Phong tục cưới xin của người Khơ mú, Nghệ An
Phong tục cưới xin dân tộc Khơ mú không thể lẫn với bất cứ một dân tộc nào
Người Khơ mú ở Nghệ An còn lưu giữ được nhiều nét văn hóa đặc sắc, trong đó có phong tục cưới xin không thể lẫn với bất cứ một dân tộc nào.
Là một trong những cộng đồng xa xưa nhất sinh sống trên mảnh đất miền Tây Nghệ An. Trải qua nhiều biến cố thăng trầm, người Khơ Mú còn còn giữ được nhiều nét văn hóa đặc sắc, trong đó có phong tục cưới không thể lẫn với bất cứ một dân tộc nào.
Với người Khơ mú, sau mùa gặt hái là dịp để ăn mừng cơm mới và cũng là mùa cưới. Mùa cưới cứ thế kéo dài cho đến ra tết chuẩn bị phát rãy mới thôi. Sau vụ gặt, lúc bản làng no ấm nhất là lúc khí trời mát dịu, thời điểm tốt để các đôi trẻ xây dựng những tổ ấm mới. Có lẽ vì thế, từ tháng 9, tháng 10 âm lịch cho đến khi ra giêng, về các bản Khơ mú thường gặp nhiều đám cưới hơn cả...
Chẳng hiểu từ bao giờ, trong các bản của người Khơ mú có tục cưới thật khác lạ. Con trai lớn rồi thấy “ưng bụng” một cô gái bản nào đó, liền về thưa chuyện cùng cha mẹ định ngày đi hỏi vợ. Trước ngày đám hỏi hàng tháng trời, gia đình nhà trai phải xuống suối đánh cá, lên rừng săn sóc, mổ lợn làm thịt khô trên gác bếp. Bởi thịt, cá suối và thịt sóc khô là thứ sính lễ không thể thiếu khi đi hỏi vợ. Ngoài ra, cũng như người Thái hay người Mông, gia đình chọn trong dòng họ người làm “mối” để hỏi vợ cho con trai. Chỉ có điều người Thái chỉ có một ông bà mối, còn người Khơ mú có tới hai ông bà mối.
Trong ngày đi hỏi vợ, bên nhà trai cũng phải có mặt đông đủ họ hàng nên đám cưới nhỏ nhiều khi cũng linh đình chẳng kém ngày cưới chính thức.
Ngày cưới chính thức và cũng là ngày được mong đợi nhất. Vào ngày cưới chính, bên nhà gái thường được tổ chức linh đình hơn cả. Mọi công việc từ mổ lợn, gà, đến bày mâm, thậm chí mâm bát cũng đều do nhà trai lo liệu. Người Khơ mú quan niệm: Mình đi lấy con gái nhà người ta, nên phải tự lo lấy tất cả. Lúc này, nhà gái chỉ như những người khách mời mà thôi.
Về tục rước dâu, người Khơ mú thường rước dâu về ban đêm. Theo quan niệm của bà con, đây là lúc yên tĩnh thường không gặp phải trở ngại gì trên đường đưa dâu cũng như trong cuộc sống về sau. Trong đoàn đón dâu, họ nhà trai thường cử đi 12, hoặc 16 người. Người được chọn đi đón dâu cũng thuộc những gia đình chuẩn mực, kinh tế khấm khá so với dòng tộc, có địa vị xã hội. Điều này nói lên mong muốn có gia đình đối với đôi vợ chồng mới cưới về sau cũng trở nên khá giả, yên ấm. Số người trong đoàn đón dâu khi đi cũng như lúc trở về nhà trai phải là số chẵn.
Khi đoàn rước dâu trên đường trở về và chuẩn bị vào nhà, đích thân chú rể phải quét dọn trên một khoảng sân trước nhà, rồi trải lên đôi chiếu. Cạnh chiếc chiếu là 2 thau nước, có chuẩn bị sẵn khăn mặt. Khi những người trong gia đình nhà gái chuẩn bị bước vào chiếc chiếu, đôi vợ chồng mới cưới sẽ rửa mặt và chân tay cho từng người. Lúc này, ông mối sẽ hát tơm bài “Xin dâu”, sau đó nhà gái sẽ tổ chức trao của hồi môn, tiền mừng cưới cho cô dâu ngay tại nơi làm lễ trước sân. Sau đó thì cô dâu mới được đón lên nhà sàn. Khi dọn cỗ, gia đình nhà gái là người ăn trước tiên, rồi mới đến lượt khách được mời vào bữa. Đồ hồi môn các cô gái vùng cao thường được nhận từ cha mẹ và người thân là những chiếc gối và đệm được làm thủ công của người miền núi.
Sau đám cưới khoảng 1 tháng, nhà trai phải tổ chức “trả ơn” bố mẹ vợ lần nữa. Lúc này, mọi công việc cũng như nghi lễ trong đám cưới mới có thể gọi là đã hoàn tất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét