Thư tịch của Trung Quốc như sách Man thư và Tân Đường thư trong phần mô tả về người phương Nam
Bách Việt ở vùng Vân Nam xưa, có đoạn ghi về người Man như sau: "Ô Man
Đông Thoán và bạch Man Tây Thoán" (ô là đen, bạch là trắng), sự đen trắng
này không phải ở da người mà ở trang phục - ô Man Đông Thoán là người Man ở
phía Đông có trang phục màu đen, còn bạch Man Tây Thoán là người Man ở phía Tây
có trang phục màu trắng. (Cần Trọng, Thái Tây Bắc Việt Nam, Nxb khoa học xã hội,
1978, tr 210)
Tư
tưởng này, ngày nay vẫn còn thấy tiềm tàng, đậm nét trong tâm thức của các cư
dân sinh sống ở đây, song có sự đậm nhạt khác nhau qua các hình thái biểu hiện
văn hoá của từng dân tộc. Còn việc phân đôi dân tộc thành hai ngành thì nay vẫn
còn thấy trong trang phục của một số dân tộc như người Mèo và đặc biệt là người
Thái ở Tây Bắc. Vì thế, việc tìm hiểu người Thái Trắng và người Thái Đen ở Tây
Bắc là điều cần thiết. Tuy nhiên việc nghiên cứu này là ở yếu tố văn hoá học,
chứ không phải yếu tố dân tộc học.
Dân
tộc Thái ở Tây Bắc, phân làm hai ngành Thái Trắng - Thái Đen. Đây là một vấn đề
đặt ra cho ngành Thái học của cả khu vực Đông Nam Á - nơi có người Thái sinh sống.
Song cho đến nay, vấn đề đó vẫn chưa thấy giả thuyết nào có sức thuyết phục.
Thiếu nữ dân tộc
Thái Đen
Thiếu nữ dân tộc
Thái Trắng
Theo tác giả CầmTrọng, ngành Thái Trắng và ngành Thái Đen thuộc phạm vi cư trú rất rộng: ngành Thái Trắng sang cả người Tày ở Việt Bắc, song nay họ đã là một cộng đồng riêng, nhưng vẫn là bộ phận trong nhóm nói tiếng Thái thuộc ngành “Trắng” . Ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến ngành Thái Trắng và ngành Thái Đen cư trú ở Tây Bắc nước ta.
Có ý
cho rằng Thái Đen là nhóm người có nước da hơi đen và ngược lại, nhưng qua trực
quan, chúng tôi thấy không phải thế, và lâu nay cũng không thấy khoa Nhân chủng
học nói đến điều đó. Vì thế, việc có hai ngành Thái Trắng và Thái Đen ở đây,
không phải do vấn đề màu sắc sinh học, mà do tâm lý xã hội tạo nên.
Chúng
tôi đã thẩm thức vấn đề này ở vùng Thái Tây Bắc từ năm 1958 và sau này, khi
đang chuẩn bị tư liệu cho cuốn sách "Văn
hoá Nõ Nường" (sinh thực)
qua những cổ vật: tượng, phù điêu và hoa văn thổ cẩm biểu tượng "âm
dương" của người Kinh và người Thái thì thấy rằng việc có hai ngành: Thái
Trắng, Thái Đen ở dân tộc Thái, đó là sự phân chia một "nửa" của cha
và một "nửa" của mẹ, về những người con trong cùng một dân tộc.
Tư
tưởng ấy được người Thái xưa ký thác lại trong ba biểu tượng sau đây: một là
"quả trứng" tâm linh, tiếng Thái gọi là "Xay mo" cùng hai
hoa văn thổ cẩm khác là "Xai Peng" (Tơ hồng) và "Kút Piêu" (ngọn lửa sự sống). Ba biểu tượng này
mô tả về chất "nguyên khí" của Po Me (Bố Mẹ) - chất đã "sinh
ra" con người - người Thái . Ba biểu tượng hoa văn đó được thêu vào khăn
Piêu để phụ nữ đội lên đầu cất giữ.
Ngay
từ thưở ban sơ, các dân tộc nói chung và người Thái nói riêng đã đặt câu hỏi về
nòi giống, gốc nguồn của dân tộc mình: con người ở đâu mà ra, và quá trình sinh
ra đó như thế nào? Trả lời - Qua trực quan, họ thấy: Người Thái sinh ra từ hai
chất "nguyên khí" của Po Me (bố mẹ): chất của Po màu "trắng",
chất của Me màu "đỏ". Vậy phần của cha (Po) ký hiệu màu "trắng"
Thái Trắng, trang phục màu trắng – tóc để sau vai; phần của mẹ (Me) ký hiệu màu
"đỏ" Thái Đỏ, trang phục màu đỏ. Vậy ngành Thái Đỏ có trước, về sau
ngành Thái Đỏ chuyển thành ngành Thái Đen- phụ nữ Thái đen có chồng rồi tóc
trên đầu tằng cẩu bới ngược lên và trùm khăn Piêu.
Sự
phân định màu sắc về Thái Trắng, Thái Đen ấy, ngày nay nhìn lại là phù hợp với
người phương Đông, trong quan niệm về ngũ sắc thì màu "đen" và các
màu "sẫm" là thuộc tính "Âm", còn màu "trắng" và
các màu "sáng" là thuộc tính "Dương".
Theo
tập tính của loài người thì giới mày râu (Po) nghiêng về sức vóc cường tráng,
còn giới đàn bà (Me) thuộc phái yếu, làm đẹp. Vậy nên nhóm phần của mẹ - Thái
Đen, phụ nữ được trưng diện thoả sức với các gam màu sặc sỡ theo huyết khí của
mẹ là màu đỏ, mà chiếc khăn "Piêu" đội đầu của phụ nữ Thái Đen là một
điển hình.
Khăn Piêu
Những hoa văn trên khăn "Piêu" đội đầu của phụ nữ Thái đen, với ý nghĩa chịu trách nhiệm mang tải những tư tưởng ban đầu của người Thái về việc sinh thành, phát triển và bảo vệ từng thành viên của dân tộc. Còn phụ nữ ngành Thái Trắng tuy cũng là phái yếu, thuộc diện làm đẹp, nhưng theo ký hiệu của cha (Po) mầu "trắng", cho nên chỉ được trưng diện ở các gam màu "trắng" và "sáng", không có gam màu sặc sỡ. Như vậy, việc Thái "Trắng" và Thái "Đen" là thuộc phạm trù tâm thức, quan niệm về sinh học giống nòi, còn sắc phục chỉ phần thứ yếu bên ngoài. Dù vậy cả hai ngành Thái đều cùng một cội nguồn (cha mẹ) cho nên mỗi ngành đều giữ lại những kỷ vật màu sắc của ngành kia. Hiện tượng ấy, người Trung Quốc gọi là cất giữ ngọc bội. Đó là việc ngành Thái trắng vào những ngày cúng giỗ Tổ tiên người ta lại ăn vận đồ "đen" và phụ nữ hàng ngày mặc áo ngắn (xửa cóm) thì nẹp viền cổ và lề áo cũng phải màu "đen" rồi trên đó mới đơm hàng cúc bướm bạc, vì thế ngạn ngữ có câu áo rách giữ lấy lề cho nên người ta lấy lề áo làm vật "ngọc bội" là có dụng ý. Còn phụ nữ ngành Thái Đen thì trên lề áo đen cũng đơm hàng cúc bướm bạc và đeo xà tích bằng bạc bên thắt lưng trái.
Trong
các dấu hiệu về trao đổi màu sắc (ngọc bội) này của hai ngành Thái vừa nêu ở
trên thì dấu hiệu mặc áo đen trong dịp cúng lễ Tổ tiên của ngành Thái Trắng là
có ý nghĩa hơn cả, hoặc dùng "lề áo" màu đen, vòng qua cổ, rồi thõng xuống hai đường
trước ngực cũng là một biểu
hiện có ý nghĩa. Ngoài ra việc ngành Thái Đen dùng mầu "đen" và màu
"trắng" để làm bao bì đóng gói quà biếu giữa hai nhà thông gia, cũng
là tín hiệu có sức thuyết phục cao.
Ở
ngành Thái Đen, con gái đi lấy chồng, sau thời gian gia thất yên ổn, con cái đã
lớn khôn, có tục về tạ ơn cha mẹ đẻ. Lễ vật mang theo gồm: 5 sải vải trắng và 4
sải vải đen, cùng 6 đồng và 4 hào bạc trắng. Phân thành các lễ: dùng một sải vải
trắng gói 4 hào bạc biếu người làm mối, dùng 4 sải vải trắng gói 2 đồng bạc biếu
bố vợ, dùng 2 sải vải đen gói 2 đồng bạc biếu mẹ vợ và dùng 2 sải vải đen gói 2
đồng bạc trả lại cho vợ chồng con đem về lại quả, bên gia đình nhà chồng([1]).
Nghi
thức dùng màu sắc để đóng gói quà biếu ở đây là có dụng ý (chỉ diễn ra ở hai
gia đình thông gia - tức là tượng trưng cho: bên nửa của cha nhà “trai” và bên
nửa của mẹ nhà “gái”) gói vải màu "trắng" biếu cho "bố" vợ,
gói vải màu "đen" biếu cho "mẹ" vợ và gói quà của nhà
"gái" lại quả thì gói vào vải màu "đen", còn gói quà của
nhà "trai" biếu cho người làm mối thì gói vào tấm vải màu "trắng"
: ở đây mầu "trắng" thì bên nam (bố vợ, nhà trai), còn màu
"đen" thì bên nữ (mẹ vợ, nhà gái). Đó là những tín hiệu tự nó đã giải
mã cái tâm thức truyền kỳ về Thái Trắng "phần" của cha và Thái Đen
"phần" của mẹ ở người Thái cho hậu thế.
Từ
hai chất "nguyên khí" của Po Me có mầu "trắng" và màu
"đỏ" người xưa đã lấy quả trứng gà cũng có hai mầu "trắng"
- "đỏ" và nở thành gà con, làm vật biểu tượng so sánh, đối chứng và
được coi như quá trình thai nghén của một hài nhi trong bụng mẹ- tức là
"quả trứng tín ngưỡng" biểu tượng về nguồn cội sinh thành ra người
Thái. Cho nên quả trứng tâm linh được họ tôn vinh thành "vật linh" thờ
phụng mà việc phân đôi hai ngành Thái Trắng và Thái Đen là điển hình cho việc
tôn vinh, thờ phụng đó. Vì vậy, giới thầy Mo trong nghề bói toán đã lấy quả trứng
"tâm linh" (âm, dương) này để làm lễ vật môi giới, thỉnh cầu đến đấng
siêu nhiên, thánh thần, tổ tiên: thì điềm lành, điềm dữ ứng nghiệm tức thì ở vỏ
quả trứng, hoặc trứng đã ấp dở, còn non thì đập vỡ quả trứng ra nhìn hai đường máu mà đoán định sự việc lành hay dữ,
trong nghề bói toán. Do đó, quả trứng tâm linh được người Thái trân trọng tôn
thờ cả trong tín ngưỡng và ngoài đời thường.
Ngoài
đời thường, trong bữa ăn tươi, khi có khách, theo tục, trên mâm trước chỗ ngồi
của chủ nhà, đặt chiếc đĩa nhỏ đựng hai quả trứng, và hai cốc rượu hai bên. Lễ
vật tưởng nhớ đến Tổ tiên, gọi là "xay - Po Me đẳm" (trứng ông bà) ;
vào bữa, chủ nhà khấn mấy lời, rồi chủ khách mới nâng cốc chúc nhau.
Cùng
cần nói thêm: có thể ban đầu chỉ có hai ngành: Thái Trắng và Thái Đỏ, theo trực
quan qua mầu sắc "nguyên khí" của Po Me, về sau, khi xác lập mầu trắng
là Dương và mầu đen là Âm thì nhóm Thái mầu Đỏ chuyển sang nhóm Thái màu Đen.
Do đó mà có ngành Thái Trắng và Thái Đen, nhưng nhóm Thái Đỏ vẫn còn tồn tại,
song mờ nhạt dần.
Dân tộc Thái Đen
Như vậy,
quả trứng "tâm linh" là thành quả của cả quá trình tiên niệm trực
quan, mà tư duy trực quan là thuộc về thời tiền sử, mọi điều lớn lao đều được bắt
đầu từ đó - từ cái phôi thai của một sự sống của con người.
Ở
người Văn Lang – Giao Chỉ tâm thức phân đôi các con trong cùng dân tộc được thể
hiện trong văn hoá tâm linh, qua truyền thuyết Mẹ Âu Cơ đẻ bọc trứng nở trăm người con:
năm mươi người theo mẹ lên rừng, năm mươi người theo cha xuống biển. Tư tưởng
này được thể hiện trong các hình thái sinh hoạt của đời sống văn hoá và phong tục
tập quán, song ở đây chỉ nói riêng phần màu sắc trang phục.
Trang
phục của người Kinh bao giờ cũng thể hiện theo hai phần và hai màu. Đó là bộ áo
"kép" của người đàn ông: trong áo trắng, ngoài áo xanh lam, còn bộ áo
"tứ thân" của phụ nữ thì "mớ ba" "bớ bảy" và hai
màu, hoặc phụ nữ miền Trung thì áo "vá vai" nửa trên mầu trắng, nửa
dưới màu nâu. Người miền Trung ngày nay (như ở QuangTrị), chúng tôi thấy, khi
ra khỏi nhà đi chợ, đi làm, đều mặc hai áo cộc (kép) - hai áo kiểu như nhau, chỉ
khác là áo trong cài cúc, áo ngoài để hở. Hồ Chủ tịch có bức ảnh hai áo đại cán
(chiếc mặc trong, chiếc khoác ngoài) là từ tâm thức áo “kép” này của dân tộc.
Như
vậy tư tưởng phân đôi "phần" của cha và "phần" của mẹ - những
người con trong cùng một dân tộc, thành hai ngành kí hiệu trang phuc, “trắng”
“đen” chỉ còn lại trong dân tộc Thái ở Tây Bắc Việt nam. Còn tư tưởng này ở người
phương Nam Bách Việt nay chỉ tiềm tàng, sâu sắc trong tư tưởng phân đôi Âm
Dương mà thôi, được thể hiện trong ý niệm và các hình thái phong tục tập quán
v.v...
Ở
đây, việc dùng trang phục hai màu thì hầu như là tập tục của nhân loại, phải
chăng cũng được bắt nguồn từ tư tưởng phân đôi phần của cha và phần của mẹ những
người con trong cùng dân tộc? Vì tư tưởng “âm dương” là của nhân loại là cái
mách bảo cho nhân loại biết về “âm dương” là chất “nguyên khí ” của sinh thực.
Tóm
lại, tư tưởng phân đôi "phần" của cha và "phần" của mẹ -
những người con trong cùng một dân tộc, thành hai ngành kí hiệu trang phục,
“trắng” “đen” “Âm” “Dương”. Đó là tư tưởng chủ đạo của người phương Nam Bách Việt,
trung tâm là người Văn Lang Giao Chỉ. Tư tưởng này chi phối toàn bộ phong tuc tập
quán sinh hoạt đời sống của xã hội: từ đồ dùng vật dụng, chúng đều mang tính “đực”
“cái”, như ở người Kinh, ngay đôi phách gõ nhịp của ả đào trong Hát thờ cũng có
ý phiếm chỉ cái “âm” cái “dương” và âm nhạc thì tiếng trong, tiếng đục, hoặc
chiếc trống cũng trống đực, trống cái v.v... - nghĩa là, tư tưởng Âm Dương, chủ
đạo trong ý niệm và các hình thái hoạt động xã hội của người phương Nam Bách Việt.
[1]
Đại học quốc gia Hà Nội, Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và giao lưu văn hoá-
Chương trình Thái học Việt Nam -Kỷ yếu Hội thảo, nhiều tác giả, Hoàng Văn Nó, Một sốphong tục chính của người
Thái Sơn La, Nxb Văn hoá dân
tộc,1998, tr 535.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét