Gốm Mường Chanh


Trước đây, nhiều nơi thuộc tỉnh Sơn La như: Thuận Châu, Chiềng Cơi, Hua La và Mai Sơn có nhiều gia đình làm nghề gốm. Nhưng hiện nay ở những nơi này nghề gốm đã mất hẳn, chỉ có Mường Chanh, huyện Mai Sơn là duy trì nghề gốm.

Cư trú lâu đời ở Mường Chanh đồng bào Thái có nền nông nghiệp khá phát triển, họ trồng được một loại lúa nếp ngon nổi tiếng trong vùng gọi là nếp “tan nhe”. Đặc biệt người Thái ở Mường Chanh còn có một nghề thủ công đặc sắc đó là nghề gốm.
Gốm được làm từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau, trong thời gian này khí hậu khô ráo, ít mưa. Nguyên liệu làm gốm là bằng đất sét, được gia công cho thật nhuyễn, mịn và không còn tạp chất.

Nguyên liệu làm gốm Mường Chanh
Nguyên liệu làm gốm ở Mường Chanh chủ yếu là đất sét màu trắng nhạt, xanh đen, vàng, rất mịn và dẻo nên không phải qua công đoạn sử lý hoặc pha trộn thêm cao lanh. Trước đây, đất được cho vào cối dùng chày tay giã cho thật nhuyễn, ngày nay họ để đất lên bàn kê bằng gỗ và dùng gậy gỗ để đập. Vì thế, việc sử lý đất không những trở lên nhẹ nhàng mà có năng xuất cao hơn.
Công cụ chủ yếu nhất trong việc tạo hình gốm của người Thái là bàn xoay bằng thớt gỗ tròn, đường kính 39 đến 40 cm, cao 19 đến 20 cm, úp trên một trụ gỗ chôn chặt xuống nền nhà.
Ở Mường Chanh, tất cả các thành viên trong gia đình từ già đến trẻ đều có thể tham gia làm gốm. Đàn bà con gái và trẻ em có thể tham gia khai thác nguyên liệu, gia công nguyên liệu, quay bàn xoay.... Còn đàn ông phụ trách các khâu quan trọng như: thành hình sản phẩm mộc, xếp gốm vào lò, nung gốm.
Khi dựng hình sản phẩm, người Thái thường xem thời tiết, tránh ngày ngày mưa, nồm, độ ẩm không khí cao để khi nặn, tạo hình, thành sản phẩm cao không bị sụt xuống. Trường hợp đang nặn gốm gặp trời mưa, họ phải đốt lửa hơ cho khô bớt rồi mới nặn tiếp.
Việc dựng hình sản phẩm gốm ở Mường Chanh theo thể tự do, không theo quy chuẩn, song nhất thiết phải tuân thủ quy trình tạo hình, bắt đầu từ làm đáy, dựng thành, chuốt miệng rồi mới trang trí hoa văn và làm thể phụ.
Để làm đáy, người ta rắc một lớp tro mịn lên bàn xoay, đặt miếng đất sét lên mặt, miết xung quanh cho đất dính chặt vào bàn, dùng gậy gỗ dát mỏng, làm nhẵn mặt đáy, lấy dao tre cắt đáy kết hợp quay bàn xoay thành một vòng tròn quanh đáy sản phẩm.


Hoàn chỉnh phần đáy, người Thái mới chuyển sang dựng thành sản phẩm theo kỹ thuật đắp con trạch, dùng 2 tay vê đất thành thỏi dài từ 20 – 30 cm, dùng ngón cái của bàn chân phải quay bàn xoay, tay phải cầm thỏi đất, vừa xoay vừa be đất tạo vòng thành đầu tiên, dùng dụng cụ hình trăng khuyết để miết kỹ chỗ tiếp giáp giữa thành và đáy, tiếp tục làm các vòng thành khác theo lối đắp trạch. Dùng hai dụng cụ uốn cong, một cái trong và một cái ngoài, kết hợp chân quay bàn xoay để miết, làm cho thành sản phẩm cong theo ý muốn.
Tạo hình xong, muốn cho sản phẩm đều và nhẵn, người ta dùng 4 mảnh tre, gỗ mỏng để chỉnh hình và chuốt sản phẩm, sau đó dùng ống thụt kéo đất thành sợi, dao tre chạm hoa văn, móc để xén lợi, cắt miệng. Trong quá trình nặn gốm, để chống dính, người ta thường nhúng tay vào chậu nước hay tro bếp. Cuối cùng dùng sợi móc cắt miệng, lấy giẻ ướt vén đất tạo thành miệng sản phẩm. 
Tạo hình hoàn chỉnh, người Thái bắt đầu bước sang công đoạn tạo hoa văn.  Tùy theo từng loại sản phẩm mà người Thái Mường Chanh trang trí một loại hoa văn hình sóng nước, hình dải chỉ nổi hay cả hai loại hoa văn cùng lúc. Nặn xong, sản phẩm được để ngay dưới gầm sàn, hong cho đến khi nào khô hắn mới cho vào lò nung.
Nung gốm là khâu then chốt nhất trong quá trình sản xuất gốm của người Thái ở Mường Chanh. Vì nó quyết định chất lượng sản phẩm. Mỗi gia đình ở Mường Chanh đều tự làm lấy lò nung gốm. Người ta chọn chỗ đất cứng hay những chỗ đá đang phong hóa để đào lò, tiết kiệm củi đốt, sản phẩm chín tốt hơn và vào mùa mưa không bị sập. Sau đó, họ dùng cuốc, xẻng khoét vào sườn đồi theo kiểu lò hầm, hình dáng mu rùa (cao ở giữa và thấp dần ra quanh). Đáy lò không bằng mà dốc nghiêng, thấp dần từ ống khói ra phía cửa lò.
Chọn ngày nắng ráo, người ta xếp sản phẩm vào lò nung. Trước khi vào lò, chủ lò lấy bát nước gạo té lên trên miệng lò và khấn xin trời phù hộ cho mẻ gốm thành công, sau đó cắm ta leo lên trên miệng lò. Trong khi đốt lò, kiêng không được giã gạo, vì quan niệm làm rung long mạch đất, ảnh hưởng đến chất lượng gốm. Khi vào lò, nhất thiết phải xếp các sản phẩm thành một lớp, không để chồng lên nhau và cũng không lồng cái nhỏ váo cái to. Xếp xong mới bắt đầu nung gốm. Ban đầu, người ta đốt  nhỏ lửa  để sấy gốm cho khô, khi nhìn qua lỗ thông hơi thấy gốm chuyển sang màu hồng lửa, mới tăng thêm củi cho gốm chín. Khi thấy ngọn lửa xuyên qua thân đồ nung, nghĩa là gốm đã chín. Thời gian đốt và ủ lò khoảng 24 giờ.
Sản phẩm nghề gốm của người Thái Mường Chanh khá phong phú, gồm hơn 10 thể loại với nhiều hình dáng, kích cỡ khác nhau, chủ yếu là gốm gia dụng như chum, bình có quai, nồi nấu cách thủy, chày cối dùng để nghiền ớt, lục lạc để đeo trâu, bò... Bên cạnh gốm gia dụng, các lò gốm ở Mường Chanh cũng sản xuất một số gốm mỹ nghệ, các con giống như: Trâu, bò, ngựa, lợn, gà, vịt, cua, cá...Người Thái Mường Chanh còn sản xuất một số đồ gốm có giá trị như: Chum to, lọ cổ nhỏ được dùng làm của hồi môn cho con gái đi lấy chồng.

Sản phẩm gốm của người Thái Mường Chanh thuộc loại gốm trơn, không tráng men, ít tinh xảo và thậm chí có phần hơi thô, nhưng có lẽ vẻ đẹp của nó lại toát lên chính nhờ sự thô ráp, mộc mạc đó. Gốm Mường Chanh có khá nhiều ưu điểm: Nhẹ hơn, khó gỡ hơn và cũng ít bị rò rỉ hơn so với các nơi khác. Hơn nữa, khi ủ rượu, làm mắm hay ngâm măng chua sẽ có mùi vị thơm ngon hơn và để lâu ngày không bị nổi váng. Vì thế, các sản phẩm gốm được người dân địa phương rất ưa chuộng các sản phẩm của họ có giá trị hơn  nhiều so với gốm các nơi khác mang đến. Ở Mường Chanh hiện nay cũng có một số nghệ nhân rất lành nghề. Trong số đó có ông Lò Văn Phóng, năm nay 50 tuổi, ở bản Cang Mường. Ông Phóng đã cùng dân địa phương làm gốm và được suy tôn là "vua chum". Hiện nay, ông có thể làm bất cứ sản phẩm nào mà các thợ gốm lành nghề ở Mường Chanh làm được. Mặc dù vậy, nhưng gốm vẫn khó bán, người làm gốm mất nhiều công sức nhưng thu nhập chẳng đáng là bao, khiến đa số họ phải bỏ nghề, làng gốm vì thế đứng trước nguy cơ thất truyền.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét