồng tâm. Ở lối bố cục tất cả đều là những hình vuông
được thêu thành các dải hồi văn các hình móc câu hay tam giác đồi đỉnh, hình
răng cưa, hình ô trám, hình đàn khỉ, đàn ngựa đuổi nhau chạy vòng quanh các
hình vuông, còn mặt hình vuông trong cùng thì thường thêu những ngôi sao ở cánh
hay nhiều cách biến thể. Những hoa văn ấy đều phản ánh hiện thực, song không
sao chép tự nhiên mà đã được cách điệu thật khái quát và hình học hóa, số kiểu
hoa văn tuy không nhiều, song nhờ kết hợp khéo léo ở từng bàn tay vàng và theo
tập quán từng vùng mà vừa mới lạ vừa quen thuộc lại như mở ra vô hạn (theo TS
Chu Quang Trứ).
Về màu sắc chỉ thêu thường là màu tươi cơ
bản. Piêu Yên Châu sặc sỡ, ưa dùng các màu gốc đối chọi mạnh: Trên nền khăn
xanh chàm đen, nổi bật lên là những màu sáng mạnh như đỏ rực, vàng nghệ, vàng
chanh, trắng, xanh lá cây, xanh lơ tạo thành sự phối hợp màu khá mạnh bạo. Piêu
Điện Biên ít màu hơn thiên về đằm thắm.
Khăn Piêu do các cô gái Thái làm ra để
dùng, để tặng bạn tình làm quà kỷ niệm, tặng cha mẹ, cô bác, anh chị bên nhà chồng.
Khăn Piêu rất tiện dụng: Dùng đội đầu, quấn cổ và khi cần thì buộc làm "địu"
để địu con nhỏ. Nó đẹp như câu hát:
"Chiếc khăn Piêu
Thêu chỉ hồng
Theo gió cuốn
Bay về đây
Dâng trên tay..."
Nó chính là nơi lắng đọng tâm hồn (tình
yêu) và phẩm chất cao đẹp của người con gái Thái.
8/3/2012 - NK
34- QUẮM TỐ MƯƠNG
"Truyện kể bản Mường" là một bộ
thông sử của tộc người Thái, ngành Thái đen trình bày những sự kiện nửa hư
(truyền thuyết) nửa thực qua cuộc "mang gươm đi mở cõi" cách đây khoảng
gần nghìn năm của chúa đất Thái đen ở Mường Lò (Nghĩa Lộ).
Qua phần huyền thoại ... đến lúc Then (trời)
cho tạo Tum Hoàng xuống làm chủ vùng đầu sông Nậm Lài, Ao Xe, Nậm Tè (Sông Đà),
Nậm Tào (Sông Thao)... rồi tạo Tum Hoàng cho hai em là Tạo Xuông, Tạo Ngần xuống
ăn đất Mường Ôm, Mường Ai ngoài vòm trời, rồi tới dựng Mường Lò Luông, cùng
theo có các tay chân họ Lò, Lương, Quàng, Tòng, Lèo... tôn họ Lò làm chủ. Lúc
đó đất Mường Lò đã có người. Mọi (Mường), người Mang cư trú. Xây dựng theo Mường
Lò thì Tạo Xuông ở lại lấy vợ sinh ra Tạo Lò, cho Khun Lường làm mo, Tạo Lò làm
chúa. Về sau Tạo Xuông cũng trở về quê cũ Mường Ôm, Mường Ai.
Tạo Lò lấy vợ sinh ra 7 con trai: Ta Đúc,
Ta Đẩu, Lặp Li, Lò Li, Lạng Ngang, Lạng Quang và Lạng Chượng... các con khôn lớn,
Tạo Lò chia cho các con đi làm chúa các mường: Tạo Đúc "ăn" Lò Luông,
Ta Đẩu "ăn" Lò cha, Lặp Li "ăn" Lò Gia, Lò Li
"ăn" Mường Min, Lạng Ngạng "ăn" Mương Vân, Lạng Quang
"ăn" Xí Xam, Bản Lọm. Ngoài ra Tạo còn cho bô lão già bản Xửa Cang Ho
"ăn" Mường Pục, Mường Mẻng... Rồi các cháu nội được chia đi làm chúa
miền đất đầu sông Thao nước đỏ.
Riêng con út Lạng Chượng không có Mường để
"ăn" - "con út không có ngựa, con út không có Mường" (giàu
con út khó con út là thế). Lạng Chượng mới bàn với các tay chân giúp việc là
các ông ho hé, ông mo, ông nghe... triệu tập binh tướng, dân chúng mở lối đi
tìm Mường. Quân đi đến Khau cả, Khau Pục, Mường Min thì tiến thoái lưỡng nan,
chúa bèn cúng "pang cha đáp" cầu hồn ông nội là Tạo Xuông, Tạo Ngần
xuống phù hộ.
Chọn ngày lành, quân Lạng Chượng đến Mường
Lùng - dốc Khau Phạ nhìn thấy cánh đồng rộng (xã Ngọc Chiến bây giờ) bèn dốc
quân vượt dốc Xam xíp vào Mường Chiến. Tạo Mường Chiến khiếp sợ xin gả con gái,
Lạng Chượng ưng ý nhận đất Mường Chiến là Mường họ ngoại.
Tới Mường Chai, Tạo ở đây sợ phải dâng nhiều
trâu.
Binh Chúa vượt rừng rậm, qua cầu mây Vạn Tọ,
không thuyền bắc cây qua Nậm Tè (Sông Đà)... đến đây vấp phải sự chống cự của
người "Xá Cắm Ca" (Khơ Mú) do Tù trưởng Khun Quàng cầm đầu. Mác Chúa
ngắn nên chúa phải chạy, mác Quàng dài nên đuổi Chúa xuống Nậm Tè, bị bắt cạo
trọc đầu phơi nắng, binh Chúa chết 800 người gan dạ... Rồi chúa rút binh về Ít
Ong (Thủy điện Mường La hôm nay) để tang đồng đội.
Rồi sau một thời gian nghỉ dưỡng rút kinh
nghiệm chúa Lạng Chượng thắng Khun Quàng chiếm được đất Mường La từ Nặm Bú qua
Khau Pha, Kéo Tèo, qua Nặm Cá (Chiềng An), Chiềng Căm (Thị xã), Cọ, Kẹ qua núi
Khau Hào lên Mường Muổi (Thuận Châu)... gặp quân Xá của Khun AmPoi ở núi Khau
Tù, Khau Cả, quân chúa đánh nhiều lần bị thua... rồi chúa lập mưu "Mỵ Châu
- Trọng Thủy"xưa, xin làm rể ĂmPoi... chọn ngày lành chúa mở tiệc chuốc rượu
say cho Bố vợ, rồi giết chết đoạt đất Mường Muổi.
Quân Chúa tiến lên Mường Quài (Thiên Giáo)
chê đất ở đây ẩm ướt tanh hôi, bé nhỏ, qua Mường Húa, Mường Ẳng tới Mường Phăng
chế đất bé trũng như vũng trâu đằm, chim cuốc chạy qua, chim đa đa chạy lại
cũng thấy. Quân chúa tiến vào Mường Thanh, đất này thật tốt "nhất Thanh,
nhì Lò, tam Than, tứ Tấc" (4 cánh đồng rộng ở Tây Bắc) ở đây Mường rộng lớn,
tròn như cạp nong, cong như sừng trâu, cho quân lính phá rừng khai hoang làm ruộng,
chia đất thành hai vùng "Xoong Thanh" cho già Nà Lếch làm mo.
Lạng Chượng làm chúa Mường Thanh lấy vợ bản
Pe sinh ra Khum Pe, rồi lấy vợ sinh ra Khun Mứn. Khun Pe mất sớm, ông nội đem
cháu về nuôi, sau Khun Mứn sinh Tạo Pàn. Chúa Lạng Chượng già rồi mất... cháu
tiếp là Tạo Chiêu lên "ăn" đất Mường Lay, Tạo Cằm về Mường Muổi.
Cứ tiếp là Tạo Chông, Tạo Thâng, Tạo Quá Lạn,
Tạo Chương, Tạo Quạ, Tạo Quạ lấy nàng An Phấư ở Mường Lay làm vợ cả, và Nàng Xơ
(người Xá dòng dõi Khun Quàng, ĂmPoi) làm vợ hai. Nàng Xơ sinh ra chúa Lò Lẹt.
Lò Lẹt lấy tên hiệu là Ngu Háu (rắn hổ
mang) làm chủ đất Mường Muội nhiều năm vào đất triều cống Đại Việt từ đấy.
Cứ thế, cứ thế... ghi chép kéo dài cho tới
năm Mầng Cậu (Đinh Hợi -Đồng Khánh nhà Nguyễn năm thứ 2) quân Pháp lên đánh chiếm
Mường La (Thị xã). Thời đó Tây tiến lên Pa Tần bị Tạo Điêu Văn Tri đánh cho phải
lui về - Mường Lay - Mường La, mãi sau Quan 6 ở Hà Nội sai Pa Vi lên dụ Tạo Tri
hàng phục - Thế là 16 châu Thái bị Tây cai trị từ đấy cho đến 7/5/1954 chiến thắng
Điện Biên...
* Bản Mường Thái dưới thời thực dân Pháp
đô hộ (Thành Thái thứ 2: 1890 - 1954):
- Cầm Văn Oai làm chủ Mường Mụa (Mai Sơn)
- Ở Mường La: Tây đóng trụ sở (kiểu tỉnh lỵ
ở Tạ Bú gọi là Vạn Bú)
- Cầm Văn Hoan làm Tuần phủ cai quản 9
châu Thái đen.
Cầm Văn Oai ở Mường Mụa kiêm chức Quản đạo
Thái đen.
Điêu Văn Tri quản đạo vùng Thái trắng.
Bạc Cầm Hạc làm tri châu Mường Muổi
Hoàng Văn Cấp làm tri châu Mường Vạt
Xa Văn Cả làm tri châu Mường Xang.
1/2/1917 Chánh xứ Lô Mét mở trường dạy chữ
Quốc ngữ và chữ Tây ở Sơn La. Cũng năm đó chủ Mường La là Cầm Văn Quế lên thay
cha là Hoan vừa mất, Hoan làm chủ Mường La 33 năm, khi chết, làm ma mổ 32 trâu
và trồng 36 cây heo ở mộ.
Năm 1919, Quế làm nhà ngói bắt dân mỗi
"xổng" nộp 100 đồng bạc trắng.
Năm 1922 Tây bắt dân đổi tiền "cống
chảy" lấy tiền "hua cỏm" hẹn một năm phải xong, cứ 3 đồng cống
chảy được 1 đồng hua cỏm. Dân mường thời đó túng tiền lắm, họ phải bán gạo,
trâu với giá rẻ mạt (trâu mộng 12 đồng/1 con và mua hàng với giá cắt cổ như sợi
vải, thuốc lào, 1 kg muối giá 5 hào).
Năm 1931 Tây xây nhà tù Sơn La mở đường
cái ô tô đi Tạ Khoa (qua đèo Chẹn), năm 1932 Tây lại mở đường đi Thượng Lào qua
rẻo Pa Háng, rồi mở tiếp đoạn Mộc Châu về Suối Rút (đường 41) người Thái gọi đó
là đường Pha Lỉ, Pha Tổ... dân phải đi phụ đục núi phá đá nhiều người bị chết -
con gái phải gả bán sớm (lấy tiền) Bản mường không yên vui.
35 - LỜI ĂN TIẾNG NÓI
Lời ăn tiếng nói trong giao tiếp hàng ngày
bộc lộ nhân cách, lối sống (tính cách) của một dân tộc. Nhiều khi chỉ một hiện
tượng (một hành xử) cũng đã để người ta có cảm tình hay khó chịu về dân tộc đó.
Ví dụ có người nhận xét:
Tính cách người Hàn Quốc qua hiện tượng lặng
lẽ xếp hàng cả tiếng đồng hồ trước giờ lên máy bay (còn người Nhật thì qua vụ
sóng thần và thảm họa nhà máy điện hạt nhân Fucưxima hồi 11/3/2011 từ người dân
tới ông Thủ tướng đã hành động, ứng xử như thế nào (qua màn hình ti vi) đủ cho
cả thế giới kính phục người xứ mặt trời mọc.
- Người Tàu (Trung Hoa) có một nền văn
minh rực rỡ cỡ 5000 năm lịch sử, nhưng khi tiếp cận với số đông cụ thể thì lại
thấy như bước vào xã hội thiếu trật tự như "vào đến phòng đợi ở sân bay,
đã thấy rất đông người ngồi la liệt trên ghế hoặc dưới đất, nói chuyện ồn ả hoặc
ăn uống nhồm nhoàm. Nét nổi bật của người Trung Quốc là ăn to, nói lớn... khi
lên máy bay thì xô đẩy chen lấn, la hét chửi bới nhau, rồi giành giật chỗ để
hành lý. Khi đã vào ghế ngồi yên vị rồi là họ bắt đầu mở miệng để chuyện trò,
tranh luận to tiếng như một cái chợ".
Hai tính cách nổi bật là: Chen lấn và sẵn
sang xâm phạm vào sự riêng tư của người khác.
Về đi lại hình như người ta không bao giờ
chú ý (nhường đường) hoặc có nhường họ thì cũng không có lời cảm ơn. Về sinh hoạt
thì hở cái gì ra là mất cắp, tính vùng miền cục bộ (như ở ta là dân Nghệ Tĩnh)
rất mạnh mẽ.
Việc khạc nhổ thì người Tàu đứng số một thế
giới đến nỗi khi tổ chức Thế vận hội Bắc Kinh (2008...), lãnh đạo phải có chỉ
thị cấm khạc nhổ ngoài đường phố Thủ Đô.
- Người Hà Nội: Xưa nổi tiếng là thanh lịch,
hào hoa phong nhã, thì nay xuống cấp đáng báo động: Ra đường thấy bất cứ cái gì
lạ (như tai nạn xe máy, cãi nhau) là xúm đông xúm đỏ gây tắc nghẽn giao thông.
Ăn tục, nói tục thì chắc Tàu cũng phải chào thua: Xô đẩy chen lấn, nói to, trộm
cắp..., đái bậy thì thôi rồi.
Tính khoe mẽ, trưởng giả, học làm sang (kể
cả tham nhũng) đang trỗi dậy, hoành hành đáng sợ, sự coi thường kỷ cương, luật
pháp diễn ra khá phức tạp.
Còn về người Thái, qua nhiều năm "cắm
bản" Nguyễn Khôi tôi thấy có hai điều nổi bật: Chất phác thật thà (không
nói dối = ba vẹo), không trộm cắp (kin lắc); nếu ai mắc phải thì bị cộng đồng
dân bản tẩy chay, xua đuổi.
Đặc biệt trong sinh hoạt thường ngày của
người Thái là nhẹ nhàng, dịu dàng, rất ít khi to tiếng (vợ chồng ít khi cãi
nhau), không đánh mắng trẻ con, phụ nữ (phụ nữ được tôn trọng, yêu quý), trong
các bữa liên hoan tiệc tùng diễn ra khá lớp lang, trật tự - khi vui là
"hát" (khắp) là xòe (xe) là hút hai sừng trâu rượu cần, là cụng ly
vài ba chén rượu cất (lẩu xiêu). Không đồng ý thì nói "đồng ý thôi" một
cách nhẹ nhàng
Nói năng vào thưa ra gửi (xo phép), gặp
nhau có lời chào "khẳn qua, xiểng qua" cho tặng nhau có lời cảm ơn
chân thành và còn hẹn gặp lại. Dân bản sống với nhau kiểu công xã thị tộc nông
thôn "tắt lửa, tối đèn"có nhau, chia ngọt sẻ bùi, tình nghĩa thủy
chung.
Lời ăn tiếng nói của người Thái được bộc bạch
trong "Quăm son Côn" (lòi khuyên răn người). Đó là những câu rất đạo
lý đời thường nhưng khá minh triết:
- Về mặt "xưng hô" thì:
Thẩu
hịa me/ Ké hịa lua
(Già
gọi Mẹ/ vừa gọi Thím)
- Ăn
xem nồi, ngồi trông hướng, có ý tứ:
Năng
hảu bấng thí
Ní hảu
bấng bón
(Ngồi
phải xem chổ/ đi phải xem nơi)
Nung
sửa bang nha ngoi táng
Nung
xỉn hang nha ngoi tu
(Mặc
áo mỏng (nữ) đừng đứng trước cửa sổ
Mặc
váy mỏng đừng đứng trước cửa vào ra)
Au
mia bấng me nai
Sự
quai bấng me tổn lang
(Lấy
vợ xem mẹ vợ/mua trâu xem trâu đầu đàn)
Thốm
nặm sa lai hảu bấng chong
(nhổ
nước miếng phải xem khe dát)
Khong xáu ca đi ca panh nha chăm xảu
(thấy người có của quí giá đừng sán đến gần)
Cốn tai pợ sốp/cốp tai pợ o
(người chết vì cái miệng/ ếch chết do lắm
tiếng kêu)
Phua
mia cu mưng nha va
(tình vợ chồng chớ gọi mày tao)
Quăm đi phăng cảu sok
Quăm hại hí cảu na
(chớ lời lành chôn chín tấc
Chở lời xấu dài chín xải)
Xép khẩu é kin nốt háy
Quây khanh né xỉ nột bản
(Đói bụng tưởng ăn hết cả chõ (xôi)
Buồi cương cứng tưởng địt được (nữ) cả bản.
Nha chằm díp nha khịt ton
(Khi cầm nắm xôi chấm chớ có
Kẹp thêm miếng thức ăn (cá thịt) - tức là
đừng ăn tham - xấu.
Nhay pay đón mưa đăm
(Đừng có đi trắng về đen - ăn ở hai lòng).
Nha du chăm nưa xiêu
(Đừng có xán vào vợ người khác)
Chẩu bái ngắm xiêu ngăm
(Mình không nghĩ ngợi, ý tứ gì (vô tư) thì
sẽ có người khác nghĩ (nhớ) đến mình).
Xin trích một số câu đã trích ra tiếng phố
thông:
* Người Thái có luật Mường, lệ bản.
Có thấp có cao/ biết cao biết thấp.
* Nhiều người đắp thành bờ.
Một người phá thành thác.
* Không được ba hoa
Không được nói phét
Không được sợ việc
Không được lười biếng
Không được ngủ sớm
Không được dậy trưa...
* Không được nhai chộp choạp
Không được cái không bảo có
Không được kề cà say rượu
Không được đánh vợ
Không được ăn trộm
Không được nói dối
* Ăn cơm trước khi nuốt phải nhai
Giơ dao ba lần mới chém
Nghĩ ba lần mới nói
* Bố mẹ nuôi không bằng thầy dạy
Thầy dậy không bằng tự mình làm nên
* Đông con cháu, thiếu gạo ăn
Sướng con cu, mù con mắt.
Những cái buồn của người Thái:
"Con dại, vợ chết, bố mẹ mất sớm, anh
em ở xa"
Vợ chồng xa nhau, bỏ nhau, thiếu cơm, thiếu
muối
Đi thuyền không có mái chèo
Lạc rừng trời tối/ cơm không, chẳng có thức
ăn. Đêm nằm không có vợ để ôm. Dằm (gai) chọc móng tay / ve cắn lỗ tai.
Mắt mù, tai điếc
Đào con dúi hang sâu / nói chuyện tình với
gái nặng tai.
Đắp bờ phải bùn nhão.
Ăn không có bạn
Ở chẳng có phường
Đau bụng không có thuốc
Đau mắt, đói chữ chẳng có thầy.
Anh em ghét chẳng ai thương.
*
* *
Lai côn đi/ lai phi pương cáy / lai mạy
pên hươn chăn
(Nhiều người thì tốt / nhiều ma thì tốn gà
- phải cúng / nhiều cây thành nhà đẹp).
Đông luông báư mi mạy
Chí au săng pên pá
(núi rừng to không có cây
Thì lấy đâu thành rừng)
Lời ăn tiếng nói (tư cách đạo đức
Thái) được đúc kết thành tục ngữ, thành luật Mường lệ bản để giáo dục mọi người sống, lao động
trở thành những con người tốt, có kỷ cương, có tình nghĩa xây dựng bản mường - đất nước ngày một giàu đẹp.
Góc thành Nam Hà Nội 19/4/2011
NK
36 - TÁY PÚ XẤC
Cùng với "quắm tố Mướng" là truyện
Táy Pú Xấc "Người Thái đánh giặc" là một sử thi tầm cỡ về "kể
ông cha chinh chiến"...
Táy ở đây dùng đa nghĩa, như "trên đường
đi" gọi là Táy Tang, qua cầu là Táy Khua, đọc chữ là Táy Xư, kể chuyện là
Táy Quắm Tố... Táy nghĩa là kể.
Pú là ông nội, người tôn kính như
"Bác", Pú ở đây là ông cha, lãnh tụ, thủ lĩnh.
Xấc là chiến tranh: Đi trận là Pay xấc,
đánh trộm là tặp xấc, dấy binh là diệt xấc, nổi loạn là xấc phản, giặc ngoại xâm
là xấc chinh mương, hay xấc cướp mường, hay xấc pua mương. Mặt trận là nả xấc,
cuộc chiến là Chộ xấc, đi chiếm đất là xấc to mương - "xấc" đánh nhau
cả xâm lược lẫn tự vệ.
Nội dung thư theo lịch sử của Quắm tố mướng,
mở đầu từ Tạo Lò tới Cầm Nho (Kăm nho) là 50 đời.
Sử thi viết theo lối hát "khắp"
dùng rộng rãi trong sinh hoạt văn hóa đời thường và nghi lễ.
Mở đầu là:
Cạy hin pẻn ke ma bốc
Nộc tót háy tai thẩy
Tai thẩy tai ti non
Tai cuông côn cuông kon mạy xọk
Pú hók lộm khẩu heo Tông Lo
Chang nháư tai thót nguông thót nga pạt
phạk Tao, u,
khong...
Ẩy đá dẹp đá tảng lên cạn
Chim gõ kiến chết già
Chết già tại nơi nằm
Chết trong bộng trong cành cây Xọ
Cụ Tổ đổ xuống vào mộ đồng Lò
Voi lớn chết rụng vòi ngà bên sông Thao,
nậm u, MêKông...
Đoạn tả Lò Lạng Chượng đem quân đi đánh
chiếm Mường La
Mi khỏi kôn pay cón
Hảư Ải Ón uôn tang
Tốc Xả chi, Xả cha
Tốc Mương Bá, Mương Ai
Tốc Mương Chai, Mương chiến
Tốc Pák chiến ti nặm hăm
Tốc Pák Păm ti nặm hạk
Pọng cánh quen phăn hủa
Phăn hủa hảư kôn xen kôn păn pú bải
Có chân sai đi trước
Cho Ải Ón dẫn đường
Đến Xá chi, Xá cha
Đến Mường Bá, Mường Ai
Đến Mường Chai, Mường chiến
Đến ngả suối chiến nơi sóng cuộn
Đến ngả suối Păm nơi nước phèn
Pọng và Quen (quan và dân) đóng thuyền
Đóng thuyền cho quân ức quân nghìn cụ bơi.
Đoạn kết:
Bản Lụa (Thuận Châu) Ho Luông Sinh pay xảng
/ lau diên ké xia tạu
Thẩu xia bản xia na
Chắng púk hảư Ho Luông Tiên pay kín
Đin na Lụa na Lài to đaư coi xảng
Hák vá Sen Lộc lau Ké xia tạu
Thẩu xia bản xia na
Chẩu xáư hảư Pọng An dệt Sen
Đin na tạu tin đán
Bản Pán Vạy Mo Yên mưa khẩu
Bản Té pẩu chiên vạy bấu kha
Kọ pưa pang xên phon chu tang mãn hụ
Bản Lăng hảư sự Phúc mưa kin
Đin Na Lăng to đaư coi xảng
Cựt áo quảng hom pay chom tom.
Ho Luông sinh vun đắp Bản Lụa
Lại đã già lìa can
Khuất lìa bản lìa ruộng
Mới để Ho luông Tiên mà vào hưởng ăn
Bao đất ruộng Lụa, ruộng Lài hãy quản
Nhưng rồi Sen Lộc đã già lìa can
Khuất lìa bản lìa ruộng
Pọng An được cụ (chúa) cất nhắc làm
Sen
Bao đất ruộng bản Mòn hãy quản
Ruộng trải tận chân lèn
Mo yên vào bản Pán
Bản thủa ông cha truyền lại không
buông
Bởi thông thạo mọi đường cúng tế
Bản Lăng dành Sự phúc lên
"ăn"
Bao ruộng đất (ở bản) Lăng hãy quản
Lo rộng tính xa dân chúng sum vầy.
(Theo Vương Trung).
37 - THIẾT CHẾ XÃ HỘI THÁI XƯA
* Bản (làng): Là đơn vị hành chính nhỏ nhất,
là cơ sở của Mường, là nơi cư trú của các gia đình phụ hệ thuộc nhiều dòng họ.
Bản trung tâm của Mường gọi là Chiềng (phát âm ở Lào là Xiêng, Xiêng như Chiềng
Lề (TX Sơn La) Xiềng Khọ, Xiêng Khoảng. Loại Chiềng thứ 2 là có một bản lớn, tồn
tại độc lập không trở thành trung tâm kinh tế - xã hội và chính trị của một Mường
nào đó (như Chiềng Đông, Chiềng Sàng, Chiềng Khoi ở Yên Châu) có nơi gọi là
Viêng (Viêng Chăn - Lào, Viêng Lán ở Yên Châu).
Trong Mường có hai loại Bản:
- Bản của dân tự do (dân páy)
- Bản của dân lệ thuộc (dân Thín).
Đứng đầu Bản là Tạo Bản (Quan bản) thường
là người dòng họ Tạo Mường - (Quý tộc) nắm giữ "Không cha truyền con nối".
Quyền lợi của Tạo bản được cấp 1 số ruộng cấp tùy nơi "khoảng 1000 bó mạ
(10.000m2), chức vị thứ 2 là chá bản (chá là nói)" truyền đạt mọi tin tức
công việc của bản, ruộng được cấp bằng ½ Tạo Bản, khi thôi chức vụ phải trả lại
ruộng.
Họ được dân bản đến giúp công xá, biếu xén
thịt và sản vật.
* Xổng (Poọng) gồm 3 - 5 bản (như kiểu Tổng,
Xã?), đứng đầu là Tạo Xổng thường là quý tộc, ruộng được cấp 2500 bó mạ
(25.000m2), dân Xổng phải làm không công cho Tạo (được ăn cơm), dân cũng phải
biếu xén Tạo Xổng.
Giúp việc Tạo Xổng có Quan Xổng, Chá Xổng...
mất uy tín hay chết thì dân bầu lại.
* Mường: Gồm nhiều xổng, bản đứng đầu là Tạo
Mường. Chết dân bản bầu mới. Toàn bộ đất đai trong Mường là do Tạo Mường cai quản,
gia đình Tạo chỉ "ăn" một đám ruộng là "lương" cấy 5000 bó
mạ (50.000m2), dân phải đến làm không công cho Tạo.
Theo Quắm tố mướng thì chúa đưa dân đi chiếm
đất "có ruộng mới tập trung được dân cư cũng như có nước mới giữ được
cá". Có ruộng đất thì mới có bản Mường. Từ khi Mường Lò (Văn Chấn, Nghĩa Lộ
- quê tổ Thái đen Việt Nam) ra đời từ Tạo Lò thì bản Mường cũng dần dần được tổ
chức thành hệ thống.
Nhiều bản hợp thành Xổng (Sổng), có nơi gọi
là Ngụ (dưới cấp Lý Trưởng "xã"). Một hay ba Lộng (có nơi gọi là Ken)
cộng với 3 - 4 Xổng thành một Mường. Từ 4 - 8 mường trở lên thành một
"chu". Các đơn vị từ Chu (Châu), Mường, Lộng, Bản là đơn vị hành chính
mà Chu là đơn vị cao nhất (cỡ cấp huyện) của địa phương. Các đơn vị Xổng, Ngụ
là dưới Mường Phìa (trực thuộc Phìa).
Mỗi Chu (Châu) khi mới xác lập mang tính
chất tự trị, không tập quyền thành một tổ chức thống nhất ở địa phương (phong
kiến sơ kỳ, có tính cát cứ sứ quân).
BỘ MÁY QUAN CHỨC Ở CÁC CHÂU THÁI SƠN LA -
TÂY BẮC
Cánh đồng Mường Lò (Tông Lò) do Tạo Lò đứng
đầu khai phá dựng bản, lập mường vào thế kỷ 11 (nhà Lý) đã là nhà nước phong kiến
tập quyền) nhưng sử sách Thái không thấy ghi (kể cả sử Việt) vê bộ máy cai trị
(quan lại) ở các Châu Thái Tây Bắc.
Theo Quắm Tố Mướng thì khi Mường Lò (mường
khởi thủy) ra đời thì có phân chia:
Họ Lướng dệt mo
Họ Lò dệt Tạo
Họ Lường (Lương) làm Thầy mo
Họ Lò làm Tạo.
Như vậy Tạo Lò làm chủ (Chúa) Mường Lò.
Luật Mường đã xác định: Tất cả các thứ (kể
cả đất đai) là của Vua, của Tạo - đó là quyền sở hữu Nhà nước.
An Nha (Quan Châu) phân quyền ban cấp tất
cả các sản vật thiên nhiên trong rừng, trên đất, dưới nước cho các mường phìa,
Lộng, Tạo, Bản đều thuộc quyền các quan chức ban cấp chiếm giữ.
Ai săn bắn được thú to, cá lớn đều phải
trích phần nộp cho An Nha một đùi, cho phìa một đôi thăn, nếu không coi là phá
tục lệ bản mường, tùy tội mà xử phạt. Do đó mỗi người dân phải luôn tự răn
mình.
"Phít nọi sia quai
Phít lai bên khỏi
É pảo hữ dók mi
É pi hữ dók tó
É khó hữ dók tạo quan"
"Sai phạm nhỏ mất trâu
Sai phạm lớn thành tôi tớ
Muốn có sẹo thì đùa với gấu
Muốn béo (sưng mặt), thì đùa với ong
Muốn nghèo khó thì đùa với Tạo Quan"
Quy định bổng lộc dành cho các Quan chức ở
các Châu Thái Tây Bắc thời phong kiên - thực dân (trước thời giải phóng 1953)
là: "Làm chủ vùng đất cai trị / hưởng nương dành ruộng chia / ruộng cày
nương cuốc / cuông nhốc pụa làm tôi tớ. Suối cá/ ong vách đá / mật nhung hổ gấu
hươu, nai, voi, tê giác tới rừng tre măng quý - dân ai vi phạm đều bị phạt tiền,
dân được tham gia cử Tạo, dựng Quan (lời ca cổ".
* VỀ TÊN GỌI BẢN MƯỜNG
Thường đặt địa danh theo tên sông suối,
núi, đất (na, nà) cỏ cây, con gì.
Ở Việt Nam có 37 mường Thái chỉ có Mường
Ai là có 1 bản.
"Mường" nghĩa hẹp là chỉ 1 đơn vị
hành chính...
"Mường" theo nghĩa rộng là 1
vùng miền, đất nước Quốc gia như Mường Ngô (Trung Quốc, nước Ngô thời Tam Quốc
mà Giao Chỉ phụ thuộc), Mường Lá Púa (Mường Việt), Mường trời, Mường Ma, Mường Lùm
(lúm) chỉ thiên hạ, cõi đời.
Đã có bản Mường là phải có Tạo (chủ mường):
Khột ma Phái mi mương
Tánh Mường phái mi Tạo
Khai ruộng phải có Mường
Dựng mường phải có Tạo
Chiềng hay Xiềng (Viêng):
Là đơn vị Bản trung tâm của Mường trong
(mường cuông). Chữ "chiềng" bao giờ cũng có một tên riêng khác kèm
theo để biến thành danh từ riêng. Ví dụ: Bản Ban là trung tâm của Châu Mường
"Mường Mụa" (Mai Sơn) - lúc này chiềng Dong vừa là tên riêng chỉ bản
Ban, vừa là tên gọi Mường trọng (trung tâm của Châu mường), đồng thời là tên của
cả châu mường Mường Mụa.
Châu mường Mường Sang (Mộc Châu) là Chiềng
Chu; Châu mường Mường Tấc (Phù Yên) là Chiềng Hoa.
Đất Chiềng ở nhiều Châu Mường xưa (Châu Lỵ)
thường có hào lũy vây quanh để bảo vệ, hào lũy là (Viềng), từ đó danh từ này
nhiều khi trở thành tên của Châu mường - như Viêng Lò, Viêng Chăn (Lào).
Châu mường Mường La có Viêng dựng ở bản Giảng
(thị xã) nên gọi là Viêng Giảng đồn phòng thủ gọi là "che", ở Mường
La đặt ở bản Ái nên gọi là che Ái ở cách xa 10km.
Phần lớn "Chiềng" được áp sang
là "xã".
Bản Mường trung tâm là Mường trong (Mường
Cuông), ở ngoài là Mường Phìa ngoài (Mường Phìa Nọk) - Bản trung tâm của Mường
Phìa ngoài cũng gọi là Chiêng (Chiềng), ví dụ:
Mường Chanh là mường ngoài của Châu mường
Mường Mụa có tên Chiềng Quen, Mường Sại là mường ngoài của Châu mường Mường Muổi
(Thuận Châu) có tên là Chiêng Muôn. Sau 1954, ta đổi gán "chiềng" là
"xã".
Bộ máy chính quyền các chức dịch phân chia
thành hai đẳng cấp rõ rệt:
1. Dòng dõi quý tộc Châu mường gồm họ gốc
có tên Lò Cầm (đó là họ Lò to, Lò luông) để phân biệt với Lò bé (Lò bình dân).
Họ Lò Cầm phân chia ra các họ: Cầm, Bạc Cầm, Điêu (Đeo, Tao), Hoàng.
Dòng dõi quý tộc Thái có có họ Vi Khăm,
Kha Khăm, (Khăm = Căm = Kim = Cầm) phân thành họ Hà, Xa (Sa).
Người thuộc họ quý tộc được phép tham gia
giữ các chức người đứng đầu Bản, Lọng (Quen), các Phìa và An Nha Châu Mường.
2. Người thuộc ngoài họ quý tộc như Lò, Lường,
Cà, Tòng... thì chỉ được phép giữ chức dịch (cấp thấp) là người đứng đầu bản và
các ông Quan hàng "Xổng".
Đó là luật tục quy định, người nào đó có
thế lực muốn phá vỡ quy định này dù là quý tộc hay bình dân thì đều phải đổi họ
gọi là "nhập đẳm"(tư đẳm) - ví dụ họ Vi (bé) muốn làm Phìa, An Nha
thì phải đổi thành họ quý tộc Vi (lớn) phải làm khá phức tạp, tốn kém, ngược lại
người họ quý tộc muốn làm chức nhỏ như Pằn (xen), mo mường... thì cũng phải đổi
họ xuống thành họ Lường, Cà...
Mọi chức dịch trong của bộ máy của Mường
Phìa (chế độ Phìa Tạo) đều do An Nha (Chủ Châu (huyện) và Phìa Mường tiến cử, bổ
nhiệm. Khi bổ nhiệm xong, họ nghiễm nhiên tổ hợp thành một tổ chức tương đương
mang tên "Hội đồng bô lão toàn mường" (Thẩu ké hang mương) do chức
ông Păn (xen) hoặc mo đứng đầu).
Quan hệ giữa cấp châu mường với bốn mường
Phìa ngoài thì không hẳn, theo thứ cấp trên dưới mà theo cơ cấu truyền thống
vòng đồng tâm xoay quanh trục. Cơ cấu này quy định: Mường trong với bản trung
tâm gọi là Chiềng là Trục, còn các Mường ngoài ở vòng đồng tâm.
Trước thế kỷ 19, các Châu Mường Thái hợp
thành khu vực "16 châu Thái" (Xíp hốc Châu Tay) - trong dó có 1 châu
mường trung tâm, các châu mường khác tập hợp dưới hình thức thuần phục hay qui
phục "Mường Luông" (Mường lớn).
Triều đình Trung Ương từ Lý, Trần, Lê,
Nguyễn gọi đơn vị Mường Luông là "đại tri châu", đến năm 1834 vua
Minh Mạng đổi (xóa bỏ) chế độ đại Tri Châu và đặt ra các Châu (huyện vùng dân tộc),
đặt các Châu Mường Thái thuộc tỉnh Hương Hóa (trung tâm ở Hương Hóa, bên bờ
sông Thao, Phú Thọ hiện nay). Đến năm 1884, đất nước ta mất 6 Châu mường Thái
nhập vào bản đồ Trung Quốc theo Hiệp định Thiên Tân ký giữa thực dân Pháp và
triều đình Mãn Thanh.
Tổ chức xã hội theo các đơn vị Mường xưa
là một bước đệm chuyển từ tổ chức thị tộc, bộ lạc nguyên thủy (xã hội Thái gọi
là Đẳm) sang tổ chức Quốc gia dân tộc. Thuộc ngữ "Mường" không còn là
như một quốc gia dân tộc nữa, người Thái ở Lào, Thái Lan đã mượn danh từ gốc
Pali - SanoKis là Pa Thết để chỉ đất nước (Mường Pa thết Lào)
Đấy cũng là lý do, trong dân gian vẫn quen
gọi nước Thái Lan là Mường Thay, Lào là Mường Lào. Người Thái ở Việt Nam như chậm
hơn mới đi từ Đẳm đến trình đô bản mường (dưới cấp quốc gia) rồi phát triển gia
nhập quốc gia dân tộc Việt Nam (Pa thết Việt Nam). (Thái Việt Nam chưa lập
"Nhà nước riêng" mới ở dạng tự trị Bản Mường).
QUAN HỆ DÒNG HỌ GIA ĐÌNH VÀ HÔN NHÂN
Người Thái có ba quan hệ về họ hàng:
1. Ải noọng: Gồm anh em, chị em chưa xây dựng
gia đình sinh ra từ một (cùng mẹ cùng cha hay khác)- nội tộc 4 đời.
2. Nhinh Sao: Là họ nhà trai hay thuộc khổi
Ải noong và rể.
3. Lung Ta: Họ nhà gái (bên ngoại).
Ngày 29 - 4 - 1945 chủ tịch Hồ Chí Minh
(VNDCCH) ký sắc lệnh thành lập khu tự trị Thái Mèo (sau đổi là khu tự trị Tây Bắc).
Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa V phê chuẩn
xóa bỏ cấp khu và hợp nhất 1 số tỉnh. Hội đồng nhân dân khu tự trị Tây Bắc họp
ngày 19 - 20/1/1976 tại thị xã Sơn La (thủ phủ khu tự trị) công bố quyết định của
Quốc hội (thời Tổng bí thư Lê Duẩn) kết thúc 20 năm tồn tại của khu tự trị.
Thành tựu: Theo báo cáo 20 năm hoạt động của
khu tự trị Tây Bắc, ngày 19-1-1976 của UBHC khu thì:
1, Về chiến đấu đánh bại chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ xâm lược. Toàn khu có 82 xã trực tiếp chiến đấu, 16 xã bắn
rơi máy bay mỹ và 21 xã bắt sống giặc lái, sản xuất được giữ vững, huy động
562000 lượt người với 95 nghìn mét khối vật liệu đá đảm bảo giao thông phục vụ
chiến đấu.
2, Kinh tế: Từ 1954 thực hiện "cải
cách dân chủ" (ở xuôi là cải cách ruộng đất) đã xóa bỏ chế độ bóc lột
cuông nhốc (chế độ Phìa Tạo), xóa bỏ ruộng chức, chia ruộng cho nông dân lao động,
đã đưa 79% hộ nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp - 50% số HTX lập được kế hoạch
sản xuất hàng năm, thực hiện 3 khoán - những HTX tiên tiến như Nậm Mùn, Bản Phủ
(Lai Châu), Púng Luông, Cao Đa (Nghĩa Lộ), suối Lìn, Kim Chung (Sơn La)...
So với năm 1955 thì sau 20 năm, giá trị sản
lượng nông nghiệp tăng 228%, bình quân hàng năm tăng 16%, diện tích trồng lúa
tăng gấp 7 lần, diện tích hoa màu tăng 2 lần. Đã có 195 HTX đạt trên 5 tấn
thóc/1 ha. Đã hình thành các vùng sản xuất chuyên canh lớn như bò, chè Mộc
Châu, Cam Đường, vùng chè Văn Chấn, vùng lúa lợn Điện Biên, vùng ngô Nà Sản...
Hàng năm khai thác 28000 m3 gỗ, 2,5 triệu
cây tre nứa, 7000m3 củi, có 13 lâm trường, 50 HTX nghề rừng.
Cây chè cả khu có 5000ha thu 7000 - 8000 tấn/
năm.
- Về chăn nuôi: Ngay sau ngày giải phóng
1953 - 1954 toàn khu mới có 63.000 con trâu, 28.000 con bò, 5000 ngựa, 137.000
lợn, sau 20 năm phát triển có 140.000 trâu, 43.000 bò, 52.000 ngựa, 313.000 lợn.
Hằng năm cung cấp cho miền xuôi: 2000 con
trâu, bò cày kéo, trên 2000 tấn trâu bò thịt.
Về công nghiệp - thủ công nghiệp: Năm 1955
mới xây dựng được xí nghiệp đầu tiên "cơ khí Thuận Châu" với giá trị
sản lượng khoảng 7000đ/năm, (giá 1kg gạo là 3 hào). Sản xuất công cụ: Từ 1962
phát triển công nghiệp địa phương (điện, cơ khí, vật liệu xây dựng, may mặc, chế
biến nông sản...) sản xuất tới trên 40 loại sản phẩm, trị giá 1974 là 25 triệu
đồng.
1955 cả khu mới có 1 nhà máy thủy điện 24
KW, chưa có điểm cơ khí nhỏ nào thì sau 20 năm đã có hàng nghìn KW nhiệt điện,
30 trạm thủy điện nhỏ từ 5 50 KW, có 250 điểm cơ khí nhỏ.
Giao thông: Đã mở mấy đường ô tô liên tỉnh,
xuống tới huyện gần 3000km. Sơn La mở đường lên vùng cao CoMạ, Nghĩa lộ lên Trạm
Tấu, Lai Châu lên Mường Tè, xây hàng trăm cầu cống lớn. Đảm bảo cho 1 đầu dân
cung cấp hàng năm 6 kg muối; 4 mét vải, 3 kg dầu hỏa.
Giáo dục: Trước 1954: 99% dân mù chữ, chỉ
có 25 trường tiểu học với khoảng 750 học sinh. Đến 1974 - 1975 thì đã có 1974 lớp
mẫu giáo với 3720 cháu, 2181 lớp vỡ lòng với 49.982 học sinh, 449 trường phổ
thông cấp 1 (tiểu học) với 24.989 học sinh, 107 trường cấp 2 (Trung học cơ sở)
với 14.461 học sinh và 13 trường PT cấp 3 với 2193 học sinh, có trường dân tộc
nội trú (riêng cho con em dân tộc Mèo) có 350 - 400 em theo học từ vỡ lòng đến
cấp 2.
Y tế:
90% xã có trạm y tế, có 40 bệnh viện và bệnh xá với 2000 giường .
Văn hóa văn nghệ được phát triển.
Chính trị: Có 17 đại biểu Quốc hội khóa V
(trong đó 13 là dân tộc thiểu số), bộ máy UBHC các cấp: Số cán bộ người daan tộc
chiếm 76 - 80% (số cán bộ dân tộc 20 năm tăng từ 865 lên 9575 người, số có
trình độ trung học, đại học là 934 người trong số 8722 người), số cán bộ lãnh đạo
các cấp từ 375 người (1955) lên 4324 người (1974).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét