Đồng bào Thái ở Nghĩa Lộ thu hoạch vụ mầu.
Người Thái Đen vào Việt Nam từ khá sớm, theo
các nhà khoa học thì ngay từ đầu thế kỷ XI họ từ Vân Nam Trung Quốc qua Mường
Ôm, Mường Ai vào định cư tại cánh đồng Mường Lò (Văn Chấn - Nghĩa Lộ thuộc tỉnh
Yên Bái) rộng thứ hai tại khu vực Tây Bắc và từ đó tỏa đi khắp nơi và phát triển
thành cộng đồng dân tộc Thái Đen lớn mạnh có mặt ở nhiều nơi ở Việt Nam như Điện
Biên, Sơn La, Lai Châu, Nghệ An, Thanh Hóa và phát triển tới các quốc gia láng
giềng khác như Lào, Thái Lan.
Cộng đồng người Thái là một trong những dân tộc có trình
độ phát triển từ khá sớm từ tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư cho tới trang phục,
ẩm thực, kiến trúc và đặc biệt là trong canh tác nông nghiệp lúa nước với các
tri thức, kinh nghiệm dân gian và trình độ kỹ thuật canh tác đạt tới kỹ thuật
cao. Cho tới ngày nay các kỹ thuật đó đang phát huy hiệu quả trong canh tác
nông nghiệp tại các cánh đồng ở Tây Bắc như Mường Thanh, Mường Lò, Mường Than,
Mường Tấc.
Trải qua quá trình di thiên và định cư lâu dài tại mảnh đất
Mường Lò, đã tạo ra cho người Thái Đen một hệ thống các tri thức bản địa quý
giá trong sản xuất nông nghiệp, kết hợp với các luật tục trong việc bảo vệ nguồn
nước, bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn giống quý hiếm để phát triển nông nghiệp
bền vững như hiện nay.
Qua nhiều thế hệ, khi khoa học kỹ thuật chưa phát triển,
đồng bào dân tộc Thái đã biết xây dựng hệ thống thủy lợi với mương – phai – lái
– lin là một trong những kỹ thuật đạt tới trình độ cao nhất, sớm nhất và rất
chuyên nghiệp trong canh tác lúa, đây là một trong những thành tựu đáng kể
trong của người Thái đen. Với công cụ thủ công là dao và xẻng, họ đã đào hệ thống
mương dẫn nước dài hàng chục cây số để dẫn nước về khắp các ruộng lúa trong
vùng. Cùng với mương là phai, hệ thống đập làm bằng tre và đá ngăn nước từ suối
dâng lên cao chảy vào các mương đưa nước tới ruộng. Để chia nước vào các ruộng
là các lái (mương nhỏ) và lin (ống dẫn nước bằng cây bương, cây vầu tới từng thửa
ruộng) dẫn nước tới từng chân ruộng để ruộng nào cũng đủ nước cho lúa phát triển
ổn định trong chu kỳ. Nhờ hệ thống này mà canh tác nông nghiệp của người dân được
chủ động và hiệu quả, không còn phụ thuộc vào thời tiết, vào trời như trước
đây.
Các tri thức bản địa về canh tác lúa nước phong phú đã
làm cho nền nông nghiệp lúa nước của người Thái đen phát triển tới đỉnh cao như
ngoài kỹ thuật dẫn thủy nhập điền người dân còn biết đốt rạ lấy tro tăng màu
cho đất, các kỹ thuật kết hợp thả bèo tấm, nuôi cá trong ruộng với trồng lúa
mang lại thu nhập cao cho người dân từ nguồn cá thu được, bên cạnh đó bèo tấm
giữ ấm cho chân lúa vào mùa đông, cá thả trong ruộng giúp lớp bùn luôn được sục
lên giúp khoáng chất và các chất hữu cơ trong bùn. Phương pháp chọn ủ và làm
phân xanh thay cho các loại phân hóa học như ngày nay là một tiến bộ của đồng
bào Thái, vừa phát triển được cây lúa đồng thời bảo vệ được nguồn nước, bảo vệ
được môi trường trước tác động của các chất hóa học giúp phát triển nông nghiệp
“xanh” và bền vững.
Không những thế, đồng bào còn có các kinh nghiệm trong việc
lựa chọn các loại giống tốt có năng xuất cao, chất lượng tốt và cho năng xuất
cao để làm nguồn giống phụ vụ lâu dài, yếu tố chọn giống được người dân lựa chọn
rất kỹ và sàng lọc qua nhiều giai đoạn, nhiều năm để trở thành giống đặc trưng
của vùng Mường Lò – Nghĩa Lộ.
Kỹ thuật cải tạo đất không chỉ sử dụng phân xanh, tro… mà
họ còn biết thay đổi nguồn nước, lấy những nguồn nước có hàm lượng khoáng chất
cao từ những kinh nghiệm dân gian để thay đổi liên tục giúp cho lượng phù sa và
khoáng chất được bổ sung liên tục cho ruộng lúa của đồng bào.
Bên cạnh các tri thức dân gian đó, thì việc kết hợp với
các luật tục và các lễ hội trong sản xuất nông nghiệp đã tạo cho người Thái có
một môi trường canh tác hoàn hiện một cách tổng thể. Họ có những luật tục quy định
rất chặt chẽ trong việc bảo vệ nguồn nước, bảo vệ rừng, bảo vệ mùa màng được
ghi trong luật tục Thái của mường, của bản và có những chế tài cụ thể để xử lý
những hành vi vi phạm của người dân ảnh hưởng tới cộng đồng.
Cùng với các tri thức bản địa,
luật tục là hệ thống các lễ hội dân gian liên quan tới sản xuất lúa nước của
người Thái đen, tạo lên một vùng văn hóa dân gian đặc sắc, phong phú đa dạng thể
hiện bản sắc riêng biệt và sự giàu có trù phú của người dân nơi đây. Các lễ hội
như lễ hội “xên đông” lễ hội bảo vệ rừng đầu nguồn, giúp gìn giữ nguồn nước cho
sản xuất nông nghiệp, “lễ hội nước” yếu tố nước với văn hóa sinh sống gắn liền
với nguồn nước (người Thái ăn theo nước), lễ cúng ruộng “tám tế na”, lễ cúng
vía trâu “tám khuôn quai”, tết síp xí… là những nghi lễ gắn liền với sản xuất
nông nghiệp của người dân vùng Mường Lò.
Ngày nay, trong trong sự phát
triển mạnh mẽ với những tác động tiêu cực mặt trái của khoa học kỹ thuật như việc
sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu, thuốc hóa học, phân hóa học… đã làm ô nhiễm nguồn
nước, ô nhiễm đất, giảm sức kháng bệnh của các giống lúa đã tác động mạnh mẽ tới
đời sống người dân, làm mất khả năng phát triển bền vững trong sản xuất nông
nghiệp. Do vậy, việc bảo tồn và khai thác, phát huy các tri thức bản địa của
người Thái đen là một trong những giải pháp hữu ích để bảo vệ môi trường, gìn
giữ và phát triển các sản phẩm nông nghiệp truyền thống có chất lượng cao và tốt
cho sức khỏe là xu hướng tốt trong tương lai. Bên cạnh đó, việc phát huy các luật
tục và các lễ hội nông nghiệp của người Thái trong phát triển du lịch sẽ giúp
tăng thu nhập cho người dân, xây dựng phát triển tốt thương hiệu gạo Mường Lò,
qua đó góp phần xóa đói giảm nghèo phát triển kinh tế bền vững cho đồng bào dân
tộc Thái Đen là hướng đi tích cực vừa bảo tồn các di sản văn hóa cộng đồng dân
tộc Thái của Việt Nam nói chung và người Thái Đen ở vùng Mường Lò- Nghĩa Lộ nói
riêng, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế khu vực và vùng miền./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét