Sơn La Ký Sự - Phần 1 (Nguyễn Khôi )

(Ghi chép về bản cũ, mường xưa)

Bài 1:
“Mười yêu không bằng người tình cũ
Mười nhớ không bằng nhớ bản xưa”
Thôn bản là hình ảnh thu nhỏ của xứ sở. Bản (làng) dân tộc Thái đầu tiên khi tôi đến ở là bản Nà Nghịu bên bờ sông Mã (thượng nguồn). Tiếng Thái có nghĩa là “bãi cây gạo”. Đó là mấy chục ngôi nhà sàn (gỗ, tre, nứa, gianh), mái hình mai Rùa, ở 2 đầu hồi có 2 tia “khau cút” (hoa nhà) sơn vôi, kẻ hoa văn đen như 2 cánh chim đang vẫy bay lên rất điệu đàng và rất bản sắc, không ở đâu có ngoài Tây Bắc Việt Nam.

Bản Thái, theo truyền thống thiên di từ vùng “xíp xoong păn na” (Vân Nam) sang đây đã trên 10 thế kỷ, theo “Quắm tố mướng” thì bà con “Thái tộc” thời ấy phải đi luồn rừng như con Don, con Dím để tránh cường hào và ác bá Hán tộc và sợ các quan Đại Việt không cho ở nhập cư…Dấu vết “đi đêm” để nhận ra nhau đồng tộc là cái “hoa nhà” (Khau cút) và cái hình mặt trăng lưỡi liềm nơi cửa sổ (đặc trưng của nhà sàn Thái). Bản Thái phổ cập 20 - 30 nhà, 50 - 70 nhà tùy theo số ruộng và nguồn nước để sinh sống. Bản thường chiếm vị trí đặc trí đứng lưng chừng núi (đồi) để tựa lưng một cách vững chắc, tập quán cư trú “hua mun đin, tin mun nậm” (đầu gối đất, chân đạp nước), phía trên là đỉnh núi, chỏm rừng nơi có nguồn nước (thượng nguồn) chảy về (theo máng) rót vào từng nhà, nơi đỉnh có rừng cây mây ủ tiếp với “Mường trời” (cõi linh thiêng), che chở cho bản làng. Dưới chân bản thường là sông, suối, cánh đồng…địa điểm bản thuận tiện cho canh tác (lúa nước, nương rẫy, săn bắt, hái lượm), kinh tế nông nghiệp dựa vào tự nhiên khá hoàn thiện.
Bản Thái: nhà nhà xếp hàng ngang, từ thấp lên cao, quay quần theo dòng họ (thường có ba đến bốn họ: Lò, Cầm, Quàng, Cà…) tắt lửa tối đèn có nhau, chỉ cần ai đó săn được 1 con thú nhỏ (con hoẵng, đơm được vài con cá to, là tối đó cả Bản lại ngất ngư chén “lẩu xiêu” (rượu cất) bên bếp lửa, hát “khắp” (Tản chụ, xiết xương) đến thâu đêm.
Làng người Kinh là nằm trong lũy tre xanh, trung tâm là ngôi Đình với cây đa bến nước, ao làng. Bản Thái không có cổng, lối vào tứ phía…trung tâm bản thường là “nhà Trường bản” (trưởng thôn) liền đó có ngôi nhà đất, gianh tre vừa làm lớp mẫu giáo vỡ lòng, dạy chữ Thái cho trẻ con (trước khi vào lớp 1 phổ thông) coi như “nhà văn hóa” nơi hội họp của bản.
Sinh hoạt cộng đồng bản: quan trọng nhất là tổ chức sản xuất rồi đến sinh hoạt văn hóa (cúng bái, lễ hội). Trưởng bản thường kiêm tổ trưởng sản xuất hoặc chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp (ở quy mô nhỏ).
Sáng ra (vào thời điểm tháng 6/mùa hè) khi gà  gáy sáng, ngựa trong tàu (hí) “chàng lụ khươi” (trai ở rể) dậy sớm mài dao cho cả nhà; anh chủ nhà dậy xem trâu xem ngựa; chị chủ nhà bồng con đang bú sang cho mẹ ôm ru ngủ, rồi đi xôi lại chõ cơm xôi…xong bốc chia vào từng “cóm khẩu” (giỏ xôi nhỏ) “ép khẩu” (giỏ xôi lớn).
Khoảng 5 giờ tinh mơ “tiếng trống đi làm vang gốc núi” từ nhà Trưởng bản (tổ trưởng hay chủ nhiệm) đánh 3 hồi dài, kết thúc bằng 3 tiếng nhằm gọi mọi người lao động (như đã phân công) hôm nay lên núi Pu Luông làm cỏ lúa nương, ngô nương. Anh chủ nhà dắt ngựa đi đầu, kéo theo một đoàn trên 10 lao động chính (cả nam lẫn nữ) nối đuôi nhau trên con đường mòn men theo các sườn núi “Khửn Pu “Khửn Pu….” Đi hơn 2 tiếng đồng hồ, mặt trời đã ló phía chân núi đằng đông, dòng sông Mã trông chỉ bằng chiếc đũa là tới những vạt nương rộng, lúa ngô đã lên trên đầu gối tới ngang ngực (đứng cái)…ai nấy: Nam thì phát cây dại, nữ thì cào cỏ nương bằng các cái “chóp”…khí trời mát mẻ, chim hót véo von ở rừng bên, cây cối xanh tươi mơn mởn…khoảng 11 giờ trưa, nắng oi oi, trời đứng bóng, nương rẫy dọn cỏ xem ra đã sạch tinh tươm…tất cả lùi sang lán bìa rừng(lều nương): để phòng mưa nắng, nghỉ ngơi, ăn trưa cơm xôi chấm muối ớt (món chéo) cùng ít rau xôi đem từ nhà, ít thịt khô, cá ướp…cơm ép khẩu phần nhà nào nhà nấy ăn, cũng có phần san sẻ…vui vẻ, vừa ăn vừa chuyện trò rôm rả. Cơm xong cánh nam làm điếu thuốc Lào rồi ngả lưng chợp mắt, cánh nữ thì tranh thủ đan lát, khâu vá hoặc vào bìa rừng kiếm củi, kiếm rau lợn, rau rừng. Từ 1 - 3 giờ thu vén và thu quân “mã hồi”.

Về tới bản, cánh chị em chưa kịp lên nhà đã ra mó nước “kẻ xuộng xựa” (cởi váy áo) ào ào tắm rửa…cánh đàn ông đem lưới ra sông vây bắt cá.
Cuối chiều: Chị chủ nhà tắm rửa cho con, rồi lo cho lợn gà ăn, cô em gái ra sông suối hái bon (rau) xúc ốc, chàng rể tắm cho ngựa. Chập tối một lúc 7 - 8 giờ tối cả nhà quây quần bên mâm cơm, thường là món cá nướng (pa mốc, pa pịnh) thơm ngon, canh bon nấu ốc hay canh cá nấu măng chua. Ăn xong, bên bếp lửa: cánh đàn ông đan lát, vá lưới, cánh đàn bà dệt vải, chàng rể ra sông “quăng chài” hoặc đơm “đó”, lũ lợn gà ăn no ngủ kỹ…mọi thành viên trong gia đình ai nấy về “buồng nằm” của mình đánh giấc…Từ khoảng 10 - 11 giờ đêm cả bản đã ngủ yên thì cánh trai tơ ở các bản bên “pay ỉn sao” (chơi gái) đem tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng đàn Tính đến “chọc sàn” thức các cô gái tơ (sao) dậy, để “tìm hiểu” bằng các cuộc hát giao duyên bên sàn (phía đầu chan) hay ra sàn “Hạn Khuống” mé rìa bản tình tự thâu đêm.
Chào bản quê thân yêu
Nắng mở cửa nhà sàn rộng thêm
Cho gái lớn xuống thang sang làm dâu Mường khác
Suối chỉ chảy một dòng
Xuống núi..
Chao, tôi chưa về thăm bản ngày xưa
Nơi tôi ra đời bên bếp lửa
Mẹ cắt rốn bằng con dao nứa
Cha ru bằng Tản Chụ Xiết Xương
Chị tóc mây “tằng cẩu” kết hôn
Anh lớn lên: anh đi ra trận…
Tôi lớn lên, tôi xuống núi đi xa
Mẹ cha mất, ngày về mồ đã cỏ…”
(Theo La Quán Miên).
Chao, hồn quê ở xuôi là cây đa rợp bóng sân đình, còn hồn ở bản quê yêu dấu là cái Khau cút (hoa nhà) để ai đó đi lâu trở về từ xa đã nhìn thấy nó như những cánh chim bay lên mừng vui chào đón đứa con tha hương còn nhớ trở về.
28/2/2012

Bài 2:


Cơm Tàu, cơm Tây … nhớ về đây cơm bản
Nếp xôi thơm, bên bếp lửa em chờ”
“Cơm Thái, gái Kinh” câu nói chơi cửa miệng của cán bộ Tây Bắc một thời (cán bộ Kinh thì thèm cơm bản Thái, cán bộ Thái thì khoái lấy gái Kinh). “ăn” uống là điều kiện hàng đầu để tồn tại sự sống. Cơm Thái cổ điển là ăn nếp xôi truyền thống. Đó là các loại gạo nếp tan, khẩu ma tứn (gạo chó dậy: Cơm xôi thơm quá đến con chó đang ngủ đánh hơi thấy cũng phải vùng dậy). Gạo nếp ngâm qua đêm, với bàn tay của các mẹ, các chị vo sạch, để ráo nước, rồi đổ vào một cái Hày” (chõ gỗ: một khúc thân cây khoét rỗng). Người Thái không có tục “luộc” như người Kinh (cơm bằng  gạo luộc, rau luộc, thịt luộc, mà thường là “xôi” (đồ) bằng nhiều loại “hày” khác nhau (gỗ cây sung co cổng, co đứa), phần dưới của dụng cụ đồ xôi là cái “ninh” (biếng mỏ nửng) bằng đồng đúc… nhờ “xôi” nên thức ăn đậm (không bị nhạt). Từ gạo nếp, người Thái còn chế biến ra các loại bánh như “khẩu tổm” (bánh tét) Khẩu tổm năm lãng (bánh giò), khẩu cắm (xôi màu), khẩu hang, khẩu lam, khẩu chí (xôi nướng). Khẩu lam trộn sâu măng là đặc sản ngon đặc biệt.
Nhân loại có các nền “văn minh thìa dĩa” (Âu Mỹ), “văn minh đũa tre” (Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật, Việt Nam) và “văn minh ăn bốc”… người Thái đen Việt Nam ở Sơn La thì trong mâm cơm: Mỗi người bao giờ cũng có bát con riêng, 1 cái thìa, 1 đôi đũa… riêng ăn cơm nếp xôi thì “bốc” (tay đã rửa sạch); chỉ khi ăn cơm tẻ thì xới ra bát, lấy ăn thì xúc, chứ không quen “và” như người Kinh. Ăn canh thường không “chan” mà dùng thìa múc đưa thẳng vào miệng. Bát chấm mặn thường là muối ớt cộng mắc khén (hạt tiêu rừng) hoặc bát nước chấm pha chế (nậm pịa khi ăn thịt trâu, bò, dê).
Các món rau trong mâm cơm Thái: ½ là rau rừng (phắc ven,… có tới 80  loại), số rau trồng ở xuồn phỏm (vườn gầy)… như rau cải (phắc cát), các loại củ quả bầu bí, mướp, cà… tất cả đều được đồ chín (nửng) kể cả rêu, măng, mùa xuân có món “măng đắng”, mộc nhĩ, nấm các loại, canh măng chua (nậm xổm đanh), món “xổm” ghém, rau sống, rau hoa chuối nộm…
Tục kin xổm (món chua) đủ cả “kin xổm, kin van, kin xúc, kin chip, (chua, ngọt, chín, sống) rồi món “tương thối”. Với người Thái “cơm trắng, khúc cá bạc” là biểu tượng của no đủ hạnh phúc. Các món ngon là “pa pỉnh” (cá nướng kẹp), pa dảng là cá sấy trên dàn bếp, pa mốc (vùi tro), cùng với “pho pa”: Các loại cá tép, trạch, ruột cá lớn gói cùng húng chó, hành sả vùi tro nóng ăn rất thơm ngon, pa óm (cá nấu), pa tổm (cá luộc)… với các loại cá nheo (pa cao), cá quả (pa con), cá trê (pa đúc)… pa cỏi (lên men chua) món gỏi (cỏi hắn) với quan niệm “xép nhứa kin nhứa ma, xép pa kin pa cỏi” (thèm thịt ăn thịt chó, thèm cá ăn cá gỏi).
Các món mắm cá (mẳm pa) mắm tôm (mẳn củng), mắm từ những con bọ nước (mẳn pa dí), mắm tắc ten (châu chấu)…
Các món thịt: Như nhứa đảng (hong khói) pỉnh chí (nướng), mản (nướng bằng xiên); thịt con hoẵng (tô phan) làm “lạp” trộn với măng chua, chấm nậm pịa (đoản nước bắt phèo, một thức đặc sản “nhứa quai tộm nậm pịa, thuổi lạp têm chem” (thịt trâu luộc, nậm pịa, bát lạp đầy ắp).
Mâm cỗ thường khoái món tiết canh, tiết luộc… ngoài ra có món “nhứa min” (thịt thối): trộn gia vị cho vào ống, đốt chín thành một thứ thịt nhuyễn nặng mùi rất hợp khẩu vị.
Các món gia vị thường nhật là ớt, mắc khén (hạt tiêu rừng) củ sả, gừng, riềng, hành tỏi, rau thơm… điển hình là món “chéo” để chấm.
Món canh Thái: Ưa dùng bột gạo để nấu canh, tạo cho canh ngọt sánh.
Cơm bản Thái: Thường ngày ăn bữa chính vào buổi tối. Sáng ra ăn lót dạ (bốc ít xôi, chấm muối ớt) bữa trưa thường ăn ở nơi làm việc (ngoài đồng, trên nương. Ăn đơn giản gọn nhẹ gồm xôi, ít rau chấm muối ớt, ít thịt cá khô, nướng…).
Bữa ăn tối là bữa cơm đầy đủ các thành viên trong gia đình. “ăn trông nồi ngồi trông hướng” khá trật tự nề nếp (bài bản): Chủ nhà ngồi chính giữa trông ra hướng nhà, phụ nữ ngồi phía trái, trai phía phải, con rể và khách ngồi phía sau (đối diện với chủ nhà). Các món đặc biệt là dành cho trẻ con (nhái nướng, nhái ôm măng, đùi gà, miếng cá ngon). Nếu trong mâm có món thịt gà thì: Đầu, cánh, chân là dành cho ông chủ, lòng cổ xương nấu canh măng chua…
Có khách: Uống rượu cất (lẩu xiêu) theo ông chủ: 1 chén rượu húp một thìa canh măng chua… Nói chung bữa cơm bản là bữa cơm bình dân, đạm bạc. Chủ lực vẫn là món cơm xôi nếp, măng và rau rừng là món hàng ngày, thức ăn chỉ là đưa đà để ăn được nhiều cơm (no). Tháng 3 ngày tám, thiếu gạo thường độn thêm sắn (nạo) ngô hoặc ăn thêm củ mài đào trên rừng. Mùa nước lên có thêm món cá, sang xuân săn được con chim, con don, con dím… bổ sung cho món ăn…
Thịt lợn, thịt trâu phải là có ma chay, cưới xin, tết nhất, cúng nhà mới…
Dẫu sao thì  bữa cơn bản Thái thời 1960 ở Sơn La vẫn là bữa ăn no đủ, ngon hơn hẳn bữa ăn thời HTXNN của người Kinh dưới xuôi một thời ăn công điểm là chính.

Bài 3:


Cơm Tàu, cơm Tây chẳng tày cơm bản
Bát “khẩu hang” tháng 9 mẹ để phần
Ăn bít tết, lẩu dê… chẳng chê cá nướng
Món canh chua: Tay chị gái hái măng.

Ơi cơm bản ta ăn trên sàn gió
Cha gật gù  nâng chén “lẩu xiêu”
Mẹ ân cần gắp trám đen vừa bổ
Chị đẩy sang đĩa “chéo”…cười yêu.

Trên nhà  sàn khi nắng chiều đã tắt
Trâu về  chuồng mõ lốc cốc tới khuya
Lũ Điêu  Điếu ngoài vườn xoài léo nhéo
Chõ xôi  đơm thơm nức gạo đầu mùa.

Và ai đó vừa đi ngang ngõ
Dải khăn Piêu tung vương khói chiều xanh
Rừng trầm mặc, con nai vàng nào “tác”
Mùi ấm no bên bếp lửa quây quần
Thuận Châu hè 1965

Bài 4:

(Tặng Lò Văn Cậy)  (1)
Bản Nà Nghịu thời trẻ trai tôi ở
Sớm đi nương, chiều chài lưới trên sông
Em ra suối hái Bon, xúc ốc
Tối ăn canh Bon ngứa cổ, nghẹn ngùng…

Em thầm nói: Thương anh Hà Nội
Phải ăn cơm mường bản chưa quen
Tôi lặng lẽ nắm xôi, chấm muối
Húp canh Bon, nhìn đôi mắt đen…

Đêm bản nhỏ trăng nhòm cửa liếp
Em ngồi trên khung cửi đưa thoi
Tôi ngồi tập vót nan đan “lếp” (2)
Bếp lửa khuya bốn mắt sáng ngời…

Rồi tôi đi biết bao xứ sở
Vẫn nhớ về Sông Mã quê em
Chợt thèm món món canh Bon ngứa cổ
Để thưởng người canh cửi đêm đêm.

(1) Lò Văn Cậy (1928 - 1994) nhà thơ Thái
Quê Sốp Cộp, huyện Sông Mã
(2) “Lếp”: Giỏ đeo bên hông của gái Thái

Bài 5:

* Người thức giấc giữa mây ngàn gió núi
Hồn ngỡ là  bay với trăng sao
* Về kinh xa bản xa Mường
Đêm mơ tiếng suối bên giường chảy quanh.
Chao ôi, các cụ ta có câu “đêm năm (bằng) năm ở”… thế thì vào những năm 60 (thế kỷ 20) đêm ngủ ở bản Thái là lý tưởng nhất. Nhà sàn cao ráo, thoáng mát: Đầu gối núi, chân đạp sông… 1 anh bạn tôi (Phạm Văn Cống - quê Thanh Hóa) có 4 câu thơ vui về một thời hoang sơ để nhớ.
Về đây công tác xã Chiềng Hoa
Đêm đêm nằm gối thác Sông Đà
Bởi tiếng Thái Mèo chưa thông thạo
Phải người phiên dịch hóa “chuyên gia”
(Hóa chuyên gia)
* Cán bộ xuống “cắm bản” được xếp ngủ  một gốc “Quản” đệm dày, chăn mới, màn 1 bộ đội xanh lá cây, thì cán bộ ai chả có 1 chiếc để chống muỗi
Anôphen (phòng sốt rét), phong tục kiêng màu trắng (có tang)
Ngủ bản, đêm thao thức nhớ quê, lên ở cái xứ “trâu gõ mõ, chó trèo thang, nước giã gạo” với tiếng “chày đêm nện cối đều đều suối xa”, chập chờn với trăng nhòm qua vách liếp… Cách vài mét là màn đen cô em gái chủ nhà tuổi trăng tròn “kẻ xuộng xựa” (ngủ truồng) đêm nóng nhoài ra ngoài màn da thịt trắng ngần như thần vệ nữ.
Ngủ bản được nghe tiếng gà gáy sang canh, chim cu gù bên mái, lợn ủn ỉn dưới gầm sàn, ngựa gõ móng trong tàu ngựa, vài tiếng chim cú  vang lên phía Pa heo (rừng ma) nghe ghê rợn…
Ngủ bản, khuya khuya khi bếp lửa đã tàn, vợ chồng nhà anh chị chủ yêu nhau làm tình cả mặt sàn nhẹ rung lên phấp phồng hơi thở…
Ngủ bản: Phía rừng xa vang về tiếng Nai tác, hoẵng kêu gọi bạn tình xao xuyến hồn trai chưa vợ.
Ngủ bản: Con mối vách (Thạch sùng) tặc lưỡi đuổi nhau như đang thở than “ai đó giầu như Vương Khải - Thạch Sùng cũng có phen tường xiêu, mái đổ…”
Ngủ bản: Hư hư thực thực, nhớ nhớ  quên quên - rồi thiếp đi một giấc thanh thản sau một ngày lao động (đi nương, ra ruộng, đánh lưới trên sông, mệt mỏi, vô tư…)
Chao ôi, ai đó ở lầu son gác tía nơi Thủ Đô - Phố thị ồn ào hiểu sao được ngủ bản?
Và chao ôi, ai đó nghèo hèn culi, đĩ điếm nơi vỉa hè, gầm cầu có hay đâu ngủ bản?
Chao ôi, sung sướng gì bằng ai đó có tuần trăng mật ở bản? khi đôi lứa thanh tân lặng lẽ chui vào cái buồng màn đen kín mít đó là bóng đêm, huyền diệu “tay quờ tay, chân quặp chân, môi kề môi, thân đè thân với hơi thở nồng, đó là vườn địa đàng nơi nhà sàn bếp lửa “một mái nhà gianh hai trái tim vàng, một con suối nhỏ” để mà yêu, mà hiến dâng, mà thụ hưởng hương vị ngọt ngào thanh xuân bốc lửa…”
Ngủ bản, khi yêu đã mệt lử rồi… là êm đềm hơi thở giữa không khí trong lành, thanh bình… mà biết bao người (kể cả tỉ phú) mơ mà đâu dễ có được?
Ngủ bản, là duyên phận, là trời cho, như ta được kho báu mà ta đâu đã hiểu được?
Than ôi, tiếc thay, tiếc thay… được mấy ngày ngủ bản?!

Bài 6


Sơn La hiện nay (2012) là tỉnh vùng núi Tây bắc Việt Nam, có diện tích 14,125km2 (= 4,27% tổng diện tích cả nước), có biên giới chung với Lào 250 km, gồm 1 thành phố, 10 huyện với 12 dân tộc. Dân số điều tra 1/4/2009 là 1.080.641 người.
Lịch sử: Phần lớn tỉnh Sơn La ngày nay gồm TP Sơn La, huyện Yên Châu, Mộc Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Thuận Châu vào trước năm 1479 là lãnh thổ của Vương Quốc Bồn Man (gồm cả Tương Dương, Kỳ Sơn của Nghệ An; Quan Hóa, Quan Sơn Mường Lát của Thanh Hóa, tỉnh Hủa Phăn của Lào). Năm 1479 Sơn La được chính thức nhập vào Đại Việt, thời vua Lê Thánh Tông và thuộc xứ Hưng Hóa.
24/5/1886 thành lập Châu Sơn La (thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa) tách từ Hưng Hóa thành cấp tương với tỉnh.
9.9.1891 thuộc  Đạo quan binh 4.
27/2/1892 thành lập tiểu quân khu Vạn Bú gồm 2 phủ, 8 châu.
10/10/1895 thành lập tỉnh Vạn Bú, tỉnh lỵ ở Vạn Bú (Tạ Bú) trên bến sông Đà thuộc huyện Mường La ngày nay.
23/8/1904 đổi tên thành tỉnh Sơn La, tỉnh lỵ về như bây giờ.
Sau 1946: Pháp chuyển Sơn La cộng với Lai Châu và Phong Thổ lập xứ Thái tự trị, do Bạc cầm Quý làm tỉnh trưởng Sơn La.
1948 - 1953 thuộc LK Việt Bắc do tướng Chu Văn Tấn cầm đầu (Sơn La có 6 huyện Mường La, Thuận Châu, Phù Yên, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu).
1953 - 1955 thuộc khu Tây Bắc.
1955 - 1962 thuộc khu tự trị Thái Mèo.
1962 - 1975 tái lập tỉnh thuộc khu tự trị Tây Bắc: có 7 huyện, thêm Quỳnh Nhai và Sông Mã còn Phù Yên chuyển về tỉnh Nghĩa Lộ.
Sau khi giải thể khu tự trị Tây Bắc, Sơn La nhập lại 2 huyện Phù Yên, Bắc Yên của Nghĩa Lộ giải thể.
Sơn La- xứ  Thái xưa là 1 vùng biệt lập do núi non hiểm trở, lại là đường mòn luồn vùng, đi theo dọc 2 bờ sông Đà, sông Mã, ma thiêng nước độc “nước Sơn La, ma Vạn Bú” ở xuôi chẳng ai lên đó làm gì. Đó là nơi cai trị của các vị “Chẩu Mường” hướng về vua Lào ở Luông Pha Bang là chính, thi thoảng có giao lưu với người kinh qua rẻo Mường Lò (Nghĩa Lộ)… phải chăng do ở biệt lập lâu đời như thế nên người Thái ở đây còn giữ được khá nguyên vẹn bản sắc dân tộc mình sau 1000 năm sang Việt Nam cư trú?

Bài 7:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về  rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao, sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Đó là đoạn sông Mã (sông Ngựa) ở đoạn giáp ranh từ Sầm Nưa (Lào) đổ vào Thanh Hóa (Mường Lát) kề với Xuân Nha Sơn La… còn đoạn trên gọi theo dân bản địa (Thái) là Nậm Ma (sông Chó).
Sông Mã  có 2 nguồn: Nguồn thứ nhất từ núi Tuần Giáo (nam tỉnh Điện Biên) chảy theo hướng Tây bắc - đông nam qua huyện sông Mã (Sơn La) rồi qua lãnh thổ Lào. Nguồn thứ 2 từ núi “Pu Xam Sao” (núi 3 cô gái)… cả 2 nguồn này đều đổ về Thanh Hóa từ Sầm Nưa, rồi giao lưu với sông Chu (sông Trâu) đổ ra vịnh Bắc Bộ, tất cả dài 512km, trong đó trên lãnh thổ Việt Nam 410km, qua Lào là 102km.
Tên gọi: Dân gian (sông Mã) vì dòng nước chảy xiết như “ngựa phi”.
Tuy nhiên theo n/c về từ nguyên học chữ “Mã” là  “Mẹ” - nghĩa là sông lớn như. (Ở Lào mè khoỏng = MêKông, ở ta sông Hồng là sông cái).
Sử Việt gọi sông Mã là “Lỗi Giang” .Bên Lào là  Nậm Mà. Sơn La gọi “Nậm Ma” (Mẹ là  Êm) “ma” là con chó - có lẽ vì ở thượng nguồn dốc chảy xiết kêu như chó sủa.
Sông Mã chảy về đến Nà Nghịu (huyện Sông Mã Sơn La) rông cỡ con sông Cầu, 2 bên bớ là đồi núi cao vút không có đê, dòng sông khúc khuỷu, mùa cạn lòng sông trơ những tảng đá gộc, đã lồi đầu, có đoạn có thể lội bộ qua được để ta lại nhớ câu “sống chụ”.
* Phôm dú hua lứm cấu chắng lứm chụ
Cánh lứm chái nớ!
Cẩu chí lứm cánh xíp chí lứm
Nậm Ma hảnh to đe chắng lứm
* Tóc trên đầu búi ngược (tăng cẩu) hãy
Quên bạn tình, hãy quên anh yêu!
Chín sắp quên và mười sắp quên
Sông Mã cạn bằng lòng đĩa, hãy quên.
Mùa cạn này, đêm đêm lũ con trai từ bản Nà  Hin bên sông lội tắt sang bản Nà Nghịu “chọc sàn” tìm bạn tình. Đó cũng là mùa các cô gái ra sông vớt rêu (1 món ăn đặc sản):
“Sông nhiều rêu, nhiều cá
Núi nhiều thú, nhiều măng
Chiều bóng anh che sông
Sớm mắt em lóng lánh…
Ngồi ở bên sông ta như thấy cái luân hồi của ta. Tháng 6, mưa lớn thượng nguồn… chiều qua còn như một dòng sông chết (cạn bằng lòng đĩa) mà sớm nay tất cả như bừng lên ầm ầm gầm réo hơn cả tiếng chó sủa, ngựa phi.
* Bó Áy Khảm nậm Ma khi khon
Nhắng xương pánh hảu mon vậy thả đé nớ!
* Hoa Áy dập dờn trôi ngang sông Mã
Còn thương nhau xin sắp gối riêng chờ.
(Hoa Áy vờn trôi ngang sông Mã
Còn thương, tay gối lả riêng chờ)
* Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ  dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Lũ về, sớm mai khi con chim Tăng Ló bên sông réo gọi, các chàng rể (lụ khươi) lò mò lội ven bờ “xem” các cái “đó” mà chàng ta “đặt” tối hôm trước “chờ nước lên” chắc mẩm sẽ vớ được vài con cá măng, cá chiên to hăng nước đầu mùa không may chui vào “đó” (lờ to) làm bữa ngon cho dân bản. Lũ về, mình là trai Đình Bảng, từ Hà Nội lên thượng nguồn Tây Tiến cái gì cũng lạ, cũng bỡ ngỡ, nửa đêm về sáng giật mình nghe sông réo… sớm mai ra bờ sông trông dòng sông chảy xiết, trong lòng lại vang lên khúc Trầm hùng của nhạc sĩ Đỗ Nhuận.
“Hồng Hà mênh mông trôi cát tới chân làng quê”…
Còn ở đây thì sông đổ ầm ầm, qua các ghềnh đá đổ thác bọt tung trắng xóa cứ như bờm đàn ngựa bạch đang phi hết tốc độ xông ra chiến trường cùng bom rơi pháo nổ vang rền, thật đúng là “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”…
Lũ lên nhanh là lũ ống lũ quét cỏ cây hai bờ được một phen dọn sạch đôi bờ đất chỗ lỡ, chỗ bồi, bãi ngô, ven sông lại được phen tắm phù sa trồi lên xanh mởn…
Sau vài ba tiếng lũ lên cuồng nộ, thượng nguồn dứt mưa, thì con sông Mã “ngựa phi” lại trở thành Nậm Ma (chó sủa) ào ào, tấm tắc thân quen như con mực, con vện về nằm ngang dưới chân cầu thang, thật là:
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
29/2/2012

Bài 8:


Ở người Thái: con gái khi lên 13 tuổi, trai 15 tuổi thường tổ chức nhuộm răng đen. Lấy cây “mạy cù”, mọc ở núi đá, đốt lên khói hơ vào miếng mai sắt thành giọt nước, trai gái nắm tay nhau, kể anh chị em. Trai lấy ngón tay miết giọt nước trên mai (cái mai đào đất) tra vào răng gái, gái tra vào răng trai. Sau đó hai người nắm tay nhau xuống thang đến bậc cuối, cùng nhảy xuống. Từ đấy trở thành trai gái thiếu niên. Từ đấy trở đi mới được ra chơi “Hạn Khuống” hát giao duyên tìm hiểu nhau (nghĩa là sang tuổi cập kê):
* Xíp pi ủa chắng dựt pên sao
Chái chắng dáo pên báo
Xíp xam chắng hụ thi bú
Xíp xí chắng hụ hú khẻo xóư chi son sao
Pánh há chắng hụ tắt xứa hổm nốm
Hụ hom phôn dệt chọng
Dóng Khửn khuống đang pháy
* Mười tuổi em đang lớn thành gái
Anh cũng lớn thành trai
13 tuổi em biết bắt cá suối
14 tuổi biết nhuộm răng đen làm duyên
Biết may áo che vú
Biết dành tóc làm độn
Óng ả lên sàn nhóm lửa
Khi 2 người tỏ tình gọi là “ổ báo sao”. Tiêu chuẩn là con gái phải biết se sợi, dệt vải, con trai phải biết đan lát những đồ dùng trong nhà. Gái sau khi có chồng con phải lo quần áo mặc, chăn đệm nằm cho chồng con. Trai phải lo tự túc đủ các thứ đồ dùng lặt vặt để đựng thóc gạo, rau, thịt cá, đồ dùng nấu cơm.v.v…
Tục cưới xin: Sau khi trai gái đã tìm hiểu “yêu nhau”, trai nói với bố mẹ đi tìm bà mối đến thăm dò nhà gái (gọi là pay chóm), thuận thì đi đến:
Lễ ăn hỏi: 1 đôi gà to, vài ba bát gạo, rượu, bánh kẹo, hoa quả đưa sang nhà gái. Ở Quỳnh Nhai cụ thể là:
Đồ lễ dạm hỏi gồm:
- Trầu 1 gói, vỏ trầu 1 gói, cau 5 kg
- Thuốc lào 1 - 2kg, thuốc lá 1 - 2 tút.
- Chè uống 2 - 3kg.
- Bánh kẹo tự chế 5 - 10kg.
- Hoa quả 5 - 10kg.
- 1 đôi gà (1 trống - 1 mái) 3 - 4kg.
- 1 con lợn 45 - 50kg
- Gạo nếp thơm (khẩu lương phửng ) 15 - 20kg.
- Gạo tẻ thơm (khẩu xẻ lạo lựu) 15 - 20kg.
- Rượu gạo: 40 - 50 lít.
Lễ dạm hỏi: (Lễ tham pặư).
Đội hình: 10 chàng trai + 5 cô gái sang nhà gái phục vụ cỗ bàn.
- Thách cưới: Khá nặng
Ở Mường La, Thuận Châu (thời 1960 - 1970) ngoài rượu thịt , còn là 1 máy khâu 5 con bướm (TQ) 1 xe Favorit (980đồng lúc bấy giờ: Lương phó ty có 80đồng)… ngoài ra là:
- Trầu 1 gói, vỏ trầu 1 gói, cau 5 kg
- Thuốc lào 1 - 2kg.
- Thuốc lá 100 - 200 bao.
- Bánh kẹo  5 - 10kg.
- Đường kính 5 - 10kg
- Hoa quả 50 - 100kg.
- Lợn béo 1 - 2 tạ
- Rượu gạo ngon 200 - 300lít.
- Gạo nếp ngon 1 - 2 tạ.
- Gạo tẻ ngon 1 - 2 tạ.
- Pa dăm (cá sấy rạch sườn) 10 - 20kg.
- Pa giẳng (cá sấy nhỏ) 10 - 20 giỏ
- Cá mắm 3 - 5kg đựng trong ống nứa.
- Cá ướp 3 - 5kg (nhiều ống).
Đám cưới được tiến hành trong 3 ngày 3 đêm.
Ngày 1: Chuẩn bị, dặn dò, cống nạp xong.
Ngày 2 (đại lễ): Thường nhà trai chọn giờ xuất phát (tránh giờ Dần) lấy giờ Mão (chớ mẩu).
Đi tiền trạm là 2 chàng trai “dò đường” tránh điềm xấu (có đám tang) để tránh. 
Đoàn đưa rể: Ông mối, bà mối, phù rể 2 người khiêng đệm, 1 người vác chiếu (1 cót mây và 1 chiếu cói), 1 người đeo chăn, 2 người khiêng lợn, 2 người khiêng các lồng gà, 2 người khiêng rau và các thực phẩm khác, 1 người gánh các ống cá ướp.
Tất cả đều mặc đúng phong tục như áo cóm cúc bạc, áo dài (xửa luông), quần áo Thái nhuộm chàm láng củ nâu. Riêng chàng rể đeo dao bên hông, vai khoác túi,  1 tay khoác nón Thái. Ông mối đội khăn xếp mặc áo dài the, quần lụa trắng. Bà mối mặc áo dài (xửa luông), tóc quấn vòng hoặc búi sau gáy, (đây là Thái trắng Quỳnh Nhai) pắn cẩu bứt láy.
Có đội kèn “pí kẻo” vừa đi vừa đánh trống thổi kèn kèm pháo nổ… gây ồn ào phấn chấn.
Nhà gái chọn giờ đón rể (giờ Thìn - chơ xi)… nhưng rể cũng phải được xem lá số hợp “mệnh” với vợ chồng, ông bà nội ngoại (ta nái, pú da). Tục té nước, ném quả me tròn, hạt bông vải vào đoàn nhà trai.
2 chàng phù rể bước lên cầu thang máng hẳư (gian bếp), nhà gái ngăn lối, phải lạy quỳ “xin phép” được giăng tấm vải đỏ ở phía bên khung cửa (gọi là cả hồng) ý chúc phúc nhà gái và báo là nhà đã có rể.
Hai bà mối vào cửa ngồi xổm dâng 1 phong bì  tiền dâng cưới đặt lên bàn.
Nhà gái có 2 bà đại diện (thẩu nái) đem cơi rượu ra làm lễ đón nhận - rồi hai bên hát đối đáp.
Lễ cưới linh đình 3 ngày. Rồi rể phải  ở rể qua các chặng:
- Khươi quản (ngủ một mình ở gian ngoài cùng) sau 1 - 2 năm mới được chung chăn gối (thời gian thử thách) - bị đuổi là mất hết.
- Ở rể 1 - 3 năm. Có trường hợp không phải ở rể (do thỏa thuận 2 bên).
Lễ thành hôn gọi là “xú phả”: Kết búi tóc ngược “tăng cẩu”: Nhà trai đem đến 1 đôi vòng tay bạc, 2 nhẫn, 1 đôi hoa tai, châm cài tóc và  2 độn tóc gói vào sải thổ cẩm. Lễ tạ ơn mẹ vợ phải có 1 đôi vòng tay bạc và 5 đồng bạc trắng. Biếu bố vợ gọi là tiền “rổ cá, rổ thịt” cùng khoảng lễ đó gọi là “tạ ơn dòng sữa mẹ đã nuôi con và ơn cha đã kiếm cá, thịt về nuôi con khôn lớn”.
Bên nhà gái phải có màn, thường dùng vải dày nhuộm đen chàm, có đệm và chăn gối.
Sau khi “tằng cầu” bà nào tốt số thì  đưa 2 vợ chồng vào nắm tay nhau trong màn (người Kinh là vào rải chiếu).
Lễ cưới Thái tốn kém, ở rể khổ  ải như một thời làm nô lệ (cuông nhốc dưới chế độ Phìa Tạo). 

Bài 9:


“Mường của anh có cầu gang, cầu sắt
Bản của em có cầu lim lõi chắc
Cầu lõi chắc bắc đôi cho anh qua lại
Thăm nhau dù nắng mưa không gì ngại”
- Cầm Biêu
Chao, “về bản” đúng như nhà thơ của bản đã tả “Bản của em và Mường của ta/ đường đi lại quanh có uốn khúc/ đường đi mãi hết đèo lại dốc/ đường đi qua rừng dướng, luồn rừng giang/ và đi theo con suối về làng/ dòng suối nhỏ chảy quanh bụi nhót/ rồi chảy lọt giàn dưa…”
Chao, bản trước mặt là sông, bên hông bản là  suối. Sông buổi sớm như mặt gương phẳng lặng cho ta soi bóng. Sông có đêm nước lên gầm gào như chó sủa… còn suối bên đầu nhà quanh năm trong xanh rì rào thủ thỉ… chiều chiều đón em gái ra hái bon, xúc ốc.
Chao, con đường về bản là phải luồn rừng rồi đi dọc bờ sông, lội qua suối đầu bản… Để dân bản mùa lũ không phải lội suối nguy hiểm … thế là cả bản hò nhau lên núi vào  rừng đại ngàn chặt 8 cây lim to lõi chắc, phạt hết cành lá rối xúm nhau “kéo”, đẩy, bắn, bẩy tuột xuống suối “dòng” lôi về bản để bắc cầu qua suối. Trên mặt cầu được lát bằng phen tre đan để cụ già, trẻ con, trâu bò, ngựa đi qua không bị lọt chân…
Chao, chiếc cầu gỗ bắc ngang con suối.
“Nước suối có lúc cạn lúc lũ
Nước trên rừng lúc hiền lúc dữ”
- Nông Văn Bút
Đó thật là:
“ Cầu chúng ta vừa cao vừa chắc
Chẳng còn lo nước lũ, suối sâu
Cũng đón ông giáo Tiếp sang cầu
Để người già mừng khỏi khi mình chết
Không biết chữ nào bụng người còn tiếc”.
- Nông Văn Bút
Giữa bản mường núi sông hùng vĩ, rừng xanh tít tới chân trời thì cái cầu gỗ bắc ngang qua con suối rỉ rả vào thẳng tới chân cầu thang nhà sàn đầu bản như là biểu tượng của hồn bản, hồn mường. Chính nơi đây những đêm thu trai gái bản ra đứng trên cầu đàn đúm: thổi khèn, thổi sáo, đánh đàn “tính”, hát giao duyên, ngắm ánh trăng vàng mênh mang trôi theo dòng suối ra ngoài sông âm vang tiếng thác.
Chao, chiếc cầu vào bản - cầu gỗ, dân bản tự làm tự bắc cho mình bằng chính vật liệu thiên nhiên của rừng quê, nó thân yêu thánh thiện làm sao, dịu chân, mát mắt vô cùng, nắng mưa đều hiền như bản, thầm lặng thanh bình để ta:
“… đi cùng em
Cùng em tới
Bên kia sông Mã
Tìm rêu đá cùng nhau”
- Cầm Cường
Cầu vào bản thân thương là vậy.

Bài 10:

Chiều về “lốc cốc” mõ trâu
Âm vang tiếng bản bên cầu nước xanh
Khói thơm bếp lửa vờn quanh
Lùa trâu về Púng(1) bên ghềnh ngẩn ngơ.
- NK
(1) Púng: thung cỏ

Bài 11:

DÒNG SÔNG MÃ
Con sông Mã  chảy đến đây chừng như chững lại, mở  rộng bồi đắp đôi bờ thành cánh đồng của Chiềng Cang, Mường Hung. Núi ở đây không cao lắm nhưng trên đỉnh có mây phủ với rừng đại ngàn ngút tới Thượng Lào (Hủa Phăn). Bản nhà ở đây đông vui trù phú với những ruộng lúa, bãi dâu xanh biếc, con gái ở đây da trắng nõn nà…
Ấy là vào hồi tháng 10/1953 có một chàng trai Thanh Hóa (Lê Gia Hợp) Đội viên Đội vũ trang tuyên truyền (Việt Minh) đã đi sâu vào vùng hậu địch, tới đây “cắm bản” để xây dựng cơ sở kháng chiến chống Pháp ở vùng biên giới Việt Lào. Ai ngờ, chàng ta lại là một thi sĩ, là cán bộ “bí mật” sống giữa lòng dân “3 cùng” với đồng bào, trước cảnh đẹp, người xinh… hồn thơ anh ta thấm đượm các khúc hát “khắp” - tình ca Tây Bắc viết theo kiểu ví von (anh là/ em là…). Thế là một bài thơ tự nhiên xuất thần:
(Mường Hung = mường trong sáng)


NÚI MƯỜNG HUNG
DÒNG SÔNG MÃ
Anh là núi Mường Hung
Em là dòng sông Mã
Sông nhiều rêu, nhiều cá
Núi nhiều thú, nhiều măng
Chiều bóng anh che sông
Sớm mắt em lóng lánh
Sáo cành cây anh thổi vang lanh lảnh
Gió  lùa qua miệng anh lại mỉn cười
Giữa lòng em thuyền độc mộc ngược xuôi
Như trăm nỗi băn khoăn khi đến tuổi
Nếu trời làm em sóng nổi
Anh ngả  mình ngăn lại lúc phong ba
Em là búp bông trắng
Anh là ngọn lúa vàng
Thi nhau lớn đẹp nương
Tỏa mùi thơm cùng nghe chim hót
Em cứ  về nhà trước
Đợi anh ở bên khuông
Anh là  no lòng Mường
Em làm vui ấm bản
Nếu con gấu dẫm gẫy cành bông trắng
Lá lúa anh sẽ cưa đứt chân
Nếu lúa này chuột khỉ dám đến ăn
Sơ bông em sẽ bay mù mắt nó   
Anh là  rừng thẳm
Em là suối sâu
Cây rừng anh làm cầu
Bắc ngang lên lòng suối
Hoa rừng nở  đỏ chói
Soi bóng xuống lòng em
Suối chảy quanh ấp rừng vắng ngày đêm
Cây gỗ lớn là tay anh vững chắc
Nếu hùm qua suối em thành thác
Nếu sói về  rừng anh sẽ thành chông
Quyết chẳng chịu đau lòng
Đời chúng ta rừng núi
Suối em phá  tan bóng tối
Rừng anh chặn lại bão giông
Để anh lớn mãi thành núi Mường Hung
Em ngoan chảy thành dòng sông Mã
Mường Hung 10/1953
Cầm Giang
Bài thơ chép tay, được gửi qua “giao thông”  về hậu phương… với bút danh Cẩm Giang (ý  là quê vùng Cẩm Thủy - Thanh Hóa bên dòng sông Mã hạ lưu)… nhưng khi đến tay cô đánh máy (ở căn cứ báo chí) thì cô này phát hiện cái phi lý ở cái tên tác giả - ở Sơn La có họ Cầm, họ Lò… chứ làm gì có họ Cẩm? thế là cuối bài thơ in ra được đề tác giả Cầm Giang.
Bài thơ  sau đó được nhạc sỹ Bùi Đức Hạnh phổ nhạc thành bài “Tình ca Tây Bắc” nổi tiếng trở thành “khu ca” của đài phát thanh Tây Bắc một thời.
(Nhạc sỹ thực ra chỉ lấy 1 số câu, còn là mô phỏng thơ Cầm Giang mà thôi).
Bài thơ  thực ra cũng chưa hay lắm, nếu so với “Tình sông núi” của Trần Mai Ninh, “Đèo cả” của Hữu Loan thì cón cách xa mấy quăng dao.
Bài thơ  viết theo kiểu ví von của Trường ca Tản chụ xiết xương (tâm tình người yêu): Trai đáp/ gái đáp nên có giọng điệu dân ca Thái, để người đọc dễ tưởng đây là 1 tác giả dân tộc Thái.
Có câu sáng giá:
“Giữa lòng em thuyền độc mộc ngược xuôi”
Làm ta nhớ lại từ hồi 1936, Lưu Trọng Lư  đã viết:
“Mắt em là một dòng sông
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em”
Rồi các câu khá ấn tượng mới mẻ:
Anh làm no lòng Mường
Em làm vui ấm bản
Đoạn dưới “ký sự” kiểu thơ tuyên truyền hô khẩu hiệu của thời kháng chiến chống Pháp (mà Bùi Minh Quốc, Phạm Tiến Duật sau này với “đường ra trận mùa này đẹp lắm” đã vượt trên cả Tố Hữu, tất nhiên là dưới tầng Chế Lan Viên).
Tuy vậy, xét về bố cục cấu tứ bài thơ (mở đầu, thân bài, kết luận) thì tài hoa thơ Cầm Giang so các cây viết thời 1946 -1954 ở Tây Bắc thì Cầm Giang vẫn là số 1. Hai câu kết có thể nói là Đẹp, khá đắt:
Để anh lớn mãi thành núi Mường Hung
Em ngoan chảy thành dòng sông Mã.
Đó cũng là cái “bất tử” của một tứ thơ lạ “đẹp” cùng với quê hương xứ sở.
Năm 1961, NXB Văn học có in cho Cầm Giang tập thơ  “Rừng trắng hoa Ban” gồm 30 bài, bài viết sớm nhất  “Quả còn” Lai Châu 7/1950, bài cuối “mở  lò thông gió” 1959 ở Mỏ Cẩm Thái Nguyên… xem kỹ chỉ có 1 bài đáng giá ở trên mà thôi.
Thơ khó là vậy
3/3/2012

Bài 12:

Em đi bóng núi nghiêng theo
Bụi tung vó  ngựa qua đèo mù sương
Từ anh về  với bản mường
Với trông bóng núi dặm đường em đi
NK.

Bài 13:

(Nhớ anh Cầm Giang)
Mường Hung sáng núi xanh soi sóng biếc
Em vớt rêu thả mượt tóc thung mây
Con cá  măng nào hay sông biên giới
Tiếng khèn Lào sang chợ thổi nồng say
Trai Mường Hung thả bay thuyền đuôi én
Vài tay chèo tới Xiềng Khọ - Sầm Nưa
Sắm đồ cưới anh chở về - đúng hẹn
Vòng bạc trao lấp lánh dưới trăng mờ
Từ xa cách bản quê về Hà Nội
Đêm nằm mơ thác đổ trắng ngang trời;
Sớm mai dậy nhớ mây hồng đỉnh núi
Tiếng gà  rừng vang động cả hồn tôi.
NK-

Bài 14: 


Sơn La xuân  ở dài hơn
Tháng tư còn trắng hoa Ban trên rừng
Mà đây nắng hạ chói bừng
Chiềng Khương hoa Gạo đỏ lừng bến sông
Biên giới Việt Lào 6/1963
NK-

Bài 15:

Chiều vắng vẻ lặng tờ nơi bản nhỏ
Người đi nương, ra ruộng chưa về
Chỉ lũ  trẻ đùa nô trên bến tắm
Và một chàng “cắm bản” lắng hồn quê.

Con gà đẻ trứng xong kêu “cộc tác”
Con Vện nằm canh cửa mắt lơ mơ
Mặt suối xanh in bóng cầu vừa bắc
Cọn bên  đồng cuốn nước xối như mưa…

Chiều bản nhỏ ngàn xưa đời vẫn thế
Cứ yên vui cùng xứ sở thanh bình
Không giặc giã, gươm trên tường nằm nghỉ
Ngựa lỏng cương thả bộ dọc dòng kênh.

Ai đấy nhỉ một mình nơi thôn dã
Để nhớ ai ngoài phố thị ồn ào
Hẹn một buổi đón về thăm bản nhỏ
Cùng vào rừng hái nấm mé đèo cao.
NK-

Bài 16:

Bản người Thái (ở lưng núi) không có ao như  làng người Kinh (ở đồng bằng)… nhưng việc tắm rửa cho sạch sẽ thân mình thì người Thái  ăn đứt người Kinh là cái chắc.
Ở bản có 3 cách tắm rửa:
- Một là nơi “mó nước” đầu bản: Đó là nơi có ống nước tự chảy dẫn qua ống máng tre từ trên nguồn đổ về trong sạch tuôn suốt ngày đêm… thường có 2 ống: một bên nam, một bên nữ. Ngăn cách 2 bên là một phên nứa để bên nào bên ấy “tắm truồng” thoải mái.
Thường thì 3, 4 giờ chiều mùa hè, dân bản  đi nương, ra ruộng về, tất cả tới mó nước đầu bản là “kẻ xuộng xựa” (cởi quần áo “tắm”). Chị em thường là ý tứ ngồi xổm, khép đùi, áo được cởi vắt trên con sào bên cạnh, váy được dâng lên đỉnh đầu, ngực lưng hứng vào ống nước đang chảy, 2 tay xoa kỳ cọ thoải mái, đúng như “da trắng vỗ bì bạch”, vú để tự do (là của trời cho) ai thấy cũng chẳng sao.
Cánh đàn ông thì “truồng” 100%  chuyện trò cười đùa rôm rả… thật cứ như nơi vườn địa đàng buổi ban đầu con người còn chưa biết xấu hổ (nả hại) - tức là khi người nữ chưa ăn trái cấm (theo lời xui của con rắn “quỷ sa tăng”) nên tất cả đều rất vô tư, tắm truồng chung 1 mó nước, thỏa thích ngắm thân hình khỏa thân của nhau mà trong lòng không gợn chút dục vọng thú tính để dẫn đến tội lỗi?...
- Hai là: Tắm suối (vắng vẻ là tắm truồng)
- Ba là: Tắm sông
Chị em thường là ngồi ngâm mình dưới nước, váy để trên đỉnh đầu hoặc váy để trên bờ. Khi tắm ở sông suối, chị em thường kết hợp gội đầu, thả làn tóc mây xòa theo dòng nước, rồi đứng dậy, vung quay tít cứ như một điệu múa tóc thật là điệu đàng của các tiên nữ trên mường trời.
Người Thái rất tự hào về cái sạch sẽ  da thịt của mình… chị em ngày rửa tới vài lần, lại mặc váy rộng xông xênh, nên thường nói đùa “hi của chúng tao là hi hom (thơm), chứ không bịt kín (xi líp), quần bó chặt như người Kinh chúng mày, nên hi min (thối) lắm bệnh phụ khoa”.
Văn minh đô thị hay hoang sơ thôn bản (trở lại cội nguồn tự nhiên chưa ô nhiễm môi trường) đang là một vấn đề nhức nhối của cái thời công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và con người hình như đang tự đánh mất mình để tiến lên văn minh tàn bạo.
Tắm ở bản (cũng như ở ao làng ngày xưa), chao ôi, đang lùi dần vào dĩ vãng để tắm nước máy đã được xử lý bằng hóa chất (chất độc hóa học diệt khuẩn)…phải chăng ta cũng đang tự “diệt mình” làm biến đổi gen để rồi sinh ra 1 lũ con cháu vô cảm chỉ biết “tiền” và máy móc,vũ khí tiêu diệt, hủy diệt hàng loạt mà thôi….?
4/3/2012.

Bài 17:

Lễ tẳng cảu (tằng cẩu): Là lễ búi tóc ngược lên đỉnh đầu của phụ nữ Thái đen Sơn La  khi lấy chồng.
Sau lễ mai mối, chạm ngõ ăn hỏi và lễ  cưới, người con gái đã có chồng thì lễ  tẳng cảu làm ở nhà gái.
Trong các đồ sính lễ do nhà trai đem sang thường phải có 1 chiếc trâm bạc cài tóc (mản khắt phôm)… người đảm nhiệm làm thường là bà dì, nhà gái có 2 phù dâu trợ lý tiến hành.
Đầu tiên là gội đầu bằng nước vo gạo nếp (để chua) - bẳng nậm khẩu má và nồi nước lá sả, lá bưởi, lá tre… tất cả đem ra bến nước bờ suối giúp cô dâu gội đầu (như một lễ tẩy dơ bẩn trôi theo dòng suối, chỉ còn lại trên đầu phần vía (khoăn hua) thơm tho tốt lành… xong cô dâu về lên phía “tang chan” - khoảng 10 ghế mây (tắng)… cô dâu quay về phía mặt trời mọc, mọi người đứng xung quanh, 2 phù dâu áp sát 2 bên, 1 người nâng đĩa trâm cài tóc. Bà “Nai tằng cẩu” rút lược sừng đen từ cái “ếp” của mình ra làm vài động tác đưa lên hạ xuống và chải tóc cho cô dâu nhiều lần.
Cuối cùng dùng 2 tay vuốt ngược từ sau gáy, đưa độn tóc đặt vào chính giữa đỉnh đầu và búi tóc “tằng cẩu”… sau khi vuốt nắn lại không còn sợi tóc nào vương lòe xòe, thì cô nâng trâm cài tóc xuyên đúng chỗ để giữa “cẩu”, nổi bật đồng bạc hào hoa văn trắng ở phần đầu của trâm cài tóc chính giữa búi tóc ngược.
Trước đông đủ mọi người, bà Nai cẩu nói:
Khắt cẩu đi
Vi hoa kiểng
Tẳng cảu au phua
Té nị  pay nả
 Ca nị mưa nưa
Báu đảy nặm pay nảư
Chăư pay ứn luk ơi!
Nghĩa là:
Gội đầu sạch
Chải tóc mượt
“Tẳng cảu” lấy chồng
Từ giờ  này đi
 Từ nay về sau
Không được nước thay dòng
Lòng đổi chỗ con ơi!
Tiếp theo 2 vợ chồng dắt tay nhau đi qua dọc bàn tiệc đặt dài giữa nhà đã có khách ngồi kín đông vui nâng chén rượu chúc mừng.
NK-

Bài 18:

* Đẩy xí phiên xong hắu chắng ó kin khẩu
Cẳư bươn phạ chắng ó kin nốm
Tốc khuổm chắng pên lụ chái
Tốc hai nọng ánh xai phên lụ nhinh phủ ưởi
* 10 tháng chờ đôi ta ra đời ăn cơm
9 tháng đợi đợi đôi ta ra đời bú mẹ
Rơi sấp thành bé trai
Rơi ngửa em yêu thành bé gái.
Khi chuyển dạ, sản phụ được uống nước với cây “mậy phang” (cây tô mộc) có tác dụng cầm máu (có trong rừng hay mua của người Dao, người Hmông).
Sản phụ đẻ ngay trong ngăn buồng ngủ của mình trong tư thế ngồi (ghế = tắng), đỡ đẻ thường là mẹ đẻ hay mẹ chồng, hoặc tự xoay xở (nay thì có y tá bản)…
Lễ vật cúng “bà mụ”: 1 con gà trắng, cắt rốn bằng dao cật nứa hơ qua lửa hay nhúng vào nước sôi để sát trùng. Rau thai được gói chôn gần nhà (kín đáo vào ban đêm).
Khi trẻ đầy tháng thì cúng “hết hoóng”. Có  nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lúng ta (bên ngoại) đến đặt tên cho cháu.

Bài 19:

Ta lại về với nhà sàn bếp lửa
Một mùa đông ăn củ sắn lùi
Vó ngựa phi qua đèo Khau Cả
Ngắm sông Đà đổ thác réo sôi

Em vẫn đợi ở bên rừng vắng
Dải khăn Piêu tung cách bướm hội xòe
Ta đi giữa cánh rừng Ban trắng
Tiếng chim Tăng Ló vọng hồn quê
                               
Từ em đi, anh không về nữa
Đầu hồi nhà “khau cút” ngóng chờ ai
Đêm mơ về nhà sàn bếp lửa
Nghe gió mùa thương nhớ tháng giêng hai.
NK-

Bài 20:

* “Nặm Té hảnh to thú chắng lứm
Sông Đà cạn bằng chiếc đũa, hãy quên”
* Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu.
Sông Đà (Nậm Te), còn gọi là Sông Bờ hay Đà Giang, Hắc Giang là phụ lưu lớn nhất của Sông Hồng, bắt nguồn từ Vân Nam (TQ) chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Sông Đà dài 910 km (có tài liệu ghi 983km), bên TQ gọi là Lý Tiên Giang do 2 nhánh Bả biên Giang và A Mặc Giang hợp thành…được dịch ra tiếng Châu Âu là sông Đen: Black Rive (Ave), Rivière Noire (Pháp).
Đoạn bên TQ dài 400km từ núi Ngụy Bào, ở huyện tự trị người Di, người Hồi Nguy Sơn phía Nam Châu tự trị dân tộc Bạch Đại Lý chạy theo hướng Đông Nam qua Phổ Nhĩ.
Đoạn bên ở Việt Nam dài 527km (có tài liệu ghi 543km), bắt đầu từ huyện Mường Tè (Lai Châu) qua Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình tới huyện Thanh Thủy (Phú Thọ) bên kia là Ba Vì (Hà Tây cũ). Điểm cuối là ngã ba sông Hồng  Đà ở huyện Tam Nông (Phú Thọ). Sông Đà cung cấp 31% nước cho sông Hồng.
- 1994 - nhà  máy thủy điện Hòa Bình, có công suất 1920 MW (8 tổ máy).
- 2005 - khởi công thủy điện Sơn La 2400 MW - xong vào 2012, sẽ tiếp ở Lai Châu. Hồ Sơn La dung tích 9,26 tỉ mét khối nước.
Sự hùng vĩ của sông Đà, đó là những ghềnh thác dữ  dằn gầm thét âm vang giữa 2 bờ vách đá dựng đứng, như nỗi thù hận nghìn đời giữa trời và đất để hung dữ, để tàn phá, để nhấn chìm tất cả.
Năm 1958 Nhà  văn Nguyễn Tuân đi thực tế đến với sông Đà, Ông đã ghi lại những cái tên và tính nết của một số thác trong số 73 cái thác có tên trên sông Đà về từ biên giới Việt Trung tới thác Bờ (Hòa Bình):
“Cách biên giới TQ phía Vân Nam khoảng mười cây số là thác kẻnh mỏ trên”. Rồi đến thác La Sa, Hát Vá, Mằn hi, Mằn Lay. Rồi thác Hát Nhạt, Mằn thẳm, Hát No Héo, Kẻng mỏ dưới. Rồi đến Hát Lai ở trên thị xã Lai Châu (Mường Lay) độ 9km.
Thuộc thủy phận Sơn La là các thác: Hát pi, hát soong pút, hát soong mon, hát pố, hát kếnh, hát chan, hát moong, hát tiếu; qua hát tiếu (tiếng Thái chữ hát = thác) “qua hát tiếu, rải chiếu mà nằm” coi như về cơ bản đã qua những chỗ nguy hiểm.
Từ Vạn Yên tới Hòa Bình lại xuất hiện một số thác tuy có bớt hùng dữ hơn ở phía trên Lai Châu, Sơn La…đó là những “ga” nước trên sông Đà:
Thác Ẻn, Thác Giăng, Bãi chuối, Mó sách, Bãi lời, Bãi lành, mó tôm, mó nàng, Nánh kẹp, Quai chuông, Tà phù, Bãi nai, Ba hòn gươm, phố khủa, gềnh đồng, suối bạc, ổ gà, bái nhạp, cánh cuốn, mèo quen, hang miếng, quần cóc, suối trong, bãi ban, riềm, thác rút, thác mẹ, bãi thằng rồ, mó tuần, suối hoa, hót gió, thác Bờ…
Sau khi các  đập thủy điện hoàn thành, tất cả các gềnh thác được nhấn chìm xuống đáy hồ sông Đà mênh mông chia 3 khúc: hồ Hòa Bình (từ thác bờ - Hòa Bình tớ tạ bú - Sơn La) rồi từ đập Pả Vinh - Ít ong (Mường La) tới Nậm nhứn Mường Nhé - Mường Tè - Lai Châu…
Từ thời Lê, trong “kiến văn Tiểu Lục”.Bảng nhản Lê Qúy  Đôn (1723 - 1872) đã viết: “Thác Bờ ở địa phận Động Dĩ Lý và Hào Tráng thuộc Mộc Châu”,như 1 ngọn núi đứng sừng sững giữa dòng là sông Đà, đá lớn lởm chởm, hàng năm cứ đến ngày 8 - 4 từng đàn cá ngược dòng nước bơi lên, chỉ có vài con cá chép khỏe là vượt được thác bờ (cá vượt vũ môn).
Sách “Giao Châu ký” của Tăng Cổn (cuối thế kỷ 9) nhà  Đường đô hộ Giao Châu (Tiết độ sứ) - có ghi về sông Đà “có Long Môn”, nước sâu trăm tầm, cá lớn vượt lên được chỗ này sẽ hóa rồng.
Trong sách “Sơn  đường tứ khảo” gồm 228 quyển và bổ  di 12 quyển  Bành Đại Dực (nhà Minh) biên soạn có chép “sông Long môn ở huyện Mông (Yên Lập - Phú Thọ) phủ Gia Hưng, nước An Nam phát nguyện từ Châu Minh Viễn (Vân Nam), nước sông chảy đến đây, 2 bên bờ cao vót, hiểm trở, tảng đá lớn chắn giữa sông chia làm 3 dòng, sức nước vọt lên cao đến vài trượng, nghe ầm ầm như sấm, thuyền đến đây phải kéo lên bờ mới qua được”.
Sườn núi  động Hào Tráng ở về phía bờ trái, có  khắc 2 bài thơ (ngự thơ) của vua Lê Thái Tổ đi đánh Đèo Cát Hãn:
Lê Quý  Đôn dịch:
“Gập gềnh đường hiểm chẳng e xa,
Dạ sắt khăng khăng mãi đến già
Lẽ phải quét quang mây phủ tối,
Lòng son san phẳng núi bao la.
Biên cương cần tính mưu phòng thủ
Xã tắc sao cho vững thái hòa
(Hư đạo nguy than tam bách khúc
Như kim chỉ tác thuận lưu khan)
“Ghềnh thác ba trăm” lời cổ ngữ
Từ nay xem chẳng nổi phong ba”.
Viết tại ngày tốt, tháng mạnh hạ (tháng tư) năm Thuận Thiên thứ 2 (1429).
“Đường lên mường Lễ (Lai Châu) bao xa 170 thác, 130 ghềnh”
- Ca dao
Cử nhân, thượng thư Phạm Thuận Duật (1825 - 1885) năm 1855 làm tri châu Tuần giáo (lúc ấy thuộc Sơn La, tỉnh Hưng Hóa trong sách “Hưng Hóa ký lược” có chép).
“Châu Đà Bắc ở xã Hào Tráng có bến Vạn Bờ tức sông Long Môn, cùng gọi là “đê long thủy”. Tục truyền rằng đây là nơi “cá vượt vũ môn” hóa Rồng.
Hai bên đá chốc đứng, chặn ngang cửa sông, ở giữa có một chỗ đá bị đục thủy (do nước xói mòn) gọi là Ao Vua, đó là nơi vua  Lê Thái Tổ đề thơ (1429).
Theo tác giả Anh Đức trong bài “xuôi dòng Đà giang trước lúc ngăn sông”, tạp chí Suối Reo - Sơn La 5/2004 thì:
“Từ thị xã Lai Châu cũ (Mường Lay) muốn xuôi xuống Quỳnh Nhai, ít nhất phải ngồi thuyền trên 200km, vượt qua trên 10 thác hung dữ với những cái tên hãi  hùng như thác Ba Bố, ghềnh Ba Cô, thác Bà Đái, hòn Chông, ghềnh chém sóng… thử thách đầu tiên là thác Ba Bố mùa lũ. Tuy các dải đá ngầm có bớt nguy hiểm nhưng những con sóng lại cực lớn, dập từng cơn táp mạnh vào mạn thuyền, con thuyền liên tục xô nghiêng chao đảo. Người chưa quen đi sông nước bao giờ thì lúc đó coi mặc cho số phận, còn những người từng trải thì thêm 1 lần trải nghiệm. Qua hết nghềnh thác, mọi người thở phào nhẹ nhõm. Đi từ sáng tới hơn 2 giờ chiều đến được bản Huổi Ca, xã Nậm Mạ, huyện Sìn Hồ (Lai Châu).
Rồi tiếp tục xuôi qua: Nậm Lốt, Pờ răng ky của đồng bào Dao, xã Nậm Hăn (Sìn Hồ), rồi tới Pắc Phạ, Pắc Na của đồng bào Hà Nhì, Thái trắng xã Tủa Thàng (Tủa chùa)…
Vào đất Sơn La là bản cũ xã Cà  Nang (Quỳnh Nhai) của đồng bào La Há hiện dưới cánh rừng ven suối. Qua huyện lỵ Quỳnh Nhai: Thuyền ghé qua các bến Pá Uôn (nay có cầu), Chiếng Bằng, Văn Pán, Nậm Giôn, Nậm Mu, Liệp Tè…
Thác Pá Mu hung dữ mùa cạn, khi nước dâng thì hiền lành là bến đò đưa khách qua sông.
Tại Pá Vinh - nơi xây Thủy Điện Sơn La có cây cầu cứng qua sông để thi công… Sau 5 ngày lênh đênh sóng nước, thuyền cập bến Tạ Bú an toàn.!.!

Bài 21:

(Tặng: Nguyễn Văn Huân) 

Bến Tạ Bú một sớm mai mình đến
Nước sông sâu xanh biếc tự đáy lòng
Hòn cuội trắng soi hồn ta tỏa nắng
Theo ngựa thồ sang tận Ít Ong

Ơi thác Chiến, có xuôi thuyền đuôi Én
Bản Pha Khinh ai đó hẹn ta về
Đêm nay “lẩu xiêu” vui cạn chén
Bếp nhà  sàn tiếng “Pí” thổi say mê

Bến Ta Bú  nào có ai ra tắm
Để vừng trăng đắm đuối giữa dòng
Mình là trai bản Phiêng Ngùa lạ lẫm
Đến bến thuyền xuống ngựa ngẩn ngơ trông.
Nguyễn Khôi
“Nước Sơn La ma Tạ Bú” (cũng có người nói ma Hòa Bình)

Bài 22:

Ở khu di tích bảo tàng “nhà tù Sơn La” trên đồi Khau Cả, áp sát dinh Công Sứ (thời Pháp thuộc) nay là trụ sở UBND khu tự trị Tây Bắc, rồi tiếp là trụ sở UBND tỉnh Sơn La.
Ở cách cổng nhà tù xưa một quãng có một ô nhỏ “Izôlê” (Isolé – nơi cách ly)rộng khoảng 4m2, hình tam giác vuông - xưa có cửa là một phiến gỗ lim dày, vừa để 1 người lọt ra vào. “I đôlê” ở ngay bức tường sau khu thường phạm, bước chân ra là đường hành lang tròn (đường Rông - Ronde).
Năm 1940, nơi đây nhốt 1 người tù Cộng Sản: Anh Tô Hiệu (30 tuổi) nguyên Bí thư Thành ủy Hải Phòng Đảng Cộng sản Đông Dương - quê Xuân Cầu, Văn Giang, Bắc Ninh. Sau những trận đòn thù của thực dân Pháp ở các nhà tù như Côn Đảo, Hỏa Lò… anh Tô Hiệu đã bị “lao” nặng nên bị nhốt cách ly ở “I zôlê”- lúc này anh Tô Hiệu là Bí thư chi bộ nhà tù, tuy bị đau nặng, lại phải nằm bệ ci ment, nhưng anh vẫn làm việc hết mình… đến ngày 16/7/1944 thì anh trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay các đồng chí của anh.
Nhà tù Sơn La do thực dân Pháp xây để nhốt tù chính trị, tường cao, sàn sân láng ci ment, 1 ngọn cỏ không thể mọc được, tường và sân, kể cả đường “nông” đều dầm đá dăm + ci ment (bê tông) dày hàng nửa mét (để đề phòng tù nhân đào hầm tẩu thoát). Luật lệ canh gác nghiêm ngặt, thường có lính gác đi lại liên tục ngày đêm nên không ai có thể đào bới trồng cây trong sân nhà tù.
Sau Cách mạng tháng 8, khoảng năm 1948 (do các  đ/c ở đây kể lại) khu di tích nhà tù bị bom Pháp đánh sập, bị bỏ hoang…
Sau năm 1954 (hòa bình lập lại) thủ phủ khu tự trị Thái Mèo đặt ở Chiềng Ly (Thị trấn Thuận Châu), tỉnh lỵ Sơn La cũ (Chiềng Lê là một thành phố chết và đổ nát)… thuộc 2 xã Chiềng An, Chiềng Cơi, huyện Mường La (Châu Mường La)… mãi tới năm 1962 mới thành lập thị xã Sơn La: Các cơ quan của khu và tỉnh mới chuyển từ Thuận Châu về thị xã , nhà cửa mới được xây dựng, khu nhà tù vẫn là một phế tích, nay là Thành phố.
Năm 1958, nhà văn Nguyễn Tuân đi thực tế  ở Sơn La, trong tùy bút “Sông Đà” nổi tiếng, ở trang 129 - 134, ông có viết thiên “Đào cộng sản” nhân sau khi đến thăm khu phế tích nhà tù Sơn La xưa “tôi dạo hết sân ngoài sân trong, nhìn tường đá, nhìn xi măng cốt sắt, nhìn cây. Có những cây hao hao cây Xoan, và mấy gốc muỗm. Thế thôi. Tôi biết. Ở đây còn có cây đào, cây đào ông Tô Hiệu”… Rồi nhà văn xuống khu vườn ổi chân đồi Khau Cả viếng mộ anh Tô Hiệu:
“Đứng trước mộ đ/c Tô Hiệu nơi rừng ổi, tôi bảo tôi “nơi nghĩa trang tiễn biệt này, cần có đào”…. Đối với bậc lãng mạn cách mạng, lấy hoa đào để thực hiện lên cái vui hoa quả XHCN của Sơn La - Thủ phủ Tây Bắc ngày nay, thấy cần có bóng hoa ấy trên chữ vàng bia đá”.
Nhà văn Hoàng Công Khanh (1921 - 2010). Một bạn tù của anh Tô Hiệu, trong cuốn “Hoa nhạn lại hồng” NXB Văn Học 1992, trang 157 có viết “sau các trận bom Pháp, nhà tù Sơn La chỉ còn cái cổng và cái hầm sâu. Trên quảng đường “rông” gần “I đôlê” bỗng xuất hiện một cây đào rừng (đào phai không ăn quả được) nó lớn nhanh và hoa phớt hồng, sinh thời nhà văn Nguyễn Tuân nhân một dịp lên thăm qua thăm vết tích nhà tù thấy cây đào mọc bên cạnh phòng giam (xưa) anh Tô Hiệu đã vui miệng nói đó là cây đào Tô Hiệu”.
Rồi truyền miệng, báo chí đăng tải, rồi Bảo tàng Sơn La gắn biển “cây đào Tô Hiệu” một huyền thoại thành hiện thực ca ngợi một chiến sỹ cộng sản.
Năm 1980 - 1981 tỉnh mới tu bổ lại thành khu di tích bảo tàng cách mạng.
Nguyễn Khôi tôi lên công tác Sơn La 21 năm (1963 - 1984) có cái may mắn: Hồi 1966 - 1970 công tác ở Ban Nông nghiệp tỉnh ủy Sơn La, 1978 - 1984 làm thư ký ở văn phòng UBND tỉnh Sơn La, nơi ở và nơi làm việc cách 1 bức tường là sang khu di tích nhà tù, cách chỗ gọi là “cây đào Tô Hiệu” vài chục mét.
Nguyễn Khôi tôi cũng có cái may mắn đã từng được đưa các bác Trần Huy Liệu, Văn Tân đi thăm lại nhà tù… và được nghe các bác kể chuyện đủ thứ về nhà tù. Năm 1984 tôi về công tác ở VPQH và HĐNN, có điều kiện cận kề bác Trường Chinh, Nguyễn Hữu Thọ, Lê Thanh Nghị, Xuân Thủy… lại thường xuyên giúp việc bác Lê Thanh Nghị nên có điều kiện hỏi về chuyện nhà tù Sơn La (vì bác Nghị hồi trước 1945 cũng bị tù ở đây 5 năm cùng các bác Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu, Trần Huy Liệu, Lê Đức Thọ, Xuân Thủy… bác Xuân Thủy, hồi sau làm Phó chủ tịch Quốc Hội).
Qua câu chuyện về cây đào “Tô Hiệu”  thì bác Lê Thanh Nghị, Xuân Thủy đều bảo thời trước 1945, nhà tù chưa bị phá thì không thể trồng cây gì ở trong đó được. Sau này, đó là chuyện của Nhà Văn Nguyễn Tuân trong tùy bút Sông Đà với mấy câu lấp lửng “Cây đào ông Tô Hiệu”, rồi sau đó được báo chí “môđiphê”(modifier-làm thay đổi) như khẳng định… câu chuyện thực là thế, và có lẽ cũng chỉ nên nói là “cây đào bên buồng giam Tô Hiệu”. Cây đào này (bên cạnh còn nhiều cây đào khác) hiện nay  được Bảo tàng Sơn La gắn biển “cây đào Tô Hiệu”… vậy thực là do ai trồng? Đó là do chim rừng, gió núi đem những quả đào dại (đào rừng) mọc đầy trên đồi Khau Cả gieo vào các khe nứt trên sân nhà tù xưa đã vỡ nát, rồi nảy mầm mọc lên thành cây… tất cả đào Sơn La hầu hết là “trời trồng” (mọc tự nhiên) không phải ai tưới tắm gì cả. Hậu thế, do quá yêu tấm gương hy sinh của người chiến sỹ cộng sản Tô Hiệu nên đã gán cho anh thêm cái “tình”: Ho lao rũ rượi chết đến nơi rồi mà vẫn gieo hạt, trồng đào nở hoa cho các thế hệ mai sau. Từ văn học (tùy bút) rồi thành huyền thoại, âu cũng là một tấm lòng, không nên bàn cãi qúa nhiều. Vấn đề là cất cái biển đã ghi tên kia đi… (Rendez César ce qui appartient à césar)./.

Bài 23:

Nhà sàn của người Thái - Sơn La - Tây Bắc “hướn hạn phủ táy” là một công trình kiến trúc tài hoa, hòa đồng với thiên nhiên, trời đất cùng vạn vật, có 2 loại:
- Nhà sàn khung cột: bộ khung được gá lắp từ các bộ phận rời, bắt đầu từ việc chôn cột (nhà cột chôn - nghèo) “hươn chim mạy”.
- Nhà sàn vì kèo “vì cột”: Kèo, cột, xà ngang đã được lắp ráp thành các đơn vị “vì kèo” dựng nối các vì bằng các xà dọc (tiến từ hườn khứ sang kẻ khứ (quá giang = khứ) có hai trụ để đỡ đòn tay (pe hản) là con cung. Đó là loại nhà “hườn kè khang” (nhà kê hạ).
Nhà sàn Thái bao giờ cũng làm số gian lẻ, 2 đầu hồi - “tụp cống” khum khum như mai Rùa, gắn với truyền thuyết thủa khai thiên lấp địa, thần Rùa “Pua tẩu”. Dạy người Thái làm nhà theo hình Rùa đứng.
“Khửn song phái/ cái song đay” - mở 2 cửa/ đi 2 cầu thang là “tang chan” và “tang quản”. “Tang chan” ở cuối nhà bên trái dành cho phụ nữ. “Chan” là phần nhà sàn được nối dài ra ngoài trời. Đây là nơi đàn bà trong nhà ngồi nghỉ ngơi chơi lúc nhàn rỗi, thêu thùa, cầu thang phía này thường 9 bậc (9 vía).
Cầu thang đầu bên phải “tang quản” dùng cho nam giới; 7 bậc (7 vía).
Có 2 bếp lửa: “chik pháy” phía tang quản dành cho người già. Bếp chính phía tang chan dành cho nấu nướng, phụ nữ. Bếp lửa nhà sàn ở giữa nơi núi rừng âm u được coi như “trái tim bốc lửa” sưởi ấm nuôi dưỡng cả về vật chất, tinh thần cho cả nhà.
Gian “quản” có bàn thờ tổ tiên  “hỏng hóng” và cột thiêng “sau hẹ”. Trên cột thiêng có treo hình Rùa bằng gỗ 3 bông lúa “sam huống khẩu” và 3 nhánh rau “thì là” “sam hóm chik” - đó là biểu tượng của tô tem giáo cùng bóng dáng thuyết thiên - địa - nhân.
Nhà sàn Thái vừa trang nhã vừa chắc chăn:
Hươn đi tẳng cang tèn
Hươn én tẳng cang vên
Lốm luông pặt bấu chại
Lốm hại pặt pấu pay.
(Nhà tốt dựng nơi cao ráo
Nhà đẹp dựng giữa mường
Gió to thổi không xiêu
Bão lớn không lay động).
* Sự tích cái Khau cút (hoa nhà)

Theo Quắm tố mướng (kề chuyện mường)
Thì: Cuộc thiên đi/ đi đường thuyền sợ rơi/ phải chuồn theo đường con don, con dím…
Người Thái từ xíp xoong păn na (Vân Nam) đi theo dọc sông Hồng (Nậm Tao - Sông Thao) ra đi vào cuối tuần trăng. Họ đi cứ đoán lũ nhìn vào mặt trăng khuyết ở cuối dãy núi, họ hẹn nhau, hễ ai đến được phương đất nào khi làm nhà thì dựng trên đầu hồi nhà (nóc) một cái dấu hình mặt trăng khuyết để nhận ra đồng tộc - và cái đó gọi là “khao cót” và gọi chệch là “khau cút” = sừng cuộn.
Theo tiếng Thái “khao” là trắng, cót là ôm có ý nghĩa là mối hận ly hương. Cái mô típ trang trí nghệ thuật “mặt trăng khuyết” này còn có ở cửa sổ, khăn Piêu…
Khau cút vẽ vân sen/ đầu kèo vẽ vân én/ mái nhà xén chân gianh bằng rui: Đó là tiêu chí nghệ thuật về nhà sàn Thái.
Khau cút là 2 thanh gỗ đóng chéo hình chữ X trên đòn nóc “tiêu bôn” trước hết là để chắn gió “pảy lốm” nẹp 2 mái gianh 2 đầu hồi nhà. Những nhà tầng lớp trên xưa còn thêm bông sen cách điệu ở 2 giao điểm 2 tấm gỗ và 8 hình trăng khuyết hướng  vào nhau so le trên khau cút.
Có nhiều cách hiểu về khau cút:
Đó là cặp sừng trâu cách điệu (văn minh lúa nước); Đó là những búp cây Guột (rau dớn)… nhìn thấy nó là ta nhớ bản nhớ mường.
Trên bậu cửa thường chạm hình đôi Thuồng luồng (tô ngựa) linh vật làm chủ trên sông suối, biểu tượng cho sức mạnh và gia đình hạnh phúc.
* Các loại khau cút:
- Khau cút mải: Là dạng đơn giản nhất chỉ  là 2 thanh tre bắt chéo vào nhau, là dấu hiệu nhà  của phụ nữ góa bụa (me mải).
- Khau quai (sừng trâu), khau pẻ (sừng dê), cút chim may (trăng khuyết) cút nêm (cút lá tre) là dấu hiệu của nhà bình thường.
- Khau của pụa (khau cút Vua) dấu hiệu nhà Quan lại, quý tộc gồm 2 miếng ván dài trên 1m, phần chót có  đóng 2 miếng gỗ ngang, chia 5 nhánh, mỗi nhánh có gắn hình hoa thị theo số đếm của luật tục làm nhà.
- Khau cút căm (khau cút vàng) dưới có thanh gươm, là dấu hiệu của Nhà quý tộc “quan võ”.
- Khau cút hoa sen: Nhà quý tộc lớn.
Bố trí nội thất: Tiếp liền vách gian buồng thờ tổ tiên (hóong) là buồng ngủ của chủ nhà, phía chân thường đặt thêm bếp lửa để gia đình sum họp, sưởi ấm… chăn đệm chất đống đặt ở phía đầu ngủ.
Vị trí ngủ của các thành viên trong gia đình: Gian giữa “xáo hạch” và “hỏng ly” là gian khách đàn ông ngủ. Đối diện phía dưới là nơi con trai chưa vợ ngủ. Kề cột xáo hạch là vợ chông chủ nhà ngủ. Kế tiếp là vị trí Bố mẹ chủ nhà ngủ, tiếp là vợ chồng con trai ngủ, tiếp là nơi vợ chồng con gái ngủ, rồi đến con gái chưa chồng ngủ.
Con rể không được vào khu vực bố mẹ vợ ngủ, con dâu, con rể không vào khu bố mẹ chồng ngủ. Bố mẹ chồng không vào khu con dâu ngủ.
Sợi dây  “xảo lỏng luông” là ranh giới (sợi dây linh thiêng) nên người ta chỉ vắt khăn mặt, khăn Piêu lên sợi dây này.
Tuyệt đối không vắt quần áo, tối kỵ là váy áo phụ nữ.

Con gái chưa chồng
Vợ chồng con rể
Vợ chồng con trai
Bố mẹ
(ông bà)
Vợ chồng chủ nhà
Khách đàn ông

* Các vị  trí khác:
- Nơi để hạt giống (giàn 2 bếp)
- Nơi để ống nước: Dựa vào vách bên phải (thường ngồi quay mặt vào bếp)
- Nơi để khung dệt vải: Bên phải sàn xia phía trong nhà hoặc bên trái sàn xia  phía ngoài nhà.
- Nhà kho: Ở dưới gầm sàn
Lễ lên nhà mới: mời Lúng ta (ngoại) châm lửa nhóm củi ở bếp mới, mời mo đọc bài xua đuổi tà ma

Bài 24:


Cảm tưởng đầu tiên khi gặp “gái Thái” là  nõn nà, sạch sẽ, đẹp, hấp dẫn cả dáng lẫn da.
Trang phục đẹp “độc đáo” tạo dáng đi tha thướt, uyển chuyển, làm nổi bật các đường cong gợi cảm nhưng vẫn kín đáo, thắt đáy lưng ong. Tính tình dịu dàng, hiền thục, dễ gần gũi, thực thà, chất phác, nói năng vừa phải.
Tình cảm: chân thành, yêu tha thiết, hoạt động tình dục mạnh mẽ, đứng tuổi mà bộ ngực vẫn  đầy đặn.
“Gái Thái tóc thơm, da trắng, thịt mềm
Đôi bầu nhật nguyệt như mộng ước
Ru hồn trai lên cõi trời tiên”
Thông minh, hoạt bát, ham học hỏi và nhanh tiếp thu cái mới.
Sinh hoạt cộng đồng: dám phát biểu chính kiến, hay hát và hát hay, múa (xòe) giỏi.
Chăm chỉ đảm đang, nuôi con khéo, dạy con ngoan. Không đánh con, ít xảy ra cãi nhau (to tiếng), không ăn cắp, không nói dối (ba vẹo).
Có tính bình đẳng bình quyền (không tự ti), có chí  khí vươn lên (danh ca có nghệ sĩ ưu tú Vi Hoa; chính trị cấp cao có Tòng Thị Phóng - ủy viên bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội…)
Nhận xét (đánh giá) về “gái Thái” của chính các chàng trai Thái qua “Tản chụ xiết xương” (tâm tình người yêu) với cái lối nói “xiết” (kiểu nói kháy, hơi cường điệu, phóng đại “quá” lên một chút) đã ca ngợi cô gái có vẻ đẹp thông qua lao động:
“Xai pánh nhịp lang chủm pên hún nộc dung / phung lang he pến hún luống bin xẻo/. Lả tắt kẻo pên chớp lao vi”
(Em khâu vó  nên hình chim công /vá chài thành hình lượn con rồng) đưa nhát kéo thành Sao Tua Rua/.
Cô gái xinh xắn ở trên sàn khuống khiêm nhường đáp lại:
“Khuống phủ khuôn nhinh khuống nọi, khống ai khái
Khuống pai chán dú ngăm nga phả
Báu đáng nả chụ pươn má cha đău ná”
(Khuống của em, Khuống nhỏ lại xiêu vẹo ở bên sàn ngoài, cớm cành cớm nguội chẳng xứng mặt chàng yêu của người sang chơi).
Người Thái có câu “au mia bấng me nai” (lấy vợ thì xem bà mẹ cô ta) ý là “mẹ nào con ấy”…từ lên sáu, lên bảy, bé gái đã được mẹ dạy tập nhặt bông, cán bông, quay xa, kéo sợi, cầm kim chỉ để khi lớn là thông thạo dệt vải vá may, tự tay trồng bông, dệt vải, nhuộm màu, cắt may quần áo, làm chăn gối đệm màu…Phụ nữ Thái còn giỏi trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ dệt thổ cẩm đẹp, thêu piêu…coi đây là các nghề phụ làm ngoài giờ ra ruộng, lên nương, nuôi dạy con cái. Đó là những bàn tay tài hoa, khéo léo:
“Sai pánh khuổn mư sại lẹo chum bok cai
Hai mư khoa chum bơk Mường Hỏ
Năng dóng dỏ nhịp lụa pên pik bin lá”
(Em úp tay trái nở hoa đào
Ngữa tay phải thành hoa Mường Hỏ
Khép ngồi khâu lụa thành (chim) vỗ cánh bay.
Sự chăm chỉ của các cô gái Thái thức khuya dậy sớm trên khung cửi từ canh ba, canh tư đến tang tảng sáng mới rời khung cửi đi nương, ra ruộng.
“Tứn tắm húk kem bươn hai
Tứn tắm húk lai kem bươn hai póng hung”
(Dậy dệt thổ cẩm cùng trăng sáng
Dậy dệt vải hoa cùng trăng tỏ  rạng đông).
Người phụ nữ Thái quên ăn quên ngủ  làm lụng tận tụy vì chồng con, xã hội…  đã tạo ra các sản phẩm thiết thực quý giá… các chàng trai Thái luôn mơ ước kiếm được cô vợ đảm đang, qua lời hát “khắp” đã lý tưởng hóa về việc nàng thêu khăn đào tặng chàng:
“Lả tắm phải pên póc nong xe
Pánh tắm pé pên khoáng lái lủ
Chụ tắm khẳm pên khoáy lai lương
Cốn táng phương lướt le chăử hảy”.
(Em dệt sợi thành vóc hoa dâu
Em dệt tơ thành gấm hoa vân chéo
Dệt thổ cẩm rực rỡ hoa văn
Ước được em thêu dệt khăn đào).
Như vậy: Gái Thái với vẻ đẹp hình thể  (vào loại nhất ở nước ta) thì cái đẹp bên trong, vẻ đẹp nội tâm quả là các cô  nàng xinh đẹp để cho ta chiêm ngưỡng và yêu thương hết dạ.
8/3/2012.

Bài 25:

PÍ PẶP (1) 
Chàng trai Thái tỏ tình với người yêu bằng tiếng sao trúc (pí pặp) được nhà thơ Lò Vũ  Vân đặc tả bằng sáu câu thơ ngắn với 36 con chữ rơi thánh thót rót vào lòng cô gái:
Tiếng Pí Pặp lảnh lót
Rơi xuống nhà sàn em
Nhà sàn em tỏa sáng vừng trăng
Tiếng Pí  Pặp nỉ non đêm ngày
Trải thảm lên thang gỗ chín bậc
Rơi vào  đáy tim em.
Lò Vũ Vân

........
(1) Pí  Pặp: Sáo trúc nhỏ
Pí = sáo  “páu pí xáư hu quai” thổi sáo vào tai trâu (đàn gãy tai trâu)
Pí láo = sáo trúc dài
* Nhà thơ  Lò Vũ Vân (19 - 8 - 1943) quê bản Noong Đa, Bắc Yên. Ở tổ 8. phường Tô Hiệu. TP Sơn La.
BÌNH: Một tứ  thơ lạ, ý rất xưa mà đủ cả tình, cảnh, sự - đủ cả nhạc, họa… thật là độc đáo đến lịm người.

Bài 26:

Người Thái có câu “dệt kin xấư xốp nhăng báu hụ” - làm ăn vào miệng còn không biết thì mọi lời nói chữ nghĩa cũng chỉ là “tô xư tai” (con chữ chết) mà thôi. Theo Vi Liên:
1. Căm khảu (Phần về cơm):
Khảu nửng (cơm xôi), khảu lam (cơm lam), khảu tổm (bánh chưng), khảu chảo (cơm thổi), khảu canh (cháo), khẩu chí (cơm nướng)…
Khảu bái pa (cơm cá), khảu bái sáy (cơm độn trứng), khảu bái bay (cơm độn trám đen), khảu bái cưởm (với trám xanh), khẩu bái nậm ỏi (với mật), khẩu nhọm (nhuộm các màu), khảu qua mắn có (độn sắn), khảu qua khảu phảng (độn kê), khẩu qua li tổm (với ý dĩ), khảu qua phứa hom (khoai thơm)…
2. Căm chảm (các loại chấm).
* Le cưa khao (muối trắng), le ướt cưa (muối ớt).
* Các loại  “chéo”: Chéo khinh hom (gừng), chéo ướt cưa (ớt tỏi), chéo báư líu (lá chanh), chéo hom chi lang (húng chó), chéo inh ki (húng) chéo hom kíp (tỏi), chéo hom pẻn (mùi tàu), chéo phắc chậu (sả), chéo thúa nau (đỗ tương), chéo pa (cá), chéo pu (cua), chéo mẹ (sâu măng), chéo non tó – chéo manh i (nhộng, ve), chéo đẻ mọn (nhộng tăm).
* Các loại mắm: Mẳm ca (cá), mẳm nước, mẳm khụa (nòng nọc), mẳm mẹ (sâu măng), mẳm co đường Pừng (nhộng cây móc), mẳm manh ti (nhộng ve), mẳm manh po (nhộng cánh cam), mẳm tắc ten (châu chấu), mẳm pu (cua), mẳm non tó (nhộng ong), mẳm manh đa (cà cuống), mẳm tô niểng (niềng niểng).
* Các loại nước chấm:
Nặm xổm  đanh (măng chua), nặm xổm má xim (quả xím), nặm  xổm mák (quả bứa), nặm xổm má liu (chanh)… kham bong (quả me), nặm mắm (nước mắm), nặm tôm (mắm tôm), pảnh van (mì chính).
3. Căm kin (phần về các món ăn):
* Phau (đốt) – chí (nướng)
Các món nướng (pỉnh): Pỉnh họn, pỉnh tộp (cá), pỉnh ho (gói), pỉnh mịnh (hơ), pỉnh mản (xiên), pỉnh mản xót (xiên miếng to).
* Các loại lam: Lam nhứa phặc (thịt nạc), lam nhứa hạp hạ (thịt bạc nhạc), lam phắc (rau), lam nó (măng), lam tô họk (con sóc), lam tô ổn (con dúi).
* Các loại “mốc” cá:
Gói lá vùi tro nóng: Móc tong (lá), mốc ố  (ủ), mốc nhứa đảng (thịt khô), mốc cay (rêu đá), mốc pho, mốc ốt, …
* Các loại Ók gồm:
Hầm cách thủy: ók năng min, ók nhứa đảng (thịt chó), ók cay (rêu đá), ók tau (tảo), ók bon, ók ốt…
* Các loại nhọk (nghiền nhuyễn): Nhọk mák khừa (cà), nhọk mák thú (đỗ), nhọk năng (da), nhọk nhứa (thịt).
* Các loại mọk (tẩm bột hầm cách thủy):
Mọk cáy (gà), mọk pa (cá), mọk nhứa (thịt), mọk tô  pụng (diều hâu), mọk tô hơn (don), mọk tô mển (dím), mọk cay (rêu đá), mọk hết (nấm), mọk mắk mư (quả chua ngọt).
* Các loại pho (đùm lá vùi nướng):
Pho hết côn (nấm rơm), pho cốp (ếch), pho hết hẹk (nấm hương), pho hết khôn cày (nấm da), pho chương tọng (lòng), pho pa (cá).
* Các loại nửng (xôi) “đồ”:
Nửng táo, nửng xá - đíp (chín tới), nửng pa (cá), nửng phắc kén (rau khúc), nửng man ca (búp sự), nửng pưới (nhừ), nửng nhứa (thịt), nửng mák buốp (mướp), nửng mák pi (hoa chuối), nửng dúak pi (nõn cây chuối rừng)…
* Các loại quả:…
* Các loại rau: Đều đem “đồ” mới ăn, phắc cát úp (bắp cải), phắc cát mong (cải xanh), mướk (bồ công anh), khỉ táu (diếp cá), noók (rau má), ngỗm (xương sông), cát đon (cải bẹ), cát choong (cải xoong), ót (rau ngót), xô-ók (dọc mùng), cút nặm (dớn), phắc ở lợt (lá lốt), phắc ven.
4. Các loại lá (lá non và ngon):
Bâư mắn co (ngọn sắn), bâư ổi, bâư ngoa, bâư  đứa.
5. Các loại măng ăn ghém sống:
Nó khá, nó van, nó bới, nó thúa ngọk (đá), nó pửng, nó lau, nó man ca, nó tao, nó vai…
6. Các loại nấm: Hết bỉ, hết thu nún nặm.
7. Các loại quả thơm:
Măk khén (hạt tiêu rừng), măk he (tiêu), măk ớt (ớt).
8. Các loại vỏ:
Năng co hăm (vỏ cây hạt dổi)
Năng chưa bi mi
9. Các loại quả ăn sau bữa cơm (đét xe):
Măk teng (dưa), kiểng (cam), hảu (bứa ngọt), phong mạt (dứa), mắk muông (muỗm), hăm (hạt dổi), liu (chanh), cuổi (chuối), nghe (quýt), na (na), pục van (bưởi ngọt)…
10. Các loại bánh kẹo:…
11. Các loại chụp (nộm):
Chụp phắc chiệu (rau bướm), nó (măng)…
12. Nó xổm (măng chua)
Nó héo (măng khô chua)
Nó hang (măng khô)
13. Các loại củ quả:
Mắk ứk (bí đỏ), mắk phặc (bí xanh).
14. Các loại hoa “đồ” chín ăn được:
Bók ban (hoa ban), ít ương, thúa (đỗ), tong tay, hởng, nôm nẹ, pip, ứk, khạnh…
15. Các loại gỏi: Cỏi năng (da) cỏi pa (cá), cỏi nhứa (thịt), cỏi xổm (chua), cỏi khôm (đắng)…
16. Năm pịa, nặm bi (mật).
17. Kăm cắp (ghém):
* Các loại ghém rau thơm:
Hom kim (húng), hon xa au, hon pẻn, hon chỉ, hon kip (tỏi).
18. Căm nặm (phần để các món uống):
: Lảu xá chúp (rượu cần mút)
: Lẩu xiêu (rượu cất).
: Lẩu vạng (rượu cái).
Nặm ta (nước lã), lẩu xá nóng (rượu đóng chai), lẩu xong xiêu (cất 2 lần), nặm che (nước chè)…
Cơ cấu một bữa ăn (mâm cơm) thường phải có đủ 5 thứ (năm miếng) xếp thứ tự.
1. Căm khảu (về cơm)
2. Căm chảm (về chấm)
3. Căm kin (về món ăn)
4. Căm cắp (về món ghém)
5. Căm nặm (về món uống)
Khi sắp xếp mâm cơm: Đặt trước tiên là “đĩa muối ớt”  coi như đã có chủ nhà (mi chản hươn) tiếp theo là các món khác.
Do thích ăn  “xôi nếp thơm” nên cả hệ thống tiếp theo sau cơm (xôi) là các món thức ăn khô (trừ  rượu) mùa nào thức ấy.
Các món  ăn “đồ” (không luộc) nên ăn ngọt đậm (không nhạt)…

Bữa cơm Thái quả thật là độc đáo, hấp dẫn, ngon mà như đủ các vị thuốc thu lượm từ rừng núi rất bổ dưỡng cho cơ thể con người./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét