(Ghi
chép về bản cũ, mường xưa)
Bài
27:
Rượu
cần (lẩu
xá - rượu của người Xá “Khơ Mú”) là thứ rượu ủ men (không cất = lẩu xiêu).
*
Men lá gồm các thứ
quả bơ, mắk cái, củ riềng, lá trầu không, quả ớt…giã nhuyễn với gạo tấm, sau đó
nắm thành từng miếng tròn dẹt như bánh rán, đem ủ trong đống rơm, xếp từng lớp
đều nhau từ 15 - 20 ngày có mùi men bốc lên đem phơi, để gác bếp khô. Khi dùng
giã nhỏ rắc vào cơm rượu. Mỗi mẻ rượu cần 7 - 9 bánh.
*
Cái rượu: Vỏ sắn khô gọt ra ngâm suối 3 ngày đêm cho hết mùi bồ hóng
và độc tố ở sắn, vớt lên phơi khô trộn với trấu lẫn tấm đưa
lên “chõ” (dụng cụ đồ hấp, đồ cho chín, đổ ra mẹt để nguội đem men rắc trộn
đều, tiếp tục ủ bằng lá chuối hoặc lá rừng (bó nhum, bỏ cá) để rượu bốc men rổi
bỏ vào chum (ché) lấy lá chuối hoặc mảnh ny long bịt kín (để hở thì rượu sẽ bị
chua) - sau 25 - 30 ngày thì có thể dùng được, để càng lâu thì rượu càng đặc,
càng ngọt.
Ngoài
sắn khô, còn làm bằng ngô, ý dĩ, củ dong riềng, chuối, dừa, củ mài…
*VĂN
HÓA RƯỢU CẦN:
Rượu
cần (lẩu xá) còn có tên là lẩu kép (rượu trấu), lẩu pẳng (rượu ống),
lẩu co (rượu cây) rất đậm ngọt.
Rượu
Thái Sơn La: 1kg gạo + 2kg trấu + ½ lạng men. Ủ 5 - 7
ngày.
Khi
uống: Mở nắp, đổ nước lã sạch vào ngâm 1 phút cho ngấm, cắm cần vào
và đổ nước (sừng trâu) liên tục khi ta hút… uống đông vui: 1 hũ từ 10 - 12 bạn
bè coi như là anh em “lẩu khay cáy khả” (rượu mở là thịt gà…).
Khi
chum rượu lẩu xá đã mở là trống, khèn, cồng chiêng hòa theo các
điệu “khắp”, múa xòe dập dìu say sưa tới sáng.
Bên
hũ rượu cần là nơi hội tụ mọi cộng đồng mường bản, chân thành,
đoàn kết, bình đẳng, không phân biệt ai với ai.
* Lẩu
Xá chính hiệu:
Tháng
11/1993, Nguyễn Khôi tôi tháp tùng đoàn đại biểu Hội đồng dân tộc của Quốc hội
do B.S Y Ngông Niêk đăm (chủ tịch) làm trưởng đoàn sang thăm hữu nghị nước
CHDCND Lào. Ngày 25/2/1993 Đoàn Việt Nam lên vùng Lào Thâng, Lào Sủng ở tỉnh
Luông Phạ Bang giáp với Sơn La.
Ở
bên Lào: Người Lào Lùm (Thái) là ở vùng thấp, đông nhất. Thứ nhì là Lào
Thâng (rẻo giữa) chủ yếu là người Khơ Mú. Thứ 3 là Lào Sủng (Mèo, H’mông)
ở vùng cao.
“Xá”
là tên gọi miệt thị với người Khơ Mú của giới quý tộc Thái Sơn La xưa.
Thật
là dân dã: Trên một bãi đất rộng, các chum “lẩu xá” được bày
ra, khèn Hmông (khèn lên man điệu) cất lên các điệu múa Khơ Mú rất phong phú và
đặc sắc đan xen với các đợt hút rượu cần với kiểu uống 2 người đủ đầy 2 sừng
trâu (ống rót nước lã pha thêm vào chum rượu) - nước rượu râm ran cay ngọt
chảy từ cổ họng vào tới dạ dày làm bừng tỉnh cả người (đúng là một liều thuốc
tăng lực mạnh hơn cả “bò húc” của Thái Lan). Thật là vui như tết,
trong cuộc vui say đoàn kết, người người hòa đồng với nhau tưởng như không còn
phân biệt dân tộc, không còn Quốc gia, người với người là bạn, là đồng chí anh
em cùng chung cuộc sống thanh bình./.
Bài
28:
ĐƯỜNG LÊN TÂY BẮC
*Đường
lên Tây Bắc xa xôi
Nếp
nhà sàn thấp thoáng
* Đường
lên Tây Bắc quanh co
Tiếng
chim rừng đây đó…
(Nhạc
sỹ Văn An)
Có 3
đường lên Tây Bắc theo 3 nẻo:
- Nẻo
thông thường (năm 1963) đi từ bến Kim Liên (liền công viên Thống Nhất và hồ Bảy
mẫu) qua thị xã Hà Đông theo Quốc lộ 6…
- Đường
đi chiến dịch Điện Biên Phủ (1953 - 1954) đi từ
Yên Bái - Nghĩa Lộ qua đèo Lũng Lô sang Phù Yên…
- Đường
nhánh đi từ Hà Nội qua Hưng Hóa - Thanh Sơn (Phú Thọ) vượt đèo
Cón vào Phù Yên theo đường 13 qua Sông Đà.
*
Sau khi
qua bản Song Pe (xem vợ chồng A Phủ) sang đò bến Ta Khoa, lên đèo Chẹn, tới
chân đèo Chiềng Đông tụt xuống Cò Nòi (đường 6) lên TX Sơn La.
1.
NẺO QUỐC LỘ 6:
Quốc
lộ 6 đi từ Hà Nội - Sơn La - Điện Biên dài 504km, điểm đầu
là cầu sông Nhuệ (TX Hà Đông) là km số 0, điểm cuối là TX Mường Lay.
*Cầu
sông Nhuệ - TX Hòa Bình 63km (đêm ngủ ở Hòa Bình hay chợ Bờ)
- ở đoạn quốc lộ 6 này có đài kỷ niệm anh hùng Cù Chính Lan đánh
xe tăng Pháp năm (1953).
- Từ cây
số 65 TX Hòa Bình đến TX Sơn La 256Km
-
Sơn La - Tuần
Giáo 56km
- Tuần
Giáo - Mường Lay 100km
Thời
Pháp (trước 1945) Quốc lộ 6 chỉ hết địa phận tỉnh Hòa Bình, sang tới địa
phận Sơn La là đường 41 (xã Chiềng Yên): Khởi đầu cây số 0 là chỗ suối Rút đổ
vào sông Đà, đi một chặng tới cây số 22 (năm 1963) ô tô sáng đi từ Hòa Bình hay
chợ Bờ lên tới cây số 22 (Sơn La) là trạm Công an kiểm tra giấy tờ và nghỉ ăn
trưa, có cửa hàng mậu dịch Quốc doanh. Ăn trưa xong đi lên ngược dốc tới đỉnh
Đèo 46 (cây số 46) cao khoảng 1500m ngang núi Tam Đảo - Đây là bản Mèo (Hmông)
đỉnh núi sương mù, nước suối giữa tháng 4 dương lịch nhúng lạnh buốt tay; tại
đây cũng có 1 cửa hàng Mậu dịch Quốc doanh (vùng cao) nơi hội tụ dân bản đến
mua hàng gặp gỡ khá đông vui. Xe ô tô ca (giá 12đồng/ từ bến Kim Liên Hà Nội
lên tới Sơn La, cây số 302 km đầu cầu Trắng bắc trên suối Nậm La qua thị xã tới
bản Xẳng (xã Chiềng Xôm) chui qua gầm đèo Cao Pha đổ xuống Nậm Bú (xã Mường Bú
rồi tới Sông Đà chỗ bến Tạ Bú).
Từ đỉnh
đèo 46, xe ô tô xuống dốc một mạch suốt xã Lõng Luông (Mèo) tới
chân đèo là bản Hang Trùng (mường) cây số 58, rồi tới vườn Đào - cây
số 64 có cửa hàng Bưu điện, trụ sở Sư đoàn 335, 1 đội của nông trường Mộc Châu
(sau này thêm nông trường bò sữa Sao Đỏ ở cạnh đấy). Chợ Thảo Nguyên cùng Phố
Thảo Nguyên đông vui, thấy máy cày, máy kéo biểu tượng của Chủ nghĩa xã hội hồi
những năm 60 của thế kỷ 20 “anh đi khai phá miền Tây”, 4 giờ chiều xe tới thị
trấn huyện lỵ Mộc Châu đông vui. 1 bàn ăn thịnh soạn, mất độ 1đồng (0,3đồng/1kg
gạo) đủ bia rượu, thịt bò xào. Nhà trọ Quốc doanh đủ chăn đệm (đêm Mộc Châu mùa
hè cũng dưới 20oC).
Sáng
hôm sau, ăn phở 5 hào, xe ngược đi Yên Châu, tới cây số 82 là hết địa
phận nông trường Mộc Châu, xuống 1 cái đèo nhỏ vào đất Tú Nang, cứ thế xe đi 1
bên núi, 1 bên suối Sập, 11 giờ tới thị trấn Yên Châu nóng bức như mùa hè dưới
xuôi, chuối, muỗm, đường phên… bày đầy các “Quán” tự giác bên đường. Đến đoạn
suối có cầu đi vào thị trấn là thấy chị em tắm truồng ngập sâu dưới suối…
Cơm
trưa ở Yên Châu, xong vượt đèo Chiềng Đông xuống Cò Nòi, Hát
lót vượt dốc Mường Hồng vào khu sân bay Na Sản… khoảng 2 - 3 giờ chiều là
tới thị xã.
Thị xã
Sơn La hồi 1963 - 1965 các tòa nhà đang xây, lô nhà 2 tầng chân đồi Khau cả là
dành cho cơ quan, phía dưới đường Tô Hiệu là các dãy nhà cấp 4 cho cán bộ công
nhân viên. Thời đó cơ quan biên chế còn ít người (Ty Nông nghiệp tất cả có 21
người).
Thời đó
Quốc lộ 6 đi 1 xe/ 1 luồng, rải đá dăm, cấp phối - đi từ Hà Nội - Sơn La mất
2 ngày rưỡi (qua nẻo Suối Rút - chợ Bờ, nay đã là lòng hồ sông Đà), nay đi mất
có 6 tiếng đồng hồ.
2.
NẺO QUA ĐÈO LỦNG LÔ
“Cho
tới đầu năm 1953, Quốc lộ 13A (tức Quốc lộ 37 ngay nay) mới được khởi công để
cho Tướng Giáp đưa quân lên đánh Pháp, ở Nà Sản…, con đường nối từ ngã 3 Vực Tuần
qua Thượng Bằng La (Văn Chấn, Yên Bái) lên đèo Lũng Lô”.
“Đèo
Lũng Lô anh hò chị hát”
(Thơ Tố Hữu)
Từ đèo
Lũng Lô qua Phù Yên, qua Sông Đà vượt đèo Chẹn ra Cò Noi (Sơn
La). Từ ấy mới thực sự có con đường nối từ chiến khu Việt Bắc sang
Tây Bắc và cũng là con đường huyết mạch của từng đoàn từng đoàn bộ đội - dân
công lên đánh Pháp giải phóng Lai Châu - Điện Biên Phủ (1953 - 1954) làm chấn động
địa cầu. “Đường lên Tây Bắc quanh co” chính là đi lối này.
“Lũng
Lô”, tên bản địa là “Trảng nương hoang giữa rừng cây cổ thụ”. Đèo Lũng Lô
ngăn cách hai tỉnh Yên Bái - Sơn La, đỉnh đèo ngợp trong sương mù bao phủ, bốn
mùa ẩm ướt, nước chảy qua đường đá gồ ghề. Trước ngày hình thành đường 13A,
Lũng Lô chỉ là một con đường mòn men theo triền núi, rất ít người qua lại. Thi
thoảng mới có dân bản Cơi (Phù Yên) và bản Dạ (Văn Chấn) qua lại thăm nhau hoặc
đi săn muông thú, vào rừng đèo lấy song mây, đào củ mài trong những ngày giáp hạt.
Người Mường ở vùng này gọi là đèo Lũng Lỗ (lỗ thủng) với hình tượng là trên đỉnh
đèo mây mù trắng, nhìn từ chân đèo lên đỉnh xuyên qua một lối mòn dưới tán cây
cổ thụ thì thấy như một cái lỗ thủng trên trời cao? Cũng có ý kiến giải thích
“lũng” là thung lũng, “lô” là cây lau? Trước ngày giải phóng Tây Bắc (1953)
Lũng Lô thuộc khu du kích Mường Thải (Phù Yên) đánh quân Pháp rất kiên cường.
Giặc Pháp và tay sai ở Phù Yên sợ không dám bén mảng đến. (theo Đinh Chanh -
văn nghệ Sơn La “suối reo” số 6/2004).
3. Nẻo
qua đèo Cón giữa Thanh Sơn (Phú Thọ) và Phù Yên (Sơn La) là thêm 1 đường chính
phụ trợ cho Quốc lộ 6.
Quốc lộ
6 tới địa điểm Cò Nòi (co là cây, Noi, có lẽ đọc chệch “loi” là mậy loi, một loại
nứa nhỏ bằng ngón tay dùng đan phên liếp thưng nhà)…đây là “rốn bom” do tàu bay
B26 của Pháp dội bom chặn đường quân ta lên Điện Biên, ở đấy có tượng đài TNXP.
Con
đường 13A (nay là đường 37) từ đèo Lũng Lô qua rừng ông Giáp ra Cò
Nòi xưa qua đoạn núi Pu chạng hảy (dốc voi khóc) vượt hẻm dốc đá Suối Cao (Bắc
Yên) ra bến Tạ Khoa (nay đã có cầu) qua pha Sông Đà lên đèo chẹn.
4,
Đường lên Tây Bắc thời Lê Trịnh : Theo Lê Qúy Đôn trong “Kiến
văn tiểu lục” thì một dải sông Đà có 8 châu (huyện).
8
châu thuộc Phủ Gia Hưng là Phù Yên, Mộc Châu, Đà Bắc, Thuận
Châu, Mai Sơn, Mai Châu, Sơn La và An Châu.
3
châu thuộc phủ Điện Biên là Ninh Biên, Lai Châu và Tuần Giáo.
3
châu thuộc phủ An Tây là Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai và Luân Châu. Đường đi
từ Thăng Long lên thì Châu Phù Hoa (nay là Phù Yên) đi mất 6 ngày; Châu Mộc; 8
ngày; châu Mai Sơn; 10 ngày; châu Mai Sơn có các động (Mường Bản) là Trình ban
(Chiềng Ban), Trình chanh (Mường chanh).
-
Châu Sơn La đi mất 12 ngày, có một xứ gọi là “hang cá” (chính
là bản Bó Cá có cầu đá ở TX Sơn La), có mỏ yết Ong (Hiếu Chai - Mường
Chai).
-
Lên Châu Thuận (Mường Muổi) hết 12 ngày.
-
Châu Quỳnh Nhai, thổ âm gọi là Mường Chăn (Mường Chiên) đi lên mất 20
ngày có mỏ đồng Vạn Bằng, Vạn Ma.
-
Lai Châu, thồ âm là Mường Lễ (Mường Lay) đi đường 22 ngày
phong tục sân vật giống như Quỳnh Nhai (cũng là người Thái trắng).
-
Châu Tuần Giáo: Thổ âm là Mường Quay (Mường Quài = con trâu) đi mất 18 ngày.
-
Chây Tuy Phụ: Thổ âm là Mường Tè
Hồ Chí
Minh viết:
Đi
đường mới thấy gian lao
Núi
cao rồi lại núi cao trập trùng
“Đường
lên Tây Bắc” quả thật là như vậy.
7/3/2012
- NK
Bài
29:
Ở
Tây Nguyên, bên Lào có cây Kơnia đặc thù, đã đi vào lời ca tiếng hát, như một
biểu tượng của quê hương xứ sở… thì ở vùng Yên Châu - Mường La (Sơn La) có
cây Mắc Chai, mà hầu như khắp nước Việt Nam này không đầu có? Đó là một
loại cây thuộc họ nhà Muỗm - Xoài, nhưng cao to vượt tầm: Cao vài ba chục mét,
gốc hai ba người ôm không xuể, đặc biệt là tán tròn như một quả cầu xanh (lá nhỏ
như lá cây Quéo), thường là cao vượt lên trên mọi cây cổ thụ khác, nên trên đường
đi Quốc lộ 6 hay bề Bản, từ xa hàng cây số, ta đã trông thấy cái tán quả cầu
xanh Mắc Chai in lừng lững trên nền trời xanh cùng bóng núi tím thẫm cao vời vợi
như đang chờ đón đợi ta về…
Ở
cây Mắc Chai như một điềm nghịch lý của tạo hóa: Cây thì cao to vật vã nhưng quả
thì lại bé như quả trứng gà (có khác gì một bà mẹ to béo đẫy đà hết cỡ lại đẻ
ra một chú bé tí hon?) - Quả Mắc Chai bé, hạt to chiếm tới 4/5 thể tích quả (thật
là vô duyên, ăn chẳng bỏ) nhưng bù lại: Khi quả chín, chỉ một làn gió là nghe
tiếng “lộp bộp”, một loạt quả tự rụng, ta nhặt lên bóp vân vê (như trước khi ăn
quả vú sữa Miền Nam) rồi cắn đủ có một lỗ, rồi hút lấy nước cùi (bột vàng óng)
thì ôi thôi rồi: Thơm ngon vượt cả nước quả xoài đóng hộp ở sân bay Mun Bai
(bên Ấn Độ) mà Nguyễn Khôi tôi có lần Transis (ghé qua) được thưởng thức thơm
mát đến lịm người dưới cái nắng 45oc cùng những người dân bản địa da
đen như bồ hóng.
Thời
chiến tranh, ai từ Thuận Châu về thị xã, lên tới đỉnh đèo
Sơn La, dựng xe đạp vào gốc Mắc Chai, trải tấm Nylông, giở cơm nắm ra ăn,
tu một hơi nước bi đông rồi ngả lưng đánh giấc. Vòm cây Mắc Chai như một cái lọng
xanh vừa che mát, vừa che kín mắt bọn giặc trời Mỹ… thế là cứ yên chí nằm nghe
chim hót, lũ sóc chuyền cành kiếm quả rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết nữa…
và cây Mắc Chai như Mẹ hiền che chở ru cho ta một giấc ngủ bình yên để rồi (lấy
sức) lại lên đường ra trận…
Cây
Mắc Chai như ai đứng đợi
Đón
ta về ngọt lịm giấc trưa.
Bài 30:
* Chua chụ xướng chua bók ban
Pan Péng xướng pan bók khẳm
(Đời
son trẻ như hoa ban
Đời
thương như hoa khẳm).
Hoa
Ban Tây Bắc là biểu tượng, là tín hiệu nghệ thuật đặc thù
biểu hiện bản sắc văn hóa của thiên nhiên và con người Sơn La - Tây Bắc.
Nó là
loài hòa kỳ diệu gắn bó mật thiết giữa thiên nhiên với đời sống
con người… Nó là món ăn ngon (hoa ngọt), là hình tượng thơ tượng trưng cho những
ước mơ, tâm hồn trẻ trung (mùa xuân) tính cách cao đẹp, mối tình thủy chung của
con người.
Tết
xong: Hoa đào đỏ, hoa mơ, hoa mận nở trắng các lối đi khắp các bản mường,
và gió lào ù ù bốc lửa, trời hanh khô đến khó chịu - ngày 4 mùa: Sớm xuân,
trưa hè, chiều thu, đêm đông, đang mùa đốt nương, khát khao cháy bỏng trời đất
và lòng người thì đột nhiên qua một đêm tất cả các cánh rừng đều trắng ngát hoa
Ban - Toàn bộ cây là hoa (lá mới nhú) cây đơm hoa, mát thơm dịu ngọt…
Thật
là cái đẹp, cái ngọt, cái mát trời cho giữa ngày tháng 3 nắng nóng
ngột ngạt.
“Mùa
hoa
Người
đàn bà
Mặt đỏ
phừng
Đủ sức
vác ông chồng
Chạy
phăm phăm lên núi.
Mùa
hoa
Người
đàn ông
Mệt
như chiếc áo rũ
Vừa
vịn rào vừa ngái ngủ”
-
Y Phương.
Đó
là mùa động tình (tìm bạn) của con Nai, con hoẵng, mùa của ân ái lứa
đôi.
Cây
Ban thuộc họ Mưồng, thân gỗ “bộp” cao 5 - 6 mét, hoa trắng hay tím 5 cánh
bướm. Trong 5 cánh có 1 cách chủ (cánh chúa): Tựa như 4 cách kia nhưng trên cái
nền trắng hồng hoặc tím phớt của cả bông hoa, cánh chúa có thêm những kẻ xanh,
tím, hồng (màu sắc cầu vồng) mềm mại trải dọc theo cánh hoa tạo thành những đường
nét hình khối rất lạ mắt. Nếu nhìn xa thì mỗi bông hoa Ban giống như một nàng
Bướm mà cánh chúa và nhị hoa là thân và vòi bướm, 4 cánh còn lại là 4 cánh bướm,
cả chùm hoa Ban là cả một đàn bướm bay rập rờn trong gió xuân nhẹ nhàng - cánh
Ban chúa tạo hồn cho sắc hoa là vậy.
Cây
Ban ở Sơn La thường mọc trong các phiêng đá lồi đầu, những triền núi khô
cằn mà cây vẫn phát triển xanh tốt.
Ở
nhiều nơi như Lào, Malaysia, Nam Ninh (Quảng Tây - Trung Quốc) không
thiếu cây Ban nhưng khi nở hoa thì cây vẫn xanh, hoa thưa nên không độc đáo như
rừng Ban Tây Bắc Việt Nam. Tất cả cành trơ khẳng khiu qua một mùa đông sương muối
(dưới 0oc về đêm), sang xuân là “Ban pún” lấm tấm mầm non của nụ và
lộc. Chúng đang chờ những cơn mưa đầu mùa (để gieo ngô, trồng sắn) để hút lấy
cái hơi ẩm của trời đất, hút lấy hơi Xuân ấm nóng (của gió Lào) mà nở bung.
“Và
em ơi, một đêm xuân
Hoa
Ban bừng nở
tần
ngần
chào
em ”.
“Nghĩ đến
em đi đường sông chỉ thấy đá vồng chỉ thấy hoa Đào, hoa Ban, hoa Vông rụng đầy
dòng trôi…”
Lúc
hoa Ban tàn để lại quả non trong đám lá xanh mới nảy mầm lúc cuối
mùa xuân, báo hiệu mùa làm nương rẫy mới.
Hoa Ban tàn anh hãy tra ngô
Hoa Ban làm quả anh hãy dọn
nương tra lúa.
Cây Ban là cây “chỉ thị”: Đất nào cằn,
cạn kiệt màu mỡ là xuất hiện cây Ban.
Kinh nghiệm dân gian Thái: Nhìn Ban
nở để dự đoán thời tiết mùa màng trong năm “năm nào vào đúng tuần
cữ Ban nở rộ đều một lượt trắng ngát cả rừng, hai bên bờ suối là năm ấy mưa
không dai quá, nắng không dữ, ít lũ lụt, ít hạn hán (mưa thuận gió hòa) mùa
màng tươi tốt thu hoạch lúa ngô đầy bồ.
Về món rau mùa khô (cuối xuân) thì
hoa Ban cả một rừng, dân bản tha hồ đi hái về “đồ” lên thay rau, phơi khô trữ
ăn dần, hoa Ban làm nộm. Ăn hoa Ban như ăn 1 vị thuốc (trị kiết lỵ), giải nhiệt,
lợi sữa, giải độc.
Hạt Ban già rang lên ăn
thơm ngậy.
Rễ Ban đỏ chữa dạ dày,
gan. Lá ban nấu để rửa vết thương, sát trùng.
Song hau hặc căn báu mau Ban bók
Báu hên mua bók Ban xia
Báu tính bươn tính pi
Sướng pi cánh nọng hau hặc nhám lằng
(Đôi ta yêu nhau không tính mùa Ban
nở
Không thấy ngày Ban tàn
Không tính tháng, không tính năm
Mãi mãi như mùa
ban đầu đôi ta yêu nhau).
Ngoài hoa Ban, ở Sơn La - Tây Bắc
dọc theo các khe suối còn có cây hoa Mạ (hoa ngựa) gắn với sự tích “bó mạ khun
chương”: Kể về con ngựa của anh hùng Lạn Chượng khi chết hóa thành bông hoa Mạ,
xuân đến nở rực vàng bên bờ suối, đón các cô gái chàng trai đến gặp gỡ tự tình
nơi bến tắm bản quê./.
8/3/2012 - NK
Bài 31:
* Người Thái - mơ hồ
trong tên gọi? Gốc gác ở Trung Quốc (trong số 56 dân tộc; với 1,16 triệu người),
tên xưa gọi “Thái Lặc” (Tai Lue) - “Dai” (Thái tây song bản nạp) 2 ngôn ngữ là
Tày Pong và Thái Đam (Tày đăm). Ngoài ra là tiếng Tráng (choang).
Thư tịch cổ gọi Điền
Việt, Kim Xì, Hắc Xỉ, Hoa Man, Bạch Y, Bạch Di, Bách Si, Bá Di…
Thời Hán quận Ích
Châu là của người Thái (xem thất cầm Mạnh Hoạch - Tam Quốc Chí)? Rồi di cư theo
dọc sông Lan Thương (Mê Kông) tới Myanma, Lào, Thái Lan, theo sông Hồng xuống
Việt Nam.
* Người Thái ở Việt Nam:
Còn được gọi là Tày Khao
(trắng) đăm
(đen) Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), hàng Tổng (Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà Bắc.
Nguồn gốc: Bách Việt, gồm với nhóm
Choang (tráng), Tày, Nùng.
Di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 7 -
13, trung tâm là Mường Theng (Điện Biên), từ đây họ tỏa đi Lào, Thái Lan, bang
Shan (Myanma), đông bắc Ấn Độ cũng như ở Nam Việt Nam? (gốc đi từ - xíp xoong
păn na).
Ở Việt Nam: Đời Lý 1067 có Ngưu
Hống (rắn hổ mang - tô tem), chỉ người Thái vào triều Cống, sau 1280 dưới sự
cai quản của triều Trần.
Các thủ lĩnh Thái được gọi
là “Phụ đạo”.
- Họ Đèo cai quản các Châu Lai
(lay), chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nhan.
- Họ Cầm cai trị Châu
Phù Hoa (Phù Yên), Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Châu Luân, Châu Ninh
Biên.
- Họ Xa cai quản Châu Mộc
- Họ Hà cai
quản Châu Mai
- Họ Bạc ở Châu
Thuận
- Họ
Hoàng ở Châu Việt (Mường Vạt - Yên Châu).
Dân
số: 2009 có 1.550.423 người Thái (thứ 3 ở Việt Nam) có mặt
khắp cả nước. (Sơn La có 572.441 người chiếm 53,2% toàn tỉnh); Nghệ An
295,132 người, Thanh Hóa có 225,336 người; Điện Biên 186,270 người, Lai
Châu 119,803 người, Yên Bái 53,104 người, Hòa Bình 31,386 người, Đắc Lắk 17,135
người, Đắk Nông 10,311 người.
* Họ của
người Thái: Bạc, Bế, Bua, Bum, Cà (Hà, Kha, Mài, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu,
Đèo, Điều, Điêu, Hà, Hoàng, Khằm, Leo, Lèo, Lềm, (Lâm, Lịm) Lý, Lò, (Lô,
La), Lộc (Lục), Lự, Lường, (Lương), Manh, Mè, Nam, Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật,
Panh, Pha, Phia, phìa, Quàng (Hoàng, Vàng), Quảng, Sầm, Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo,
Tòng (Toòng), Vang, Vi (Vì) Xa (Sa), Xin.
-
Ngôn ngữ: Nhóm ngôn ngữ gốc Thái của hệ ngôn ngữ Thái - Kađai.
-
Kinh tế: Nông nghiệp (lúa nước, lúa nếp), các thứ hoa màu, chăn nuôi trâu, bò,
lợn, gà, dê, cá… đan lát, dệt thổ cẩm, số nơi làm đồ gồm.
-
Gia đình: Phụ hệ, vợ theo họ chồng, có tục ở rể.
Hôn
nhân một vợ một chồng.
- Tục
lệ ma chay: Chết là về Mường trời tiếp tục sống
ở thế giới đó.
-
Văn hóa: Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết khá
phong phú, có chữ viết riêng, có nhiều truyện thơ (sống chụ son sao, khum lú -
Nàng ủa, tản chụ xiết xướng…).
-
Nhà cửa: Người Thái đen có nhà nóc hình mai rùa, chỏm đẩu
đốc có khau cút (hoa nhà) rất độc đáo.
-
Trang phục: Đẹp, nhiều kiểu.
Nam
giống với người Tày, Nùng, Kinh.
Nữ:
Thái đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối (chàm, đen) cổ áo khác
Thái trắng là loại cổ tròn đứng.
Đầu
đội khăn Piêu thêu hoa văn theo môtyp từng mường. Váy ống
(kín) giống Thái trắng, màu đen, cạp gấu váy phía trong nẹp đỏ.
Khi
lấy chồng tóc búi ngược lên đỉnh đầu “tằng cẩu” (Thái trắng vẫn búi
tóc sau gáy).
CÔNG
TRÌNH KIẾN TRÚC
Người
thái sang ở Sơn La đến nay đã trên 10 thế kỷ nhưng không thấy
có dấu vết gì về
các công trình kiến trúc gạch, đá…? Có lẽ chỉ có một cầu đá bản Cá bắc qua suối
Nậm Cá chảy ra Nậm La ở đầu thị xã ra phía Chiềng Xôm? Và một số khu nhà xây của
tỉnh trưởng Sơn La Bạc Cầm Qúy, (sau này trụ sở huyện ủy Thuận Châu, rồi bị bom
Mỹ phá hủy hồi 1966 - 1973)… còn không hề thấy Đình, Chùa, đến Miếu gì ở Sơn La
đất cũ?
Người
Thái ở Sơn La không theo Tôn Giáo nào, chỉ thờ “Phi” (ma tưởng
tượng) người chết làm lễ chia của “bỏ mả” là xong, không có giỗ chạp hàng năm,
Tang ma có lễ gọi hồn, dẫn hồn về mường trời, xong coi là xong.
Nhà ở người
Thái: hầu hết là gianh, tre, gỗ, nứa - đục đẽo đơn giản, đa số là không
ngăn buồng (2 loài: cột chôn và cột kê) hoàn toàn là vật liệu tự nhiên sẵn có ở
rừng núi bản địa.
.Người
Thái ở Sơn La: Có 4 ngành (chi): tới 2009 có 58 vạn người.
-Thái
trắng (Tày đón) cư trú ở Mường Chiên (Quỳnh Nhai), Ngọc Chiến (Mường La).
-Thái đen
(Tày đăm) ở Thuận Châu, Mường La, Vai Sơn, Yên Châu, Sông Mã. Đặc biệt
Thái đen ở Yên Châu lại khác hẳn so với ở vùng trên cả về tiếng nói, ăn mặc,
phong cách, tập tuc.
Chi
(ngành) ở Mộc Châu, họ tự gọi là Thái đỏ (Tay đeng); cũng một chi ấy. Ở Bắc
Yên, Phù Yên lại tự xưng là Tay đón (Thái trắng) ở xã Huy Bắc tự gọi là Tay
khoong (người khoong) - “khoong” là một địa danh miền Tây Thanh Hóa (nơi họ từng
ở ngày xưa). Nhóm Thái ở Pác Ngà (Bắc Yên) tự gọi là Tay Eng (người Eng)
“Eng” cũng là địa danh ở Thanh Hóa.
Tay
đeng (Thái đỏ Mộc Châu) gốc gác từ Vân Nam qua Lào: từ Luông Pha
Bang qua Mường Xáng; Mường Xăm, qua rừng Mường Xén vào đất giao chỉ (đời
Lý) thuộc Nghệ An. Từ Mường xén họ tỏa ra Thanh Hóa qua Hồi Xuân, La Hán vào Mường
Mun (Nai Châu) rồi lên Mộc Châu Sơn La.
Cuộc
di cư này do chúa đất họ Vi Khăm (Vi Vàng dẫn đầu vùng em trai
là Vi Ngân (vi bạc): Vi Ngân ở lại M ai Châu, người anh Vi Khăm ngược lên Mường
Moóc (Mường Xang - Mộc Châu).
Do
đi tới nơi đất mới nên: Ở Mai Châu có bản Lác (bản lạ). Tòng Đậu
nguyên âm là Toong Táu (Toong = lá, táu là cây gỗ Táu - cây to, lá to dùng để
gói muối, lót xôi khi cúng lễ. Đồng Bảng nguyên âm là “Động Páng” (động:
rừng già, rừng cây cổ thụ, Páng là cây chuối rừng, nay ta qua Đồng Bảng vẫn thấy
nhiều cây chuối rừng vì đất quanh năm ẩm ướt.
Họ “Vi
Khăm” sau đổi thành họ Xa (Sa) có 2 truyền thuyết:
-
Chúa Vi Khăm vào triều đình (nhà Lê Trịnh) qua cổng thành thì Quan coi cổng
thành Thăng Long vấn danh, hỏi họ tên gì ở đàu tới? Do ngôn ngữ bất đồng nên
Chúa Vi Khăm trả lời sai ý đi “Tôi là ở xa đến” - Quan nghe ú ớ ghi “Chúa đất họ
Xa - nay do chữ nghĩa chính tả lung tung ghi xa = Sa”?
Thuyết
2: Sau khi Chúa đất Vi Khăm qua đời - anh em trong nội tộc tranh giành… người
anh thắng thế làm chúa, em phải xuống làm thường dân lấy họ “Vi Văn…” Người anh
vì đã thề độc “cụ chí pái sá xịa mưng, mưng nha Pay năm hó phụ” (Tao sẽ từ mày,
cạch từ đây không chung Họ nữa).
Từ đấy
từ (Xá = Sa) thành họ chính của dòng Vi Khăm. Mãi về sau gọi chệch
cho nhẹ đi Sá thành Sa… nhưng khi khấn cúng bái vẫn phải xưng là “Chúm mú Vi
Khăm ” - (dòng họ Vi Khăm) cho đến ngày nay.
*
Quan hệ xã hội Thái:
Cơ cấu
xã hội cổ truyền là Bản mường hay chế độ Phìa Tạo Tông Tộc gọi
là “Đằm”. Mỗi người có 3 quan hệ trọng yếu:
- Ải
noọng: Nam giới 4 đời trong gia tộc (bên nội):
-
Nhinh Sao: Tất cả thành viên nữ…
-
Lúng ta: Tất cả thành viên Nam thuộc họ vợ (bên ngoại).
Bài
32:
Với
người Thái: chia vũ trụ thành 3 tầng theo một
trục dọc. Trên cùng là Mường Phạ (Mường Trời), ở giữa là Mường Lùm (mường người
thấp) và dưới cùng nữa là lòng đất là Mường bọoc đai (Mường của những người lùn
sống trong lòng đất). Còn gọi Mường Pha là Mường Bôn nhằm chỉ thế giới ở trên đỉnh
đầu - ngoài ra còn gọi là Mường Then (Mường của các Then = thượng đế, thần
linh). Người Thái ở Qùy Châu: “theo quan niệm hữu thức của người Thái thì Mường
Phạ là nơi cao nhất của vũ trụ, đó là một khoảng rộng màu xanh, hình tròn úp
lên mặt đất. Còn đất là một tấm rộng vô hạn mà trời chỉ úp được một phần. Tầng
trên cùng là tầng riêng của các thế lực siêu nhiên, đó là một thế giới hỗn
mang, chưa định hình, không rõ ràng, rất ít ảnh hưởng tới cuộc sống của con người.
Xuống
thấp hơn là Mường Then của các vị thần linh, còn tổ tiên của người
Thái thì ở một cỏi riêng khác: Nhóm Tày Thanh gọi là “đẳm chảo”, còn nhóm
Tày Dọ (đều ở Nghệ An) thì gọi là “Đẳm Pang”. “Đẳm Chảo”là nơi trú ngụ của người
chết theo các dòng họ khác nhau, rồi lại còn phân đẳng cấp:Tầng lớp trên là cho
các họ Lò Căm, Hủn Vi, Mừn Quang. Tầng lớp mới là các họ bình dân như Quản
Quang, Quản Lự… (có 2 “đăm”:bậc giữa và bậc cuối).
Theo
Cầm Trọng thì
người Thái đen Sơn La cũng na ná là “đẳm hướn luông” (quý tộc) và “đẳm hướn nọi”cho
thường dân.
Mường
Then là hình ảnh thu nhỏ của thế giới trần gian: Cùng lao động sản
xuất, đó là một xã hội giàu có trù phú, ruộng đồng quanh
năm tươi tốt, dưới ao cá lội từng đàn, đèn thắp sáng quanh năm. (như thiên đường),
vị thần chủ là “Then Luông” (Then lớn) - thường gọi là Pò Then: Cai quản cả thế
giới.
Dưới
Pò Then là một hệ thống các vị thần giúp việc như Then Ná,
Then Ảo, Then Thao Ai, Then Thư ai, quản lý các dòng họ Quý tộc, thấp hơn là
Châu Cuống Cảng (họ ở bậc trung) do các Then Thư Noọng cai quản trông coi
các họ bình dân… tuy vậy có những dòng họ khác nhau nhưng lại chung 1 Then Ná.
Ở
Then Ná còn có các Mẹ Náng (bà mụ) là vợ các Then, làm nhiệm vụ Me bẩu (đúc nặn
người cho đầu thai xuống trần gian), Me Náng nặn rồi chỉ sang Then Bẩu (khuôn),
rồi qua Then Chằng để cân đo số mệnh rồi rơi xuống Then Chẳng cân đo xong rồi
tiếp xuống Then Bắc để đi đầu thai…
Trên
Then Ná còn có Mẹ Xuổn Ném và Pù Noọng Pả trông
coi vườn mệnh và ao cá vía để giữ cho mệnh luôn được bình yên, trên
Then Ná có một vườn mệnh trong đó có một máng nước chảy vào ao nuôi cá mệnh (Pa
Vẳn) mỗi con tượng trưng cho một mệnh người dưới trần. Nếu nước chảy đều thì hồn
khỏe mạnh, con người được bình an, nước không chảy thì cá chết, mệnh người cũng
hết.
Chính
vì vậy: Khi con người lên cao tuổi thường tổ chức lễ “Tum
bẩư nho bủn” (lau chài sửa lại vườn mệnh, đặt lại máng nước), để tăng tinh lực
và sức sống cho con người.
Ở Mường
Then còn có nhiều vị thần linh khác: “Then Khúm” trông coi việc thiện,
Then Tàng lo làm ra con người và loài vật, Then Bấu lo đúc người, Then Khạt
(Then Chằng) đo số mệnh,… Then Bắc theo dõi sổ số mệnh, Then Kôm quan sát bốn
phương trời, Then Cáo quản lý phạm nhân, Then Thùm coi lũ lụt, Then Lốm tạo mưa
gió, Then Ú, Then Đá lo xử phạt sát sinh. Tầng cuối cùng của Mường Phạ là nơi ở
của các hồn người chết (chết không bình thường) thì phải vào “Mường phi tai sút
đuôn” ở gần Mường Lùm - Còn bình thường thì vào Đẳm Chào.
Trạm
dừng chân đầu tiên do Mo dẫn hồn là Pặc Phắng Kén, nơi trời và
trần gian gặp nhau là Táng Cộp “Táng cộp nừng hả phiền” - Chỗ gặp nhau (như kiểu
chợ âm phủ) đan xen như cái nan xe kéo sợi, ở đây là trạm tiếp đón nên có nhiều
xôi thịt do người trần cúng lễ. Do đó những hồn nghèo đói, chết không bình thường
kéo tới đây kiếm ăn - vì thế người Thái rất sợ phải qua nơi này; khi đói loại
ma này còn xuống cả Mường Lùm quấy nhiễu.
MƯỜNG
NGƯỜI
Mường
Lùm: Qua tụt khỏi Mường Phạ, xuống dưới là Mường Lùm (cõi người)
là mường ở dưới sàn trời “mường tớ cọng lùm phạ”.
Lùm
là thấp, thung lũng - Còn gọi Mường Piếng (bằng phẳng) = mường
bằng phẳng ở dưới gầm mường trời là mường có thật trong vũ trụ luận Thái, đây
là thế giới của con người khác biệt về bản chất so với Mường Phạ - Mường Phạ là
cõi hư, tâm linh, còn Mường Lùm là cõi thực của con người và các loài vật, là
các bản mường của nhiều tộc người (kể cả Kinh, Lào…) và “dân số” của các loại
Mường (Phạ, Lùm) bao gồm cả các thế lực siêu nhiên khác, kể cả ma quỷ. Ma quỷ
đi lang thang ở các Mường Phi, người thì ở các Mường Côn (có phi pú ở núi cao,
phi pá ở mường sâu, phi ngược ở vùng nước xoáy cùng cõi Mường Lùm do con người
làm chủ thể).
MƯỜNG
BOỌC ĐAI
Là “Mường
trong lòng đất” của loại người tí hon “Táy boọc đai” đây
là ở Quỳ Châu (Nghệ An), còn phía Sơn La - Tây Bắc không có khái niệm này. Đó
là thứ “phi đóng kín” hay “phi dóc dách”.
“Cờ
boọc đai” là cái ống nhỏ cuốn dùng tơ lấy ra từ kén tằm (cái suốt) - Boọc còn
có nghĩa là “hoa”, đó là nụ tơ hoa biểu tượng của lũ người tí hon sống dưới
lòng đất, đứng đầu là “vua hoa tơ” (Pủa boọc đai).
“Phi”
với người Thái là gồm cả thần thánh, hồn người chết và cả
hồn, vía người đang sống - “Phi” là tín ngưỡng thờ vật hinh, một thứ sơ khai của
Tôn giáo.
Linh
hồn người sống là “phi vẳn”, ở người chết là “phi bướn”, với các thần linh
là “phi then”, các tổ sư nghề Mo (phi môn, phi một) rồi phi bản, phi mường, phi
pú, phi huổi, phi pá…
Thế giới
của Phi có ảnh hưởng rất lớn tới thế giới thực của con
người (can thiệp, phù hộ) - do đó phải cúng bái cầu khẩn…
*
* *
Theo
Hoàng Nó (Sơn La) thì:
Quan
niệm về trời đó là Mường Phạ, Mường Bôn hay Mường Then.
Có 11 Then gốc gọi là “Then ngồi chõng” (Then năng chóng) và 22
Then anh em (Then Pi Noong), mỗi vị Then là một đấng “sáng tạo” tạo mưa, gió, nắng
hạn, lụt…
11 Then
gốc, đáng kể là Then Luông (cụ Then già Pú Then Thẩu) hay chủ Tum Vang (như Ngọc
Hoàng).
Hai
là “Then chăng tê ba” - chữ “tê ba” gốc chữ Pali -
Sancrít thì Têbra nghiã là “cõi trời” - hư vô ngự trên đỉnh Pha Bôn điều khiển
đúc ra người… Ba là “Then Ban” tạo ra họa phúc, duyên phận, sang giàu…
* Tục
lệ cúng Then: Có 3 lễ chính:
1.
Căm xeng: Báo ngày kiêng cấm
2. Xên kẻ:
Cúng giải hạn
3.
Xên hươn: Cúng nhà tức tổ tiên
Tháng giêng
Tạo kiêng kỹ
Tháng
hai Tạo căm xeng
*
Đêm của ngày kiêng cấm: Mỗi nhà lấy một bó cỏ gianh, bó lạt, một con
dao buộc vào đòn gánh - tượng trưng để phi tổ tiên đem lên sửa chữa nhà cho
Then. Đầu đòn gánh treo một túi xôi, gói thịt gà luộc để cho tổ tiên ăn - Đặc
biệt bắt 1 con dế mèn đực bỏ vào giỏ để đêm chúng gáy - Dế Mèn sinh nở vào
tháng 7, nó tượng trưng 1 con trâu để tổ tiên dắt lên cày bừa ruộng nhà Then.
Còn có việc: Lấy 1 tổ hoang rỗng của ong bò vẽ treo lên mái nhà để báo hiệu nhà
tôi đã thực hiện đầy đủ cúng căm xeng.
*
Xên kẻ: Cúng đầu tháng 2, cụ tổ phải lên chầu Then phục dịch.
Làm ở gian giữa nhà có đầu trâu hay đầu gà, phía sau bà Một ngồi, phía trước
lót vải trắng đổ gạo nếp thành một đống con, trên đặt 1 quả trứng gà luồn trong
1 vòng tay bạc, xung quanh mâm có đốt nến (sáp ong).
Đọc
hát bài Xên do bà Một gòi là “Á ní” mất 1 ngày đêm “lời thỉnh cầu
Then xá tội cho tổ tiên, cầu xin phúc lộc”.
*
Xên hươn còn gọi Ló Liêng tổ chức cúng nhà trong 3 tháng
(giêng, hai, ba) vào các ngày 7, 8, 9, âm lịch thành mộtchuỗi lễ hội đan xen
căm xeng - xên kẻ và xên hươn.
Xiên hươn
là mời tổ tiên về ăn cỗ cuối buổi cúng, ông mo phải cúng cơm rượu để đưa tiễn
đưa đi đưa lại để các vị về nơi Mường phi của các hồn.
Bài
32:
ÁO
NGẮN PHỤ NỮ THÁI
Trong
trang phục Thái thì cái áo ngắn (Xửa cỏm, xửa cóm) là độc đáo và
đặc sắc nổi bật ít dân tộc tạo hình được đẹp như thế.
Áo
phụ nữ Thái có nhiều kiểu dáng: Áo dài (xửa hí), áo ngắn dài tay có cúc bướm bạc (mắc
pém) gọi là xửa cỏm, áo ngắn hở nách là “xửa khép”…
“Xửa
cỏm” cổ truyền vừa là lễ phục vừa là thường phục, chỉ khác là về chất liệu vải
(vải thường hay tơ lụa, cát bá, sa tanh) khi đi lễ thì quàng thêm tấm thổ cẩm rộng
chừng ba bốn mươi phân hơi lệch chéo sang một bên, cách điệu một chút nghệ thuật
ở phần hạ bán thân, chỗ ngay thắt lưng “xửa eo” xuống.
Màu
sắc xửa cỏm tùy thị hiếu từng người có thể giữ nguyên màu vàng óng của tơ tằm
hay nhuộm hồng nhạt hoa đào, xanh thanh thiên, màu tím hay màu nõn chuối… đó là
những màu sắc được ưa chuộng (vải tự dệt) mua của người Kinh, người Hán…, còn
Váy thì màu đen, đen nhánh, váy lụa thì nhuộm chàm, tím thẫm rồi nhúng bùn ao
cho thật đen, thật mượt.
Xửa
cỏm may thân áo bó sát người, tay áo rộng, từ nách khâu hẹp dần
xuống. Gấu áo khâu lót thêm 2 lần vải, rộng chừng ba phân, khâu đột nịt
chặt ôm lấy vòng eo thắt đúng lưng long, phần trên đủ ôm lấy bộ ngực nở nang
khít khao gây ấn tượng. Mép gấu áo chỉ đủ chấm tới mép cạp váy, ngang thắt lưng
nên khi cử động (cúi xuống hở tí eo lưng, dướn mình hay ngã về phía sau thì hơi
hở nude (nuy) chỗ rốn khá gợi cảm. Trước ngực từ tới Rốn là 2 hàng cúc bạc “mắc
pém” như một đàn bướm bay dọc trên 2 nẹp tà áo.
Về số cúc
bướm (mắc pém) có 2 ý kiến:
1.
Hàng mắc pém với số lẻ 11 cặp được bố trí khéo léo
dày đặc lấp lánh trên ngực phụ nữ Thái - Số lẻ ở đây tượng trưng cho sự vận
động, phát triển đi lên (số chẵn tượng trưng cho sự yên tĩnh, không động, không
phát triển - những sản phẩm dùng cho phụ nữ đang sống thường thiết kế với
số lẻ, còn để cho thế giới hư vô “phi” là số chẵn).
Bậc
cầu thang để lên xuống nhà này hàng ngày có số lẻ, chỉ làm chẵn khi
đưa ma.
2.
Hai là: Màu nền tà áo không trùng với màu áo và cúc bạc. Số cúc
bao giờ cũng “số chẵn” với ý nghĩa đầy đặn, trọn vẹn dành cho
chồng con - khác với những số lẻ trong kiến trúc nhà ở, “lẻ” là sự sinh sôi
phát triển.
Hai
ý kiến trên đều có lý lẻ… Thực tế ở mỗi vùng, mỗi chi (ngành)
Thái có quan niệm khác nhau đôi chút - có lẽ là:
* Với
con gái chưa chồng thì Xửa Cỏm có số hàng Mắc phém số lẻ.
*
Khi có chồng con rồi thì xửa cỏm có số hàng cúc bướm số chẵn.
Cũng
có thể số hàng chẵn hay lẻ phụ thuộc vào chiều dài của
áo (áo người cao hay thấp) miễn sao cho nó cân đối hợp lý là đẹp.
Xửa
cỏm của phụ nữ Thái đen: Cổ áo cạp hai lần vải,
khâu đột, cổ đứng có phần gò bó cứng nhắc thì xửa
cỏm của chị em Thái trắng lại bẻ tai, chiết giấu mép, vòng cổ rộng
hình trái tim mở dài hở đến trước ngực rất mềm mại duyên dáng.
Các
cô gái rất ưa kiểu xửa cỏm này, còn các “bà xã” khi vẻ đẹp lý
tưởng “eo kíu meng nhay” lưng eo con tò vò không còn nữa, thì các chị rất ý tứ
khi mặc xửa cỏm đã khéo léo dùng các móng tay ém đẩy lớp mỡ bụng lên (đã qua
nhiều lần sinh đẻ) rồi vừa cài cúc bướm nên vẫn tạo được hình dáng thon thả gọn
gang.
VÁY
THÁI:
Có nhà thơ đã
cảm:
“Váy
em sắm lệch, nhiều khi cũng tình”
Váy
(xỉn) của phụ nữ Thái màu đen, khâu kín mép kiểu váy ống, vòng ống
rộng gấp đôi vòng eo, cạp váy màu trắng, còn độ dài tùy theo cao thấp của người
mặc và thường là chùng quá bắp chân. Ở trong gấu váy, chị em cạp thêm một đường
viền vải màu đỏ thắm rất cách điệu gợi cảm:
Ai
đó hát ngất ngư Phố
Bản
Lũ nghé tơ nhảy
giỡn rộn bờ khe
Ngọn
gió quẩn thổi tung viền váy đỏ
Làm
ngả nghiêng lơi lả cánh rừng tre.
Váy
mặc bó sát vào mông, tạo 1 đường cong thật đúng như một
nhà Văn Trung Hoa đã khắc họa cái đẹp “phong nhũ phi đồn” (vú nở,
mông to) của người phụ nữ đang thì của thời hoạt động tình dục mạnh
mẽ, sinh con đẻ cái để nòi giống phát triển và trường tồn.
Khi
mặc váy nếp phần thừa quấn vào một bên hông rồi gấp bẻ trở lại đằng
trước thành một đường chiết ly thẳng từ eo xuống gấu váy. Tuy thế, nếp gấp này
không làm mất đi nét uốn lượn ở phần hạ bán thân của người phụ nữ Thái.
Thắt
lưng được làm bằng lụa tơ tằm dài gấp 2 lần rưỡi vòng eo, rộng chừng bốn năm
phân, màu hoa lý hoặc màu xanh nõn chuối. Hai đầu chính nối thêm 2 mẩu vải màu
đỏ chói gây chú ý.
Từ nhỏ các
bà, các mẹ đã dạy con cách thắt khăn nơi thắt lưng (xài yêu) để sao “Eo kíu
manh po” (thắt đáy lưng con tò vò).
Khi
thắt lưng thì thắt ngay dưới cạp váy trên hông, mối đằng trước hơi chếch
về phía bên hông một chút. Ngày nay, nhiều cô gái đã “cải
tiến” dùng dây thắt lưng hoa nhiều màu gấp nếp - không thắt mà quấn
giấu mối, trông khá điệu đàng, mảnh dẻ, kiêu sa. (Theo Phan Kiến Giang)
Khách
quan mà chiêm ngường: Ngắm phụ nữ Thái với trang phục xửa cỏm
ta ngỡ đó là một nàng vệ nữ rất cổ điển mà vẫn hiện
đại, bó sát tạo eo, nổi bật các đường cong lý tưởng (như thi hoa hậu)… chị
em Thái đã rất táo bạo trong sắp xếp đường nét (gây gợi cảm). Cái váy dài tha
thướt xúng xính như muốn kéo dài thêm cho phận hạ bán thân, làm sao chân dài
thêm; còn cái xửa cỏm thì cứ như hơi quá ngắn lại ôm xít thân thể vùng trên như
dồn nén chật chội, căng phồng như muốn bung ra “bong ra” hiến dâng cho người
tình “của em của anh đây mà” rất gần gũi thân thương đầy chất nhục cảm.
Khi
may mặc bộ “xửa cỏm”, chị em rất chú ý bố trí phối
hợp màu sắc
(các tông màu) không diêm dúa, lộng lẫy mà vẫn giản dị, ấm cúng.
Váy đen
nhánh thêm viền phía trong đỏ ở gấu váy, khi bước đi xao động cùng
khăn piêu trên đầu, bộ xà tích bạc ở thắt lưng thật là vừa tạo hình, vừa tạo sắc
(hai cái màu nóng tương phản): Màu đỏ ẩn hiện làm cho màu đen thăm thẳm, sâu
hơn như ẩn sau đó là vùng “âm” của tình ái…
Sự tương
phản lung linh sống động ấy trong một tồn tại ở một chỉnh thể thấp
nhất, sự hài hòa cân bằng âm dương như “ải cắp êm” (bố với
mẹ) đời đời bền vững hội nhập với áo sơ mi, quần Jin hiện đại vẫn
không lạc mốt.
KHĂN
PIÊU
“Piêu”
tiếng Thái nghĩa là “khăn”. Đó là một tấm vải thổ cẩm tự dệt rộng chừng
hai gang tay và dài một sải tay, mặt vải sợi dệt thô nhuộm chàm kỹ ngả màu
xanh đen, còn nhấn thêm nước vỏ cây Ban cho đen nhánh bóng.
Khăn
tuy dài nhưng khi đội thì chỉ một đầu khăn vắt trên đỉnh đầu rủ xuống trán và một
đầu thả xuống sau lưng dưới gáy, chỉ những phần hở ngoài mới thêu trang trí hai
đầu khăn, còn đoạn giữa để nguyên vải chàm thô.
Hai
mép đầu Piêu được viền một diềm vải đỏ (hay vải ngũ sắc) kéo sang 2
bên mép cạnh bên bằng một đoạn bằng một nửa chiều rộng khăn, các góc khăn trên
mép vải viền được tết chỉ màu thành các “cút Piêu” bằng chỉ nhiều màu thành các
vòng tròn nhỏ mỗi đoạn vòng một màu. Tùy loại Piêu mà tết thành từng nhóm 3 hay
5 hay 7 cút.
“Cút
Piêu”; hình tượng cây guột ở đoạn chồi là non xoắn hình trôn ốc nó cũng
như 2 cái khău cút trên đỉnh đầu hồi nhà.
Ô vải
vuông ở hai đầu khăn là gương mặt của Piêu, là nơi trổ tài thêu thùa của chị
em… Bố cục vuông gấm, vải đỏ thành những ô vuông đồng tâm hay lệch 45o so với
ô bao ngoài gần mép đầu khăn gây cảm giác chuyển động như bánh xe quay. Cũng có
khi bao quanh vuông gấm là các ô vuông nhỡ xếp cạnh nhau thành 4 băng dọc theo
các cạnh hình vuông, mảng vuông bên trong mới bố cục thành các ô vuông đồng
tâm. Ở lối bố cục tất cả đều là những hình vuông được thêu thành các dải hồi
văn các hình móc câu hay tam giác đồi đỉnh, hình răng cưa, hình ô trám, hình
đàn khỉ, đàn ngựa đuổi nhau chạy vòng quanh các hình vuông, còn mặt hình vuông
trong cùng thì thường thêu những ngôi sao ở cánh hay nhiều cách biến thể. Những
hoa văn ấy đều phản ánh hiện thực, song không sao chép tự nhiên mà đã được cách
điệu thật khái quát và hình học hóa, số kiểu hoa văn tuy không nhiều, song nhờ
kết hợp khéo léo ở từng bàn tay vàng và theo tập quán từng vùng mà vừa mới lạ vừa
quen thuộc lại như mở ra vô hạn (theo TS Chu Quang Trứ).
Về
màu sắc chỉ thêu thường là màu tươi cơ bản. Piêu Yên Châu sặc sỡ, ưa
dùng các màu gốc đối chọi mạnh: Trên nền khăn xanh chàm đen, nổi bật
lên là những màu sáng mạnh như đỏ rực, vàng nghệ, vàng chanh, trắng, xanh lá
cây, xanh lơ tạo thành sự phối hợp màu khá mạnh bạo. Piêu Điện Biên ít màu hơn
thiên về đằm thắm.
Khăn
Piêu do các cô gái Thái làm ra để dùng, để tặng bạn tình làm quà kỷ niệm,
tặng cha mẹ, cô bác, anh chị bên nhà chồng. Khăn Piêu rất tiện dụng: Dùng đội đầu,
quấn cổ và khi cần thì buộc làm “địu” để địu con nhỏ. Nó đẹp như câu hát:
“Chiếc
khăn Piêu
Thêu
chỉ hồng
Theo
gió cuốn
Bay
về đây
Dâng
trên tay…”
Nó chính
là nơi lắng đọng tâm hồn (tình yêu) và phẩm chất cao đẹp của người
con gái Thái.
8/3/2012 – NK
Bài
34:
“Truyện
kể bản Mường” là một bộ thông sử của tộc người Thái, ngành Thái đen trình bày
những sự kiện nửa hư (truyền thuyết) nửa thực qua cuộc “mang gươm đi mở cõi”
cách đây khoảng gần nghìn năm của chúa đất Thái đen ở Mường Lò (Nghĩa Lộ).
Qua
phần huyền thoại … đến lúc Then (trời) cho tạo Tum Hoàng xuống làm chủ vùng
đầu sông Nậm Lài, Ao Xe, Nậm Tè (Sông Đà), Nậm Tào (Sông Thao)… rồi
tạo Tum Hoàng cho hai em là Tạo Xuông, Tạo Ngần xuống ăn đất Mường
Ôm, Mường Ai ngoài vòm trời, rồi tới dựng Mường Lò Luông, cùng theo có các tay
chân họ Lò, Lương, Quàng, Tòng, Lèo… tôn họ Lò làm chủ. Lúc đó đất Mường Lò đã
có người. Mọi (Mường), người Mang cư trú. Xây dựng theo Mường Lò thì Tạo Xuông ở
lại lấy vợ sinh ra Tạo Lò, cho Khun Lường làm mo, Tạo Lò làm chúa. Về sau Tạo
Xuông cũng trở về quê cũ Mường Ôm, Mường Ai.
Tạo
Lò lấy vợ sinh ra 7 con trai: Ta Đúc, Ta Đẩu, Lặp Li,
Lò Li, Lạng Ngang, Lạng Quang và Lạng Chượng… các con khôn lớn,
Tạo Lò chia cho các con đi làm chúa các mường: Tạo Đúc “ăn” Lò Luông, Ta Đẩu
“ăn” Lò cha, Lặp Li “ăn” Lò Gia, Lò Li “ăn” Mường Min, Lạng Ngạng “ăn” Mương
Vân, Lạng Quang “ăn” Xí Xam, Bản Lọm. Ngoài ra Tạo còn cho bô lão già bản Xửa
Cang Ho “ăn” Mường Pục, Mường Mẻng… Rồi các cháu nội được chia đi làm chúa miền
đất đầu sông Thao nước đỏ.
Riêng
con út Lạng Chượng không có Mường để “ăn” - “con út không
có ngựa, con út không có Mường” (giàu con út khó con út
là thế). Lạng Chượng mới bàn với các tay chân giúp việc là các
ông ho hé, ông mo, ông nghe… triệu tập binh tướng, dân chúng mở lối
đi tìm Mường. Quân đi đến Khau cả, Khau Pục, Mường Min thì tiến thoái lưỡng nan,
chúa bèn cúng “pang cha đáp” cầu hồn ông nội là Tạo Xuông, Tạo Ngần xuống phù hộ.
Chọn
ngày lành, quân Lạng Chượng đến Mường Lùng - dốc Khau Phạ
nhìn thấy cánh đồng rộng (xã Ngọc Chiến bây giờ) bèn dốc quân vượt dốc Xam xíp
vào Mường Chiến. Tạo Mường Chiến khiếp sợ xin gả con gái, Lạng Chượng ưng ý nhận
đất Mường Chiến là Mường họ ngoại.
Tới
Mường Chai, Tạo ở đây sợ phải dâng nhiều trâu.
Binh Chúa
vượt rừng rậm, qua cầu mây Vạn Tọ, không thuyền bắc cây qua Nậm Tè (Sông Đà)… đến
đây vấp phải sự chống cự của người “Xá Cắm Ca” (Khơ Mú) do Tù trưởng Khun Quàng
cầm đầu. Mác Chúa ngắn nên chúa phải chạy, mác Quàng dài nên đuổi Chúa xuống Nậm
Tè, bị bắt cạo trọc đầu phơi nắng, binh Chúa chết 800 người gan dạ… Rồi chúa
rút binh về Ít Ong (Thủy điện Mường La hôm nay) để tang đồng đội.
Rồi
sau một thời gian nghỉ dưỡng rút kinh nghiệm chúa Lạng Chượng thắng Khun
Quàng chiếm được đất Mường La từ Nặm Bú qua Khau
Pha, Kéo Tèo, qua Nặm Cá (Chiềng An), Chiềng Căm (Thị xã), Cọ, Kẹ qua núi Khau
Hào lên Mường Muổi (Thuận Châu)… gặp quân Xá của Khun AmPoi ở núi Khau Tù, Khau
Cả, quân chúa đánh nhiều lần bị thua… rồi chúa lập mưu “Mỵ Châu - Trọng Thủy”xưa,
xin làm rể ĂmPoi… chọn ngày lành chúa mở tiệc chuốc rượu say cho Bố vợ, rồi giết
chết đoạt đất Mường Muổi.
Quân
Chúa tiến lên Mường Quài (Thiên Giáo) chê đất ở đây ẩm ướt tanh
hôi, bé nhỏ, qua Mường Húa, Mường Ẳng tới Mường Phăng chế đất
bé trũng như vũng trâu đằm, chim cuốc chạy qua, chim đa đa chạy lại
cũng thấy. Quân chúa tiến vào Mường Thanh, đất này thật tốt “nhất Thanh, nhì
Lò, tam Than, tứ Tấc” (4 cánh đồng rộng ở Tây Bắc) ở đây Mường rộng lớn, tròn
như cạp nong, cong như sừng trâu, cho quân lính phá rừng khai hoang làm ruộng,
chia đất thành hai vùng “Xoong Thanh” cho già Nà Lếch làm mo.
Lạng
Chượng làm chúa Mường Thanh lấy vợ bản Pe sinh ra Khum Pe, rồi lấy vợ sinh
ra Khun Mứn. Khun Pe mất sớm, ông nội đem cháu về nuôi, sau Khun Mứn
sinh Tạo Pàn. Chúa Lạng Chượng già rồi mất… cháu tiếp là Tạo Chiêu lên “ăn” đất
Mường Lay, Tạo Cằm về Mường Muổi.
Cứ tiếp
là Tạo Chông, Tạo Thâng, Tạo Quá Lạn, Tạo Chương, Tạo Quạ, Tạo Quạ lấy
nàng An Phấư ở Mường Lay làm vợ cả, và Nàng Xơ (người
Xá dòng dõi Khun Quàng, ĂmPoi) làm vợ hai. Nàng Xơ sinh ra chúa Lò Lẹt.
Lò Lẹt
lấy tên hiệu là Ngu Háu (rắn hổ mang) làm chủ đất Mường Muội
nhiều năm vào đất triều cống Đại Việt từ đấy.
Cứ thế,
cứ thế… ghi chép kéo dài cho tới năm Mầng Cậu (Đinh Hợi -Đồng Khánh
nhà Nguyễn năm thứ 2) quân Pháp lên đánh chiếm Mường La (Thị xã). Thời
đó Tây tiến lên Pa Tần bị Tạo Điêu Văn Tri đánh cho phải lui về - Mường Lay -
Mường La, mãi sau Quan 6 ở Hà Nội sai Pa Vi lên dụ Tạo Tri hàng phục - Thế là
16 châu Thái bị Tây cai trị từ đấy cho đến 7/5/1954 chiến thắng Điện Biên…
* Bản
Mường Thái dưới thời thực dân Pháp đô hộ (Thành Thái thứ 2: 1890
- 1954):
- Cầm
Văn Oai làm chủ Mường Mụa (Mai Sơn)
- Ở Mường
La: Tây đóng trụ sở (kiểu tỉnh lỵ ở Tạ Bú gọi
là Vạn Bú)
- Cầm
Văn Hoan làm Tuần phủ cai quản 9 châu Thái đen.
Cầm
Văn Oai ở Mường Mụa kiêm chức Quản đạo Thái đen.
Điêu
Văn Tri quản đạo vùng Thái trắng.
Bạc
Cầm Hạc làm tri châu Mường Muổi
Hoàng
Văn Cấp làm tri châu Mường Vạt
Xa
Văn Cả làm tri châu Mường Xang.
1/2/1917
Chánh xứ Lô Mét mở trường dạy chữ Quốc ngữ và chữ Tây ở
Sơn La. Cũng năm đó chủ Mường La là Cầm Văn Quế lên thay cha là Hoan vừa mất,
Hoan làm chủ Mường La 33 năm, khi chết, làm ma mổ 32 trâu và trồng 36 cây heo ở
mộ.
Năm
1919, Quế làm nhà ngói bắt dân mỗi “xổng” nộp 100 đồng bạc
trắng.
Năm
1922 Tây bắt
dân đổi tiền “cống chảy” lấy tiền “hua cỏm” hẹn một năm phải xong, cứ 3 đồng cống
chảy được 1 đồng hua cỏm. Dân mường thời đó túng tiền lắm, họ phải bán gạo,
trâu với giá rẻ mạt (trâu mộng 12 đồng/1 con và mua hàng với giá cắt cổ như sợi
vải, thuốc lào, 1 kg muối giá 5 hào).
Năm
1931 Tây xây nhà tù Sơn La mở đường cái ô tô đi Tạ Khoa
(qua đèo Chẹn), năm 1932 Tây lại mở đường đi Thượng Lào qua rẻo Pa Háng, rồi
mở tiếp đoạn Mộc Châu về Suối Rút (đường 41) người Thái gọi đó
là đường Pha Lỉ, Pha Tổ… dân phải đi phụ đục núi phá đá nhiều người bị chết
- con gái phải gả bán sớm (lấy tiền) Bản mường không yên vui.
Bài
35:
Lời ăn
tiếng nói trong giao tiếp hàng ngày bộc lộ nhân cách, lối sống (tính cách)
của một dân tộc. Nhiều khi chỉ một hiện tượng (một hành xử) cũng đã để
người ta có cảm tình hay khó chịu về dân tộc đó. Ví dụ có người nhận xét:
Tính
cách người Hàn Quốc qua hiện tượng lặng lẽ xếp hàng cả tiếng đồng hồ trước
giờ lên máy bay (còn người Nhật thì qua vụ sóng thần và thảm
họa nhà máy điện hạt nhân Fucưxima hồi 11/3/2011 từ người dân tới ông Thủ
tướng đã hành động, ứng xử như thế nào (qua màn hình ti vi) đủ cho cả thế giới
kính phục người xứ mặt trời mọc.
-
Người Tàu (Trung Hoa) có một nền văn minh rực rỡ cỡ 5000 năm lịch
sử, nhưng khi tiếp cận với số đông cụ thể thì lại thấy như bước vào xã hội
thiếu trật tự như “vào đến phòng đợi ở sân bay, đã thấy rất đông người ngồi la
liệt trên ghế hoặc dưới đất, nói chuyện ồn ả hoặc ăn uống nhồm nhoàm. Nét nổi bật
của người Trung Quốc là ăn to, nói lớn… khi lên máy bay thì xô đẩy chen lấn, la
hét chửi bới nhau, rồi giành giật chỗ để hành lý. Khi đã vào ghế ngồi yên vị rồi
là họ bắt đầu mở miệng để chuyện trò, tranh luận to tiếng như một cái chợ”.
Hai
tính cách nổi bật là: Chen lấn và sẵn sang xâm phạm vào sự riêng tư của
người khác.
Về đi
lại hình như người ta không bao giờ chú ý (nhường đường)
hoặc có nhường họ thì cũng không có lời cảm ơn. Về sinh
hoạt thì hở cái gì ra là mất cắp, tính vùng miền cục bộ
(như ở ta là dân Nghệ Tĩnh) rất mạnh mẽ.
Việc
khạc nhổ thì người Tàu đứng số một thế giới đến
nỗi khi tổ chức Thế vận hội Bắc Kinh (2008…), lãnh đạo phải có chỉ
thị cấm khạc nhổ ngoài đường phố Thủ Đô.
-
Người Hà Nội: Xưa nổi tiếng là thanh lịch, hào hoa phong nhã,
thì nay xuống cấp đáng báo động: Ra đường thấy bất cứ cái gì lạ
(như tai nạn xe máy, cãi nhau) là xúm đông xúm đỏ gây tắc nghẽn giao thông. Ăn
tục, nói tục thì chắc Tàu cũng phải chào thua: Xô đẩy chen lấn, nói to, trộm cắp…,
đái bậy thì thôi rồi.
Tính
khoe mẽ, trưởng giả, học làm sang (kể cả tham nhũng) đang trỗi dậy, hoành hành
đáng sợ, sự coi thường kỷ cương, luật pháp diễn ra khá phức tạp.
Còn
về người Thái, qua nhiều năm “cắm bản” Nguyễn Khôi tôi thấy
có hai điều nổi bật: Chất phác thật thà (không nói dối = ba
vẹo), không trộm cắp (kin lắc); nếu ai mắc phải thì bị cộng đồng dân bản tẩy
chay, xua đuổi.
Đặc
biệt trong sinh hoạt thường ngày của người Thái là nhẹ nhàng, dịu dàng, rất ít
khi to tiếng (vợ chồng ít khi cãi nhau), không đánh mắng trẻ con, phụ nữ (phụ nữ được
tôn trọng,
yêu quý), trong các bữa liên hoan tiệc tùng diễn ra khá lớp lang, trật tự - khi
vui là “hát” (khắp) là xòe (xe) là hút hai sừng trâu rượu cần, là cụng ly vài
ba chén rượu cất (lẩu xiêu). Không đồng ý thì nói “đồng ý thôi” một cách nhẹ
nhàng
Nói năng vào thưa ra gửi (xo phép), gặp nhau có lời chào “khẳn qua, xiểng qua”
cho tặng nhau có lời cảm ơn chân thành và còn hẹn gặp lại. Dân bản sống với
nhau kiểu công xã thị tộc nông thôn “tắt lửa, tối đèn”có nhau, chia ngọt sẻ
bùi, tình nghĩa thủy chung.
Lời ăn tiếng nói của người Thái được bộc bạch trong “Quăm son Côn” (lòi
khuyên răn người). Đó là những câu rất đạo lý đời thường nhưng khá minh triết:
- Về mặt “xưng
hô” thì:
Thẩu
hịa me/ Ké hịa lua
(Già gọi Mẹ/ vừa gọi Thím)
- Ăn
xem nồi, ngồi trông hướng, có ý tứ:
Năng hảu bấng thí
Ní hảu bấng bón
(Ngồi phải xem chổ/ đi phải xem nơi)
Nung sửa bang nha ngoi táng
Nung xỉn hang nha ngoi tu
(Mặc áo mỏng (nữ) đừng đứng trước cửa sổ
Mặc
váy mỏng đừng đứng trước cửa vào ra)
Au mia bấng me nai
Sự quai bấng me tổn lang
(Lấy vợ xem mẹ vợ/mua trâu xem trâu đầu đàn)
Thốm nặm sa lai hảu bấng chong
(nhổ
nước miếng phải xem khe dát)
Khong xáu ca đi
ca panh nha chăm xảu
(thấy người có của quí giá đừng sán đến gần)
Cốn
tai pợ sốp/cốp tai pợ o
(người chết vì cái miệng/ ếch chết do lắm tiếng kêu)
Phua mia cu mưng nha va
(tình vợ chồng chớ gọi mày tao)
Quăm
đi phăng cảu sok
Quăm hại hí cảu na
(chớ lời lành chôn chín tấc
Chở lời xấu dài chín xải)
Xép
khẩu é kin nốt háy
Quây
khanh né xỉ nột bản
(Đói
bụng tưởng ăn hết cả chõ (xôi)
Buồi cương
cứng tưởng địt được (nữ) cả bản.
Nha
chằm díp nha khịt ton
(Khi
cầm nắm xôi chấm chớ có
Kẹp
thêm miếng thức ăn (cá thịt) - tức là đừng ăn tham - xấu.
Nhay
pay đón mưa đăm
(Đừng
có đi trắng về đen - ăn ở hai lòng).
Nha
du chăm nưa xiêu
(Đừng
có xán vào vợ người khác)
Chẩu
bái ngắm xiêu ngăm
(Mình
không nghĩ ngợi, ý tứ gì (vô tư) thì sẽ có người khác nghĩ
(nhớ) đến mình).
Xin
trích một số câu đã trích ra tiếng phố thông:
*
Người Thái có luật Mường, lệ bản.
Có thấp
có cao/ biết cao biết thấp.
*
Nhiều người đắp thành bờ.
Một
người phá thành thác.
*
Không được ba hoa
Không
được nói phét
Không
được sợ việc
Không
được lười biếng
Không
được ngủ sớm
Không
được dậy trưa…
*
Không được nhai chộp choạp
Không
được cái không bảo có
Không
được kề cà say rượu
Không
được đánh vợ
Không
được ăn trộm
Không được
nói dối
* Ăn
cơm trước khi nuốt phải nhai
Giơ dao
ba lần mới chém
Nghĩ ba
lần mới nói
* Bố mẹ nuôi
không bằng thầy dạy
Thầy
dậy không bằng tự mình làm nên
*
Đông con cháu, thiếu gạo ăn
Sướng con cu, mù con mắt.
Những cái buồn của người Thái:
“Con dại, vợ chết, bố mẹ mất sớm,
anh em ở xa”
Vợ chồng xa nhau, bỏ nhau,
thiếu cơm, thiếu muối
Đi thuyền không có mái chèo
Lạc rừng trời tối/ cơm không, chẳng
có thức ăn. Đêm nằm không có vợ để ôm. Dằm (gai) chọc
móng tay / ve cắn lỗ tai.
Mắt mù, tai điếc
Đào con dúi
hang sâu / nói chuyện tình với gái nặng tai.
Đắp bờ phải bùn nhão.
Ăn không có bạn
Ở chẳng có phường
Đau bụng không có thuốc
Đau mắt, đói chữ chẳng có thầy.
Anh em ghét chẳng ai thương.
*
* *
Lai côn đi/ lai phi pương cáy /
lai mạy pên hươn chăn
(Nhiều người thì tốt
/ nhiều ma thì tốn gà - phải cúng / nhiều cây thành nhà đẹp).
Đông luông báư mi mạy
Chí au săng pên pá
(núi rừng to không có cây
Thì lấy đâu thành rừng)
Lời ăn tiếng nói (tư cách
đạo đức Thái) được đúc kết thành tục ngữ, thành luật Mường lệ bản để giáo
dục mọi người sống, lao động trở thành những con người tốt, có kỷ cương, có
tình nghĩa xây dựng bản mường - đất nước ngày một giàu đẹp.
Góc
thành Nam Hà Nội 19/4/2011
NK
Bài 36:
Cùng với “quắm tố Mướng” là truyện
Táy Pú Xấc “Người Thái đánh giặc” là một sử thi
tầm cỡ về “kể ông cha chinh chiến”…
Táy ở đây dùng đa nghĩa,
như “trên đường đi” gọi là Táy Tang, qua cầu là Táy
Khua, đọc chữ là Táy Xư, kể chuyện là Táy Quắm Tố… Táy nghĩa là kể.
Pú là ông nội, người tôn
kính như “Bác”, Pú ở đây là ông cha, lãnh tụ, thủ lĩnh.
Xấc là chiến tranh: Đi trận là
Pay xấc, đánh trộm là tặp xấc, dấy binh là diệt xấc, nổi loạn là xấc phản, giặc
ngoại xâm là xấc chinh mương, hay xấc cướp mường, hay xấc pua mương. Mặt trận
là nả xấc, cuộc chiến là Chộ xấc, đi chiếm đất là xấc to mương - “xấc” đánh
nhau cả xâm lược lẫn tự vệ.
Nội dung thư theo lịch sử của
Quắm tố mướng, mở đầu từ Tạo Lò tới Cầm Nho (Kăm nho) là 50
đời.
Sử thi viết theo lối
hát “khắp” dùng rộng rãi trong sinh hoạt văn hóa đời thường
và nghi lễ.
Mở đầu là:
Cạy hin pẻn ke ma bốc
Nộc tót háy tai thẩy
Tai thẩy tai ti non
Tai cuông côn cuông kon mạy xọk
Pú hók lộm khẩu heo Tông Lo
Chang nháư tai thót nguông thót nga pạt
phạk Tao, u, khong…
Ẩy đá dẹp đá tảng lên cạn
Chim gõ kiến chết già
Chết già tại nơi nằm
Chết trong bộng trong cành cây Xọ
Cụ Tổ đổ xuống vào mộ đồng
Lò
Voi lớn chết rụng vòi ngà bên
sông Thao,
nậm u, MêKông…
Đoạn tả Lò Lạng Chượng đem quân đi
đánh chiếm Mường La
Mi khỏi kôn pay cón
Hảư Ải Ón uôn tang
Tốc Xả chi, Xả cha
Tốc Mương Bá, Mương Ai
Tốc Mương Chai, Mương chiến
Tốc Pák chiến ti nặm hăm
Tốc Pák Păm ti nặm hạk
Pọng cánh quen phăn hủa
Phăn hủa hảư kôn xen kôn păn
pú bải
Có chân sai đi trước
Cho Ải Ón dẫn đường
Đến Xá chi, Xá cha
Đến Mường Bá, Mường Ai
Đến Mường Chai, Mường chiến
Đến ngả suối chiến nơi sóng cuộn
Đến ngả suối Păm nơi nước phèn
Pọng và Quen (quan và dân)
đóng thuyền
Đóng thuyền cho quân ức quân nghìn
cụ bơi.
Đoạn kết:
Bản
Lụa (Thuận Châu) Ho Luông Sinh pay xảng / lau diên ké xia tạu
Thẩu xia bản xia na
Chắng púk hảư Ho Luông Tiên pay kín
Đin na Lụa na Lài to đaư coi xảng
Hák vá Sen Lộc
lau Ké xia tạu
Thẩu xia bản xia na
Chẩu xáư hảư Pọng An dệt Sen
Đin na tạu tin đán
Bản Pán Vạy Mo Yên mưa khẩu
Bản Té pẩu chiên vạy bấu kha
Kọ pưa pang xên phon chu tang
mãn hụ
Bản Lăng hảư sự Phúc mưa kin
Đin Na Lăng to đaư coi xảng
Cựt áo quảng hom pay chom tom.
Ho Luông sinh vun đắp Bản Lụa
Lại đã già lìa can
Khuất lìa bản lìa ruộng
Mới để Ho luông Tiên
mà vào hưởng ăn
Bao đất ruộng Lụa, ruộng Lài hãy quản
Nhưng rồi Sen Lộc đã già lìa
can
Khuất lìa bản lìa ruộng
Pọng An được cụ (chúa) cất nhắc
làm Sen
Bao đất ruộng bản Mòn
hãy quản
Ruộng trải tận chân lèn
Mo yên vào bản Pán
Bản thủa ông cha truyền lại
không buông
Bởi thông thạo mọi đường cúng tế
Bản Lăng dành Sự phúc
lên “ăn”
Bao ruộng đất (ở bản) Lăng hãy
quản
Lo rộng tính xa dân chúng sum vầy.
(Theo Vương Trung).
Bài 37:
* Bản (làng): Là đơn vị hành chính nhỏ
nhất, là cơ sở của Mường, là nơi cư trú của các gia đình phụ hệ thuộc nhiều
dòng họ. Bản trung tâm của Mường gọi là Chiềng (phát âm ở Lào là Xiêng, Xiêng
như Chiềng Lề (TX Sơn La) Xiềng Khọ, Xiêng Khoảng. Loại Chiềng thứ 2 là có một
bản lớn, tồn tại độc lập không trở thành trung tâm kinh tế - xã hội và chính trị
của một Mường nào đó (như Chiềng Đông, Chiềng Sàng, Chiềng Khoi ở Yên Châu) có
nơi gọi là Viêng (Viêng Chăn - Lào, Viêng Lán ở Yên Châu).
Trong Mường có hai loại Bản:
- Bản của dân tự do (dân páy)
- Bản của dân lệ thuộc (dân
Thín).
Đứng đầu Bản là Tạo Bản (Quan bản)
thường là người dòng họ Tạo Mường - (Quý tộc) nắm giữ “Không cha truyền con nối”.
Quyền lợi của Tạo bản được cấp 1 số ruộng cấp tùy nơi “khoảng 1000 bó mạ
(10.000m2), chức vị thứ 2 là chá bản (chá là nói)” truyền đạt mọi
tin tức công việc của bản, ruộng được cấp bằng ½ Tạo Bản, khi thôi chức vụ phải
trả lại ruộng.
Họ được dân bản đến giúp
công xá, biếu xén thịt và sản vật.
* Xổng (Poọng)
gồm 3 - 5 bản (như kiểu Tổng, Xã?), đứng đầu là Tạo Xổng thường là quý tộc, ruộng
được cấp 2500 bó mạ (25.000m2), dân Xổng phải làm không công cho Tạo
(được ăn cơm), dân cũng phải biếu xén Tạo Xổng.
Giúp việc Tạo Xổng có Quan Xổng,
Chá Xổng… mất uy tín hay chết thì dân bầu lại.
* Mường: Gồm
nhiều xổng, bản đứng đầu là Tạo Mường. Chết dân bản bầu mới. Toàn bộ đất
đai trong Mường là do Tạo Mường cai quản, gia đình Tạo chỉ “ăn” một đám ruộng
là “lương” cấy 5000 bó mạ (50.000m2), dân phải đến làm không công
cho Tạo.
Theo Quắm tố mướng
thì chúa đưa dân đi chiếm đất “có ruộng mới tập trung được dân cư cũng như có
nước mới giữ được cá”. Có ruộng đất thì mới có bản Mường. Từ khi Mường Lò (Văn
Chấn, Nghĩa Lộ - quê tổ Thái đen Việt Nam) ra đời từ Tạo Lò thì bản Mường cũng
dần dần được tổ chức thành hệ thống.
Nhiều bản hợp thành Xổng (Sổng),
có nơi gọi là Ngụ (dưới cấp Lý Trưởng “xã”). Một hay ba Lộng
(có nơi gọi là Ken) cộng với 3 - 4 Xổng thành một Mường. Từ 4 - 8 mường
trở lên thành một “chu”. Các đơn vị từ Chu (Châu), Mường, Lộng, Bản là đơn vị
hành chính mà Chu là đơn vị cao nhất (cỡ cấp huyện) của địa phương. Các đơn vị
Xổng, Ngụ là dưới Mường Phìa (trực thuộc Phìa).
Mỗi Chu (Châu) khi mới xác lập mang tính
chất tự trị, không tập quyền thành một tổ chức thống nhất ở địa phương (phong
kiến sơ kỳ, có tính cát cứ sứ quân).
BỘ MÁY QUAN CHỨC Ở CÁC
CHÂU THÁI SƠN LA - TÂY BẮC
Cánh đồng Mường Lò (Tông Lò) do
Tạo Lò đứng đầu khai phá dựng bản, lập mường vào
thế kỷ 11 (nhà Lý) đã là nhà nước phong kiến tập quyền) nhưng sử sách Thái
không thấy ghi (kể cả sử Việt) vê bộ máy cai trị (quan lại) ở các Châu Thái Tây
Bắc.
Theo Quắm Tố Mướng thì khi
Mường Lò (mường khởi thủy) ra đời thì có phân chia:
Họ Lướng dệt mo
Họ Lò dệt Tạo
Họ Lường (Lương) làm Thầy mo
Họ Lò làm Tạo.
Như vậy Tạo Lò làm chủ (Chúa)
Mường Lò.
Luật Mường đã xác định: Tất cả các
thứ (kể cả đất đai) là của Vua, của Tạo - đó là quyền
sở hữu Nhà nước.
An Nha (Quan Châu) phân quyền ban cấp
tất cả các sản vật thiên nhiên trong rừng, trên đất, dưới nước cho các mường
phìa, Lộng, Tạo, Bản đều thuộc quyền các quan chức ban cấp chiếm giữ.
Ai săn bắn được thú to,
cá lớn đều phải trích phần nộp cho An Nha một đùi, cho phìa
một đôi thăn, nếu không coi là phá tục lệ bản mường, tùy tội mà xử phạt. Do đó
mỗi người dân phải luôn tự răn mình.
“Phít nọi sia quai
Phít lai bên khỏi
É pảo hữ dók mi
É pi hữ dók tó
É khó hữ dók tạo quan”
“Sai phạm nhỏ mất trâu
Sai phạm lớn thành tôi tớ
Muốn có sẹo thì đùa với gấu
Muốn béo (sưng mặt), thì đùa với ong
Muốn nghèo khó thì đùa với
Tạo Quan”
Quy định bổng lộc dành cho các Quan
chức ở các Châu Thái Tây Bắc thời phong kiên - thực dân (trước thời
giải phóng 1953) là: “Làm chủ vùng đất cai trị / hưởng nương dành ruộng chia /
ruộng cày nương cuốc / cuông nhốc pụa làm tôi tớ. Suối cá/ ong vách đá / mật
nhung hổ gấu hươu, nai, voi, tê giác tới rừng tre măng quý - dân ai vi phạm đều
bị phạt tiền, dân được tham gia cử Tạo, dựng Quan (lời ca cổ”.
* VỀ TÊN GỌI BẢN MƯỜNG
Thường đặt địa danh theo tên sông suối,
núi, đất (na, nà) cỏ cây, con gì.
Ở Việt Nam có 37 mường Thái chỉ có
Mường Ai là có 1 bản.
“Mường” nghĩa hẹp là chỉ 1 đơn vị
hành chính…
“Mường” theo nghĩa rộng là 1 vùng miền,
đất nước Quốc gia như Mường Ngô (Trung Quốc, nước Ngô thời Tam Quốc mà Giao Chỉ
phụ thuộc), Mường Lá Púa (Mường Việt), Mường trời, Mường Ma, Mường Lùm (lúm) chỉ
thiên hạ, cõi đời.
Đã có bản Mường là phải có Tạo (chủ
mường):
Khột ma Phái mi mương
Tánh Mường phái mi Tạo
Khai ruộng phải có Mường
Dựng mường phải có Tạo
Chiềng hay Xiềng (Viêng):
Là đơn vị Bản trung tâm của
Mường trong (mường cuông). Chữ “chiềng” bao giờ cũng có một
tên riêng khác kèm theo để biến thành danh từ riêng. Ví dụ: Bản Ban
là trung tâm của Châu Mường “Mường Mụa” (Mai Sơn) - lúc này chiềng Dong vừa
là tên riêng chỉ bản Ban, vừa là tên gọi Mường trọng (trung tâm của Châu mường),
đồng thời là tên của cả châu mường Mường Mụa.
Châu mường Mường Sang (Mộc Châu)
là Chiềng Chu; Châu mường Mường Tấc (Phù Yên) là Chiềng Hoa.
Đất Chiềng ở nhiều Châu Mường xưa
(Châu Lỵ) thường có hào lũy vây quanh để bảo vệ, hào lũy là (Viềng), từ đó danh
từ này nhiều khi trở thành tên của Châu mường - như Viêng Lò, Viêng Chăn (Lào).
Châu mường Mường La có Viêng dựng
ở bản Giảng (thị xã) nên gọi là Viêng Giảng đồn phòng thủ gọi là
“che”, ở Mường La đặt ở bản Ái nên gọi là che Ái ở cách xa 10km.
Thời VNDCH phần lớn “Chiềng” được áp
sang là “xã”.
Bản Mường trung tâm là Mường
trong (Mường Cuông), ở ngoài là Mường Phìa ngoài (Mường Phìa Nọk) - Bản
trung tâm của Mường Phìa ngoài cũng gọi là Chiêng (Chiềng), ví dụ:
Mường Chanh là mường ngoài của
Châu mường Mường Mụa có tên Chiềng Quen, Mường Sại là mường ngoài của
Châu mường Mường Muổi (Thuận Châu) có tên là Chiêng Muôn. Sau 1954, ta đổi gán
“chiềng” là “xã”.
Bộ máy chính quyền các chức dịch
phân chia thành hai đẳng cấp rõ rệt:
1. Dòng dõi quý tộc Châu mường
gồm họ gốc có tên Lò Cầm (đó là họ Lò to,
Lò luông) để phân biệt với Lò bé (Lò bình dân). Họ Lò
Cầm phân chia ra các họ: Cầm, Bạc Cầm, Điêu (Đeo, Tao), Hoàng.
Dòng dõi quý tộc Thái
có có họ Vi Khăm, Kha Khăm, (Khăm = Căm = Kim = Cầm) phân thành
họ Hà, Xa (Sa).
Người thuộc họ quý tộc được
phép tham gia giữ các chức người đứng đầu Bản, Lọng (Quen), các Phìa
và An Nha Châu Mường.
2. Người thuộc ngoài
họ quý tộc như Lò, Lường, Cà, Tòng… thì chỉ được phép giữ chức dịch (cấp thấp)
là người đứng đầu bản và các ông Quan hàng “Xổng”.
Đó là luật tục quy định, người nào
đó có thế lực muốn phá vỡ quy định này dù là quý tộc hay bình dân thì đều
phải đổi họ gọi là “nhập đẳm”(tư đẳm) - ví dụ họ Vi (bé) muốn làm Phìa, An Nha
thì phải đổi thành họ quý tộc Vi (lớn) phải làm khá phức tạp, tốn kém, ngược lại
người họ quý tộc muốn làm chức nhỏ như Pằn (xen), mo mường… thì cũng phải đổi họ
xuống thành họ Lường, Cà…
Mọi chức dịch trong của bộ máy
của Mường Phìa (chế độ Phìa Tạo) đều do An Nha (Chủ Châu (huyện)
và Phìa Mường tiến cử, bổ nhiệm. Khi bổ nhiệm xong, họ nghiễm
nhiên tổ hợp thành một tổ chức tương đương mang tên “Hội đồng
bô lão toàn mường” (Thẩu ké hang mương)
do chức ông Păn (xen) hoặc mo đứng đầu).
Quan hệ giữa cấp châu mường với
bốn mường Phìa ngoài thì không hẳn, theo thứ cấp trên dưới mà
theo cơ cấu truyền thống vòng đồng tâm xoay quanh trục. Cơ cấu này
quy định: Mường trong với bản trung tâm gọi là Chiềng
là Trục, còn các Mường ngoài ở vòng đồng tâm.
Trước thế kỷ 19, các Châu
Mường Thái hợp thành khu vực “16 châu Thái” (Xíp hốc Châu Tay) -
trong dó có 1 châu mường trung tâm, các châu mường khác tập hợp dưới hình thức
thuần phục hay qui phục “Mường Luông” (Mường lớn).
Triều đình Trung Ương từ Lý,
Trần, Lê, Nguyễn gọi đơn vị Mường Luông là “đại tri
châu”, đến năm 1834 vua Minh Mạng đổi (xóa bỏ) chế độ đại Tri
Châu và đặt ra các Châu (huyện vùng dân tộc), đặt các Châu Mường Thái thuộc
tỉnh Hương Hóa (trung tâm ở Hương Hóa, bên bờ sông Thao, Phú Thọ hiện nay). Đến
năm 1884, đất nước ta mất 6 Châu mường Thái nhập vào bản đồ Trung Quốc theo Hiệp
định Thiên Tân ký giữa thực dân Pháp và triều đình Mãn Thanh.
Tổ chức xã hội theo
các đơn vị Mường xưa là một bước đệm chuyển từ tổ chức thị
tộc, bộ lạc nguyên thủy (xã hội Thái gọi là Đẳm) sang tổ chức Quốc gia dân tộc.
Thuộc ngữ “Mường” không còn là như một quốc gia dân tộc nữa, người Thái ở Lào,
Thái Lan đã mượn danh từ gốc Pali - SanoKis là Pa Thết để chỉ đất nước (Mường
Pa thết Lào)
Đấy cũng là lý do, trong dân gian vẫn
quen gọi nước Thái Lan là Mường Thay, Lào là Mường Lào. Người Thái ở Việt Nam
như chậm hơn mới đi từ Đẳm đến trình đô bản mường (dưới cấp quốc gia) rồi
phát triển gia nhập quốc gia dân tộc Việt Nam (Pa thết Việt Nam). (Thái Việt
Nam chưa lập “Nhà nước riêng” mới ở dạng tự trị Bản Mường).
QUAN HỆ DÒNG HỌ GIA ĐÌNH
VÀ HÔN NHÂN
Người Thái có ba quan hệ về họ hàng:
1. Ải noọng:
Gồm anh em, chị em chưa xây dựng gia đình sinh ra từ một (cùng mẹ cùng cha hay
khác)- nội tộc 4 đời.
2. Nhinh Sao: Là họ nhà trai
hay thuộc khổi Ải noong và rể.
3. Lung Ta: Họ nhà gái
(bên ngoại).
Bài 38:
Toàn cảnh thị xã Sơn La
Ngày 29 - 4 - 1945 chủ tịch Hồ Chí Minh
(VNDCCH) ký sắc lệnh thành lập khu tự trị Thái Mèo (sau đổi là khu tự trị
Tây Bắc).
Kỳ họp thứ hai Quốc hội
khóa V phê chuẩn xóa bỏ cấp khu và hợp nhất 1 số tỉnh. Hội
đồng nhân dân khu tự trị Tây Bắc họp ngày 19 - 20/1/1976 tại thị xã Sơn
La (thủ phủ khu tự trị) công bố quyết định của Quốc hội
(thời Tổng bí thư Lê Duẩn) kết thúc 20 năm tồn tại của khu tự trị.
Thành tựu: Theo báo cáo 20 năm hoạt động
của khu tự trị Tây Bắc, ngày 19-1-1976 của UBHC khu thì:
1, Về chiến đấu đánh bại
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ xâm lược. Toàn
khu có 82 xã trực tiếp chiến đấu, 16 xã bắn rơi máy bay mỹ và 21 xã bắt sống giặc
lái, sản xuất được giữ vững, huy động 562000 lượt người với 95 nghìn mét khối vật
liệu đá đảm bảo giao thông phục vụ chiến đấu.
2, Kinh tế: Từ 1954 thực hiện “cải
cách dân
chủ” (ở xuôi là cải cách ruộng đất) đã xóa bỏ chế độ bóc lột cuông nhốc (chế độ
Phìa Tạo), xóa bỏ ruộng chức, chia ruộng cho nông dân lao động, đã đưa 79% hộ
nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp - 50% số HTX lập được kế hoạch sản xuất
hàng năm, thực hiện 3 khoán - những HTX tiên tiến như Nậm Mùn, Bản Phủ (Lai
Châu), Púng Luông, Cao Đa (Nghĩa Lộ), suối Lìn, Kim Chung (Sơn La)…
So với năm 1955 thì sau 20 năm,
giá trị sản lượng nông nghiệp tăng 228%, bình quân hàng năm tăng 16%,
diện tích trồng lúa tăng gấp 7 lần, diện tích hoa màu tăng 2 lần. Đã
có 195 HTX đạt trên 5 tấn thóc/1 ha. Đã hình thành các vùng sản xuất chuyên
canh lớn như bò, chè Mộc Châu, Cam Đường, vùng chè Văn Chấn, vùng lúa lợn Điện
Biên, vùng ngô Nà Sản…
Hàng năm khai thác 28000 m3 gỗ,
2,5 triệu cây tre nứa, 7000m3 củi, có 13 lâm trường, 50 HTX nghề rừng.
Cây chè cả khu
có 5000ha thu 7000 - 8000 tấn/ năm.
- Về chăn nuôi: Ngay sau ngày
giải phóng 1953 - 1954 toàn khu mới có 63.000 con trâu, 28.000 con bò,
5000 ngựa, 137.000 lợn, sau 20 năm phát triển có 140.000 trâu, 43.000 bò,
52.000 ngựa, 313.000 lợn.
Hằng năm cung cấp cho miền xuôi:
2000 con trâu, bò cày kéo, trên 2000 tấn trâu bò thịt.
Về công nghiệp - thủ công
nghiệp: Năm 1955 mới xây dựng được xí nghiệp đầu tiên “cơ khí Thuận Châu” với
giá trị sản lượng khoảng 7000đ/năm, (giá 1kg gạo là 3 hào). Sản xuất công cụ: Từ
1962 phát triển công nghiệp địa phương (điện, cơ khí, vật liệu xây dựng, may mặc,
chế biến nông sản…) sản xuất tới trên 40 loại sản phẩm, trị giá 1974 là 25 triệu
đồng.
1955 cả khu mới
có 1 nhà máy thủy điện 24 KW, chưa có điểm cơ khí nhỏ nào thì sau 20 năm đã có
hàng nghìn KW nhiệt điện, 30 trạm thủy điện nhỏ từ 5 50 KW, có 250 điểm cơ khí
nhỏ.
Giao thông: Đã mở mấy đường
ô tô liên tỉnh, xuống tới huyện gần 3000km. Sơn La mở đường
lên vùng cao CoMạ, Nghĩa lộ lên Trạm Tấu, Lai Châu lên Mường Tè, xây hàng trăm
cầu cống lớn. Đảm bảo cho 1 đầu dân cung cấp hàng năm 6 kg muối; 4 mét vải, 3
kg dầu hỏa.
Giáo dục: Trước 1954: 99% dân
mù chữ, chỉ có 25 trường tiểu học với khoảng 750 học sinh.
Đến 1974 - 1975 thì đã có 1974 lớp mẫu giáo với 3720 cháu, 2181 lớp vỡ lòng với
49.982 học sinh, 449 trường phổ thông cấp 1 (tiểu học) với 24.989 học sinh, 107
trường cấp 2 (Trung học cơ sở) với 14.461 học sinh và 13 trường PT cấp 3 với
2193 học sinh, có trường dân tộc nội trú (riêng cho con em dân tộc Mèo) có 350
- 400 em theo học từ vỡ lòng đến cấp 2.
Y tế: 90% xã có trạm y tế,
có 40 bệnh viện và bệnh xá với 2000 giường .
Văn hóa văn nghệ được phát triển.
Chính trị: Có 17 đại biểu Quốc
hội khóa V (trong đó 13 là dân tộc thiểu số), bộ máy UBHC các cấp: Số cán bộ
người daan tộc chiếm 76 - 80% (số cán bộ dân tộc 20 năm tăng từ 865 lên 9575
người, số có trình độ trung học, đại học là 934 người trong số 8722 người), số
cán bộ lãnh đạo các cấp từ 375 người (1955) lên 4324 người (1974).
Trích báo cáo do ông Lò Văn Hặc
Chủ tịch UBHC khu tự trọ Tây
Bắc trình bày./.
Bài 39:
(Hồ Thuận Châu)
Luật tục Thái là một luật lệ bản
Mường thời phong kiến sơ kỳ với uy quyền rất lớn của chúa đất mà
cao nhất là An Nha (1 châu)
Luật tục Thái phân biệt rạch ròi với
47 loại người và 17 loại tội phạm trong xã hội.
Luật tục quan tâm cả các đấng
thần linh, môi trường thiên nhiên, nó có ảnh hưởng rất lớn đến
thái độ của con người đối với thiên nhiên, trời đất, núi sông, rừng rú.
Đây là cơ sở để thi hành công
lý, ngăn ngừa tội ác, là đạo lý làm người. Mỗi Mường (Châu) có luật tục
riêng.
- Phần đạo làm người:
là những quy ước ứng xử cá nhân
- Phần tục lệ cưới xin
- Tang ma………….ví dụ
LUẬT LỆ NGƯỜI THÁI ĐEN Ở THUẬN
CHÂU
Mở đầu: nói chút về lịch sử người
Thái theo Quắm Tố Mướng.
1. Ranh giới đất Mường Muổi:
Tục ngữ có câu “Mườnng
Muổi rộng phía sông Mã, Mường La rộng phía Sông Đà”. Mường chia ra các Xổng
(ngũ), lộng, quen. Châu Mường Muổi có 5 mường Phìa:
- Mường Muổi (Chiềng Pha) là mường
trong mường, vua kinh gọi là Xuân Mai. Các mường phìa phía ngoài có:
* Mường Lầm phía sông Mã, vua kinh gọi
là Nam Trịnh
* Mường Sại phía Sông Đà, vua kinh gọi
là xã Khinh Khoái.
* Mường Piêng (xã Thanh Bình)
* Chiềng Pấc
(Trịnh Bắc)
Mỗi một Mường Phìa chia nhiều bản,
nhiều Giáp. Giáp nào ở xa Mường thì gọi là “lộng”, lộng bé thì gọi là Quen. Mỗi
một Mường Phìa chia thành nhiều xổng (vua kinh gọi là Ngũ) người Thái quen gọi
là Xổng Ngụ. Mường trong Mường Muổi có 4 xổng ngụ, ngõ Mường phía ngoài có 3 xổng
ngụ.
2, Phong cấp bậc hàng châu được
xếp đặt theo lệ như sau:
- An Nha là gốc của Bản
Mường (Tri Châu) giúp việc có Phìa Thổ (thư lại) phìa thông (thông lại). Mường
phìa có Phìa Lý (vua kinh gọi là Lý trưởng); phìa phó (phó lý) 2 phìa này coi
trông bản Mường mình. Có 8 chức ông ở Xổng (vua kinh gọi là kỳ mục) từ ông xen
(pằn) đến tận ông chá hườn.
Có ông mo, ông nghè, ông
chang, giúp quản lý luật lệ, cúng tế.
3, Quyề n lợi
bổng lộc các quan chức.
An Nha ăn 10 mẫu ruộng trong phạm vi
bản chiềng đi (chiềng ly), thu “thóc lười” (tô thuế) của dân hàng Châu: mỗi mẫu
phải nộp một tạ thóc.
Án Nha có 9 bản nhốc (làm dịch vụ)
Thư lại ăn 6 mẫu ruộng Chiềng
Đi hưởng 3 bản nhốc.
Thông lại ăn 5 mẫu ruộng Chiềng
Đi, 3 bản nhốc.
Phìa lý (lý trưởng) ăn 5 mẫu ruộng,
phó lý ăn 3 mẫu ruộng.
Ông xen đứng đầu Xổng Pằn ăn 8 mẫu
Ông Pọng đứng đầu Xổng Pọng ăn 6 mẫu
Ông Ho Luông đứng đầu Xổng Ho Luông
ăn 4 mẫu ruộng
Ông Pọng Cang đứng đầu Xổng Phọng
Cang ăn 3 mẫu ruộng
Ông quan xư (ho cang) ăn 2 mẫu
(giúp việc ông Xổng Phọng Caug)
Ông Ho Hé ở bản Lăng ăn 2 mẫu
giúp việc ông Xổng Pằn.
Ông Pụa ở bản Púng ăn 2 mẫu giúp việc
ông Xổng Pọng.
Ông Chá hươn ở bản
Lẹng ăn 2 mẫu giúp việc ông Xổng Ho Luông.
Khi Phìa xức nộp thuế thì ông Xổng
phải xức đến quan bản, quan bản bổ xuống đầu dân Mường phải nộp đầy đủ.
Khi Phìa xức
phu phen xuống đến xổng nào, thì ông Xổng xức Quan bản cắt phiên đi phu từng
nhà…ông Xổng dẫn phu nộp cho Phìa
Lúc nào An Nha, phìa cần gì
thì gọi ông Xổng tới hầu
Mỗi xổng có:
Quan pách: về tư pháp (ăn
1,5 mẫu) các pách xông chia làm quan các bản
Dưới quan pách mỗi xổng có 2
giúp việc là Quan Phòng
Dưới quan phòng mỗi xổng còn có 2
Quan chiềng quản lý việc xây dựng nhà cửa, đốc thuế, mường phai, cúng mường,
Quan chiêng ở xổng nào thì do người ở đó làm …vv…
Mỗi bản có quan bản (tạo bản)
giúp việc có chá bản, 1 bản có 7-8 mẫu thì quan bản được 3,5-4 sào.
Ở Mường Muối ngoài 4 xổng ở trong Mường
còn có 5 lộng (Mướng É, Mường Bán, bản Pịn, Muội Nọi, Chiềng Đa) mỗi Lộng có 1
Tạo Lộng.
Mỗi Lộng có bản Quen (Ken), do
1 Tạo Quan đứng đầu
4, Lệ xin làm chức dịch:
Ai có tên Quảng, tên xự (được
Bản mường) đặt cho thì mới được phép xin làm Quan bản, đi từ thấp
lên cao, có “tiền xin chức” nộp cho An Nha (tri châu).
5, Về kiện cáo, phạt vạ:
Án Nha có quyền phạt vạ thu từ 1,2 nến
đến 12 nén bạc
Thư lại được phạt vạ từ
1,2 - 6 nén bạc
Quan chiềng, quan chá, quan bản được
phép An nha (phạt vạ thu 5 đồng cân đến 4,4 lạng bạc).
6, Quy định về phu phen tay dịch
7, Về bắn súng nhầm, làm
cháy nhà, do đi săn bắn nhầm chết người, phải góp tang ma:
- Dựng 1
cây “heo” có 20 vải cờ
- Mổ 1 con trâu tang lễ
- Tiền xuống nước, xuống lửa 3 lạng
bạc
- Tiền đắp cản nước mắt 1,3 nén
bạc
Làm cháy nhà mình để lây sang nhà
khác bị phạt: 3 lạng, 2 trâu
8, Săn được thú to phải
biếu xén:
- Đùi to sau biếu An Nha, các phìa
- Thịt thăn to biếu
ông Xen
- Đường thịt thăn trong biếu ông
Pọng
- Thăn treo biếu ông Ho Luông
..vv…
9, v.v làm cuông nhốc: quy định
như sau:
Những bản phải làm cuông nhốc trong
mường làm theo Luật định, bản ở xa ở xổng nào thì làm cho xổng
đó.
Các chức dịch phải dẫn dân
cuông nhốc bản mỉnh được đi vỡ hoang, làm thủy lợi, lập bản.
Người Xá Khao (Kháng) ở bản nào đều
phải là cuông nhốc ở đó. Người Mèo không phải làm cuông nhốc nhưng phải nộp thuế,
nộp lợn gà cúng tế ở mường.
10, V.v làm cho người (nữ) bị chửa
hoang và chửa trước khi thành vợ:
- Án Nha, thư lại thông lại bị tội
này cũng bị phạt 12 nén bạc, làm trước (ăn cơm trước kẻng) bị phạt 6
nén.
- Con chức dịch (Tạo và nàng)
đi chơi bị làm chửa, phạt 6 nén bạc
Đàn bà góa nhà Án Nha phìa tạo
tội chửa hoang phạt 12 nén bạc.
- Ai đó ngoại tình: phạt 12 nén bạc
- Làm chửa không chịu lấy (kể cả gái)
bị phạt cho cả 2 phía.
- Quan chức bị phạt được
An Nha giảm ½ số bạc.
11. Xử phạt trộm cắp:
- Ăn cắp hoa màu phạt 1,2 nén bạc, nếu
là con nhà chức dịch thì bị tăng gấp 2
- Ăn cắp
thóc lúa: đền gấp 2, phạt 1,2 nén bạc.
- Ăn cắp trâu bắt làm tôi đòi (nô lệ)
cho Phìa Tạo, nếu không phải phạt gấp 3 lần (3 trâu)
12. Ngoại tình:
- Vợ ngoại tình: nếu chồng bắt được
có quyền giết chết, đánh đập kể cả tình nhân, không coi bị án
mạng, kiện thì được 12 nén bạc
- Đàn ông ngoại tình: bị chồng
người ta đánh giết cũng không bị tội, kiện bị phạt 12 nén bạc.
13. Bổng lộc cho các quan trong
phòng cúng lễ:
- Ông Mo ở bản Pán hưởng 3 mẫu
ruộng, lấy người 2 bản làm nhốc
- Ông Nghè ở bản Pán hưởng
1 mẫu
ruộng và 1 bản làm nhốc…
14. Đất nước, rừng và cúng lễ:
Mường bản chỗ nào mà chẳng có ma
(phi) phù hộ: cấm không được vi phạm những nơi sông, núi, ao thiêng…
15. Cúng Mường: tục lệ quy định
là:
1/- Xên cha (lễ cúng Mường) là
lớn nhất thuộc lệ hàng Châu Mường, tổ chức vào ngày “cúng nhà” cho An Nha…
2/ Xên Mường: lễ có 1
trâu, 1 bò, 5 lợn, 1 chó, 1 vịt, 32 gà + rau quả…lễ ở gian “tạy”
của nhà An Nha.
3/, Xên kẻ khó Mường (cúng
giải hạn cho Mường): 1 trâu, 3 lợn, 10 gà, 1 chó cúng ở nơi “cửa
hồn chiềng” phía “cửa xen” phía trên Mường mé cuối dòng suối.
4/, Cúng hồn chiềng: Cỡ như trên
làm ở “cửa hồn chiềng” phía “cửa pọng”.
5/, Cúng tiễn tối tớ ma nhà:….
Dựng lều ở
sân nhà An Nha.
6/, Lễ cúng điều lành.
7/, Tế đen trắng: 2 trâu 1đen/1
trắng cúng hồn Mường và họ ngoại Tạo ĂmPoi.
8/, Tế ở cửa suối Muội: Cửa
sông Nặm Muội là nơi có khu rừng già nguyên sinh ở Mường Sại.
Đó là nơi cụ chủ “Ngu Háu Cầm Lò Lẹt” đã dựng nhà cúng tế tổ họ Tạo - tổ tông
người Thái đen: 1 trâu đen.
16. Lễ
cúng cho mỗi người, mỗi nhà.
Bài 40:
QUAN CHỨC VÀ TRÍ THỨC
Người Thái ở Sơn La, trước
1962 (tái lập tỉnh) coi như chiếm số đông nhất. Thời phong kiến tầng
lớp quý tộc, thầy mo đều được học hành, có chữ nghĩa…nên Phìa Tạo
và con em họ thường vừa là chức sắc (hay sẽ làm chức sắc) vừa
là trí thức ở địa phương.
Thời Lê Trịnh, triều đình
đặt chức “phụ đạo” để cái quản các Châu Mường.
- Châu Phù
Hoa (Phù Yên): Phụ đạo là Cầm Nhân Đôi, sau con là Cầm Nhân Cai kế tập.
- Châu Mộc; phụ đạo là Xa
Văn Phấn (tổ tiên là Xa Khả Tham, làm quan Đại tư mã hồi đầu
nhà Lê).
- Châu Mai: Phụ đạo
là Hà Công Ứng, sau con là Hà Công Bình kế tập.
- Châu Mai Sơn: Phụ đạo Cầm
Nhâm Tuần
-
Châu Sơn La: Phụ đạo Cầm Nhân Mang.
-
Châu Thuân: Phụ đạo là Bạc Cầm Chính.
-
Châu Quỳnh Mai: Phụ đạo là Điêu Chính Thiêm.
- Thời
xã hội chủ nghĩa (sau 1955…) về tri thức ở Sơn La nổi
bật có
1/ -
Gia đình nhà thơ Cầm Biêu vốn là thầy giáo, sau làm trưởng ty
văn hóa, em trai là Phó giáo sư - Tiến sỹ Cầm Cường, giảng viên Đại học tổng hợp
Hà Nội, ông có nhiều công trình giá trị về Dân tộc học. Em trai là: Đạo diễn nổi
tiếng Cầm Kỷ với các film “Chom và Sa”, “Trở về Xam Sao”.
Con
trai là Tiến sĩ ngành ngân hàng Cầm Kiên, phó giám đốc Ngân
hàng nông nghiệp Việt Nam.
2/ -
Nhà dân tộc học Cầm Trọng: với tác phẩm nổi tiếng “Người Thái ở Tây bắc Việt
Nam” và nhiều tác phẩm khác.
3/ -
Hoàng Nó (Cầm Văn Lượng) - nhà giáo nhà thơ - làm tới chức Bí thư tỉnh ủy
Sơn La, ủy viên trung ương Đảng CSVN.
4/
- Cầm Ngoan: Phó chủ tịch khu, chủ tịch UBHC Nghĩa Lộ, Sơn La,
phó chủ tịch Quốc Hội.
5/ -
Cầm Liên (Cầm Văn Yêu) - Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La
6/ -
Nhà văn Sa Phong Ba (Sa Viết Sọi) sinh 1948, Thái ở Cao Đa (Bắc
Yên) Hội Viên Hội nhà văn Việt Nam, có nhiều truyện ngắn đặc sắc.
7/ -
Điêu Chính Ngâu, Thái trắng Quỳnh Nhai, dịch đầu tiên ra tiếng phổ thông “Sống
chụ son sao” (Tiễn dặn người yêu).
8/ -
Nhà thơ Cầm Hùng (1945) quê Chiềng Xôm (Thị xã Sơn La) thượng
tá, chủ tịch Hội văn học nghệ thuật tỉnh Sơn La.
9/ -
Nhà nghiên cứu văn nghệ dân gian Hoàng Trần Nghịch (1934)
quê Sông Mã, đại học, có nhiều tác phẩm sưu tầm, nghiên cứu dịch
thuật.
10/
- Nhà thơ Lò Vũ Vân (1943) Thái, Noong Đa (Bắc Yên).
11/
- Họa sĩ Lò An Quang (Bản Cọ, TX)
12/
- Nhạc sĩ Cầm Bích
13/
- Nhạc sĩ Cầm Minh Thuận (1944) Phù Yên, có “giao hưởng bài ca Tây Bắc”
“Liên khúc tiễn dặn người yêu”.
14/
- Nhà thơ Vương
Trung (Lường Vương Trung) Mường É, Thuận Châu - 1938 - Hội viên hội nhà văn VN.
Tác
phẩm: Ing Éng (thơ), Mối tình Mường Sinh (tiểu thuyết), dịch Táy Pú Xấc, Chương
Han.
15/
- Nhà thơ Lò Văn Cậy (1928-1994) quê Sốp Cộp (Sông
Mã) Hội viên hội nhà văn Việt Nam. Có tuyển tập thơ Lò Văn Cậy.
16/
- Nhà thơ Lò Văn E (1933-1995) quê Sốp Cộp.
17/
- Phó giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Lương (1944) Thái Phù Yên, chủ
nhiệm bộ môn Dân tộc học, khoa sử Đại học Quốc gia có nhiều công trình về dân tộc
học.
18/
- Nghệ sĩ ưu tú Vi Hoa (nữ, hát)
19/
- Phát thanh viên VTV1 Cà Kỳ Vọng (Người bản Phiêng Ngùa).
Đặc
điểm: Các quan chức ở Sơn La xưa và nay đứng đầu bản Mường, xã, huyện, tỉnh thường
là trí thức người bản địa (Thái, Mèo), có uy tín với nhân dân, có năng lực quản
lý (cai trị) có tín nhiệm với trung ương.
Từ sau
khi tái
lập tỉnh các vị như Hoàng Nó (Bí thư tỉnh ủy), Cầm Liên (chủ tịch UBND tỉnh), Cầm
Ngoan (Chủ tịch UBND tỉnh Kiêm phó chủ tịch Quốc hội), Thào Xuân Sùng (HMông,
Bí thư tỉnh ủy), Tòng Thị Phóng (Bí thư tỉnh ủy rồi là ủy viên Bộ chính trị,
phó chủ tịch Quốc hội), Lù Văn Que (phó chủ tịch UBND tỉnh, thứ trưởng UB dân tộc
của chính phủ); các tướng như Lò Văn Nhài, Cầm Xuân Ế…, các anh hùng liệt sỹ
như Lò Văn Giá, Chu Văn Thịnh là những tấm gương tiêu biểu, niềm tự hào của
nhân dân các dân tộc Sơn La qua 2 cuộc kháng chiến và xây dựng quê hương ngày một
giàu đẹp.
Bài
41
Nghi
thức chung: nhà nào có người mất, báo Trưởng tộc đến chủ trì, chọn 1
nhóm dâu rể đến túc trực - rồi phát tang.
Chết,
rất kiêng kỹ ngày “mão” đó là ngày con Ong, ngày vất vả -
nếu chết vào ngày này là phải đắp chiếu coi như còn sống (Kiểu ở xuôi để cưới
chạy tang) chờ hôm sau mới coi là “chết”. Ngoài ra còn kỵ ngày Hợi, phải đợi giờ
Dần làm giờ chết để trị các loại ma (phí).
Sau
khi tắt thở: con cháu vuốt mắt, tắm nước lá thơm, thay quần áo mới nhất rồi
khâu vài đồng bạc trắng vào cổ áo (khót ngân khót có sửa) và vào 2 mông quần,
khâu phía đầu mảnh vải căng trên cây nêu (co cao) ngoài mộ.
Cây
nêu làm bằng cây tre cao 5-7 mét dựng hướng về Nậm toóc tát (thác đầu nguồn) có
cành ngang để treo áo người quá cố (đàn ông áo đỏ, đàn bà áo dài) trên dọc cây
nêu có dải vải màu trắng và đen ở giữa có mảng thổ cẩm, đối với người già, dải
vải dài 7 xải, tuổi trung niên 3 sải rộng 1 gang tay, đó là cờ ma (mạng lỉu
heo). Trên cây cao buộc con ngựa gỗ “ngày về trời theo cánh ngựa bay”, hướng về
đầu thác nước để hồn có ngựa cưỡi bay về trời. Bên cạnh cây nêu buộc 1 máng nứa
có thóc có cỏ cho ngựa (gỗ) ăn. Riêng hồn người thì không phải đem theo thức ăn
vì đã có ông thầy Mo cúng bái “làm tang” (dẫn nhập hồn vào Mường ma) “Pết
cáy Xam háp bung, Xam háp khẩu nặm pay toi” (gà vịt 3 gánh, cơm nước
3 gánh đem theo nồi).
Cây
nêu bên mộ sau 1 tháng tự đổ là điềm tốt nghĩa là hồn đã về trời (người
kinh là sau 49 ngày cúng cơm) chưa đổ là gở với gia chủ, nên do đó khi chon cây
nêu phải chọn người biết làm, gần gũi với tang chủ.
Khi
khâm niệm (cộn pang) phải có 2 mảnh thổ cẩm lót dọc 2 sườn xác
- quần áo buộc dọc xác và có dây buộc hộ tro hỏa táng (sai chaư). Mỗi con đẻ có
1 bộ quần áo để vào cái “sa” đặt bên quan tài, con dâu thì mỗi người 1 dải vải
trắng vắt buông phía trên quan tài, con trai được đứng trước ngực người quá cố,
con gái ngồi ngang thân quan tài, con dâu đội khăn chóp trắng, áo đen dài, khẩu
vải thổ cẩm đỏ vào tà áo ngồi phục bên cửa vào của nhà sàn.
Không
được đến gần nơi quan thi hài. Khách viếng, con dâu ngồi phục cảm ơn tiễn
khách, cơm trưa và chiều cúng thủ lợn, 4 chân, tim gan, rể phải đưa
cỗ vào cúng bố mẹ vợ, không có thì cháu rể thay, cỗ có 3 mâm, mâm gạo và hoa quả,
mâm vịt luộc, mâm lợn luộc: mỗi mâm có 4 chén nước, 6 chén rượu và 50 xải vải
trắng gấp gọn đặt trên 1 thang tre, con rể cả khấn “ông, bà đi, chúng tôi con
cháu đã lo được mâm cỗ, xin nhà ngoại nhận cho”.
Sau
đó trải tấm vải trắng lên quan tài, trên đó có những miếng vải nhỏ
như đuôi cá viết chữ Thái kể công đức người quá cố, cầu mong ông (bà) phù hộ.
Xong xuôi bên rể nâng vải lên đầu làm cẩu cho hồn đi qua tới khi ông mo đọc hết
bài cúng.
Sau
khi viếng, cúng…đem thi hài đi hỏa tang. Xác được bó vải đặt trên
1 cái kiệu tre khiêng ra gò đất cao cạnh Paheo (nghĩa địa - rừng ma) chất củi
xung quanh đổ thêm dầu hỏa rồi châm lửa đốt, tro xương cho vào 1 chum nhỏ đem
chon vào huyệt mộ…
Tục
ngữ có câu “cốc cồ lộn báư bên/ vên tai báư hụ” (không tự nhìn
thấy gáy mình/ ngày chết không ai biết trước), sinh có hẹn, tử bất kỳ là vậy!
Bài
42
CỔ TÍCH
1,
Tháp Mường Và: ở Sốp Cộp (huyện mới tách từ huyện Sông Mã, là Tháp của dân tộc
Lào).
2, Đền
thờ vua Lê Thái Tông (1423-1442) và văn bia Quế lâm ngự chế.
Là vua
trẻ anh minh, vua đã 2 lần thân chinh lên Sơn La dẹp loạn phản nghịch. Vào
tháng 3 năm canh thân 1440 và 1441 trên vách đá (núi) nhìn xuống cánh đồng Chiềng
An có khắc 1 bài thơ chữ Hán “Quế Lâm Ngự Chế” nhằm khẳng định sự toàn vẹn lãnh
thổ và mong thiên hạ thái bình. Trải qua 500 năm chữ khắc vào đá còn rõ nét ở cửa
Động La.
Đền
thơ vua Lê Thái Tông mang dáng dấp đền cổ Việt Nam (khởi công 9/2001, khánh
thành 22/1/2003) để ghi công đức vua và là nguyện vọng chính đáng của nhân dân
Thành phố Sơn La hôm nay ở tổ 2, phường Chiềng Lề.
Theo
Đại Việt
sử ký toàn thư thì 2 năm 1440 và 1441 vua Lê Thái Tông đi đánh tên phản nghịch
Nghiễm ở Châu Thuận Ma, đem quân theo người Ai Lao (Lào) làm phản.
Vua
thân chinh điều khiển 6 quân tới trị nó. Thượng Nghiễm kế cùng lực tận,
dâng voi xin hàng. Ta thương nó quỳ bò không mang vũ khí,
không nỡ chém, bàn tha tội cho nó, rồi đem quân trở về, để lại bài thơ khắc
trên vách hang Thẳm báo kế:
Nghĩ đến
người xa đêm khổ tâm,
Thổ tù sao
lại dám quên thân
Thế gian
đã có anh hùng chúa,
Thiên
hạ ai tha kẻ nghịch thần…
Đường
xá khó khăn đừng cậy hiểm,
Hang
cùng đá ấm áp hơi xuân
Yên được
dân lành nhơ nhớp hết,
Dân
xa được hưởng tấm lòng nhân.
(Năm đầu
niên hiệu Đại Bảo)
Canh
thân 1440.
Nguyên
văn chữ Hán là:
Bộ chẩm
lưu tâm niệm viễn chân,
Man
tù hà sự tốc vong thân.
Thế gian
nhược hữu anh hùng chủ,
Thiên
hạ thùy dung
phản nghịch thần.
Ồ đạo
duyên vân không thị hiềm,
Âm
nhai rương noãn kỷ diên xuân.
Cách
trừ ô nhiễm an dân thiện
Nhẫn
sử hà mạnh ngoại chí nhân.
3,
Di tích nhà tù Sơn La trên đồi Khau Cả (Thành phố Sơn La): Pháp xây dựng năm
1908, giai đoạn 1930 - 1945 chúng giam cầm đày ải 1007 lượt chiến sĩ cách mạng
Việt Nam với các tên tuổi lớn như các ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Trần
Huy Liệu, Lê Thanh Nghị, Song Hào, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Cơ Thạch, Mai Chí Thọ,
Trần Quốc Hoàn, Hoàng Tùng, Tô Hiệu.
4,
Nghĩa trang liệt sỹ Tô Hiệu và các liệt sỹ hi sinh ở nhà tù Sơn
La, ở thân đèo Khau Cả phía quốc lộ 6 lên Thuận Châu (Xem thơ “Qua
thăm gốc ổi” của Trần Huy Liêu).
5,
Sân bay Nà Sản: Tháng 10/1952 quân đội ta bao vây tấn công đợt 3 vào
Nà sản…đã làm quân Pháp mở ra bài học để Đại tướng Henrie Navare hi vọng
sử dụng căn cứ mạnh, có yểm hộ của máy bay và lấy mẫu từ 1 căn cứ ở Miến Điện của
quân Anh để xây dựng cứ điểm Điện Biên Phủ “dụ” tướng Giáp lên quyết chiến…(căn
cứ Nà Sản là để ngăn quân ta tiến công quân Pháp ở Lào). Ngày 9 - 8 - 1953 quân
Pháp rút khỏi Nà sản bằng không vận sau 1 thời gian cầm cự.
6,
Ngã ba Cò Nòi: nơi đây được Tây gọi là “ngã ba tử
địa” chỉ trọng năm ngày từ mùng 1 đến 5/4/1954, máy bay quân Pháp đã dội xuống
đây 36 tấn bom để hòng ngăn chặn quân ta… Địa danh Ngã Ba Có Nòi đã đi vào
trang sử vàng chói lọi của TNXPVN, nơi có đài tưởng niệm 100 chiến sĩ TNXP hi
sinh, tại đây để phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.
7,
Di tích cách mạng Lào ở bản Lao Khô, Xã Phiêng Khoài, huyện Yên
Châu.
8,
Di tích lịch sử Kỳ Đài Thuận Châu: ở cách trung tâm huyện
lỵ Thuận Châu (Chiềng Ly) 1 km về phía tây. Ngày 7-5-1959 kỷ niệm 5
năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ và 4 năm ngày thành lập khu tự trị Thái Mèo,
Bác Hồ cùng đoàn Đại biểu chính phủ (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhà thơ Tố Hữu,
Bộ trưởng y tế Phạm Ngọc Thạch) lên thăm đồng bào và chiến sỹ Tây Bắc… đã được
tổ chức một cuộc mét ting lớn ở đây (thủ phủ Khu tự trị lúc bấy giờ)
Bài
43.
Nơi
trời ghé xuống hôn mặt đất
Núi
vồng lên ôm ấp mây trời
Cứ như thể ta
bay vào bát ngát
Giữa đất
trời hạnh phúc sóng đôi
(NK)-
Tên
đèo Phạ là trời, Địa là đất(còn gọi là Vách trời), hàm nghĩa đây là nơi tiếp
giáp giữa đất và trời trên QL 6 từ Thuận Châu Sơn La đi Tuần Giáo (Lai Châu) ở
cây số 360 - 392, đèo dài 32 km, điểm cao nhất 1648 mét, nơi có cột truyền hình
nặng 70 tấn, chịu sức gió 200km/h; dốc đèo 10% - 19%.
Ở
chiến dịch Điện Biên Phủ đoạn đường trên đèo Pha Đin phía ta có 8000 thanh
niên xung phong “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, suốt 48 ngày đêm máy bay
Pháp dội bom chặn đường lên của quân ta.
Từ năm
2006 - 2009 sửa Quốc lộ 6, đèo cũ được bỏ (tránh), làm đường mới ở độ cao thấp
hơn phía trái Quốc lộ 6 cũ, cao khoảng 1000m (thấp hơn cũ 200 - 400m) xe cộ đi
lại dẽ dàng.
Đèo
Pha Đin có thể coi là thắng cảnh “đệ nhất hùng quan” của Sơn La - Tây Bắc nắng
gió, sương mù, mây ngợp
luôn, mát lạnh, thanh sạch như 1 cõi thần tiên khi ta lên tới đỉch.
Bài
44:
1,
Suối nước nóng Bản Mòng (Thành phố Sơn La) cách trung tâm thành
phố 6 km về phía Tây Nam có suối nước nóng bản Mòng, nhiệt độ là 38oc
nhiều chất khoáng tốt cho điều trị khớp, thần kinh…
2,
Suối nước nóng Ngọc Chiến ở độ cao 1800m/s mặt biển, nơi cư trú 3
dân tộc: Thái trắng, Hmông, LaHa nơi nhiều Táo mèo (Sơn tra). Có mỏ nước nóng
chảy qua bản Lướt, tắm gội đẹp da.
3, Mỏ nước
thần ở bản Miềng, xã Mường Lèo, rất ấm từ núi chảy ra, tắm chữa bệnh.
4,
Chỗ bản Ít tong (huyện lỵ Mường La) cũng có 1 khúc suối nước
nóng, mùa đông bốc hơi nghi ngút, nóng gần 50ođượm mùi khoáng:
tắm, uống đều thấy khỏe hẳn ra.
Bài
45
Người
Thái trắng (Quỳnh Nhài và các noi) thường thì vào chiều 30 tết âm lịch…coi như
thời điểm chuyển giao từ năm cũ sang năm mới. Mọi nhà chuẩn bị tết, còn cá nhân
thì tắm gội mặc quần áo mới, tiếng chiêng trống vang lên đón tết…mọi người
trong bản ra suối, sông thăm gia “lễ gội đầu”, coi đây là lễ hội mở đầu cho 1
năm mới, đó là để rửa trôi đi những cái vất vả, bệnh tật, những điều không may
mắn của năm cũ, tống tiễn tai ương theo dòng nước đi mãi không lặp lại…đồng thời
cho con người sức khỏe, năm mới tốt lành, gặp điều hay, làm ăn phát đạt. Để chuẩn
bị cho lễ hội gội đầu trước đó cả tuần chị em đã vo gạo nếp lấy nước, đổ vào
cái nồi cất giữ để cho càng lên mùi chua càng tốt. Đó là nước gội cho phụ nữ. Nồi
nước tắm là nồi nước thơm của cây mùi già. Còn cánh đàn ông gội nước bồ kết nướng
ai nấy áo cóm, váy đẹp cùng chiêng trống kéo ra bờ suối, bờ sông.
Chị em
cởi trần, kéo cạp váy
lên phía trên ngực che vú, cúi đầu buông tóc tiến hành gội từ nước gạo nếp
chua, nước lá thơm, nồi xõa theo dòng nước…
Đàn
ông thì quần cộc, cởi trần gội,…Ngoài ra cánh đàn ông còn mang súng kíp ra bờ
sông bắn nổ to vài phát tiễn năm cũ đón năm mới hòa trong tiếng chiêng trống ấm
vui của cả bản.
Gốc
gác sự tích của “lễ hội Lung ta” (lễ hội gội đầu)
là trong buổi lễ: Ông Mo còn hát kể về công lao của nữ tướng
Nàng Han xưa (con gái 1 Tạo Mường) cầm quân đánh tan giặc ngoại xâm, đuổi chúng
tới tận cõi Mường Xo (Phong Thổ - Lai Châu)…Dẹp xong giặc; cho quân sỹ nghỉ
ngơi, tắm gội trên dòng Nậm Te (Sông Đà) để ăn mừng chiến thắng…vì thế người
Thái Trắng vùng Sông Đà đến nay vẫn còn lưu lại phong tục này - đó là lễ hội
lung ta (xuống bến nước làm lễ gội đầu) vừa là tẩy trần sạch sẽ vừa là để tưởng
nhớ vị anh hùng dân tộc…
Bài
46
Cao
nguyên Mộc Châu ở độ cao 1050m so với mặt biển, cách Hà Nội gần 194
km (quốc lộ 6), rộng khoảng 25 km, dài 80 km với 16000 ha đồng cỏ, mùa hè mát mẻ
(20oc) mùa đông rét đậm, khô ráo, mù sương…
Đây
là vùng lý tưởng để nuôi bò sữa (toàn vùng đã nuôi 7200 con, công ty hò sữa Mộc
Châu có 3500 con, đạt sản lượng 7000 tấn sữa tươi/năm, toàn vùng trên 7000 con
đạt trên 28.000 tấn/năm, năng suất 20,5kg/con/ngày).
Đây
là những đồi chè nối tiếp nhau bát ngát, ta cứ ngỡ tới vùng chè Cameron
Highland ở Malaysia? Từ thị trấn nông trường, tới Tân Lập, Cờ đỏ đi vào Ngũ động
bản Ôn là những sóng đồi chè xanh tươi…toàn vùng có tới 3200 ha chè (toàn Sơn
La khoảng trên 4000ha) đó là chè Phiêng Khoài (Yên Châu), chè Nà Sản, Phiêng Cầm
(Mai Sơn), chè Phòng Lái, chiềng pha (Thuận Châu), chè Tà Xùa (Bắc Yên); ở Mộc
Châu có 6 công ty - nhà máy chè…trồng và chế biến các loại chè San Tuyết, trà Ô
Long, trà Kim Tuyên…tổng số trên 3000 ha các loại, trong đó hơn 2700 ha đạt
năng suất cao 74,1 tạ/ha.
Mộc
Châu đang là nơi du lịch lý tưởng của người Hà Nội đến
với vùng khí hậu ôn đới gần nhất: 194 km, đi ô tô mất 3 giờ đồng hồ. Đó là các
điểm:
-
Đông Sơn Mộc Hương, nằm ngay trung tâm thị trấn nông trường với diện tích
6915 mét vuông, từ quốc lộ 6 đi vào có 150 mét, qua 240 bậc tới
cửa hang, di tích người xưa 3000 - 3500 năm.
-
Thác Dải Yếm (thác Nàng) thuộc bản Vắt, khởi nguồn từ 2 khe nước Bó co lắm và
Bó tá cháu chảy ra thành suối Vắt, qua 5 km hòa vào suối Bó Sập giáp biên giới
Việt Lào chảy về phía Yên Châu tạo ra thác dải yếm mùa mưa, thác rộng 70m.
- Rừng
thác sải yếm đi
ngược quốc lộ 43, khoảng 600 m rẽ sang 1 hẻm đi 300m là vào bản Vặt (Thái) khá
phát triển nghề dệt Thổ Cẩm - ở đây có lễ hội xe chá, ẩm thực trên hồ Noong
Buông.
- Thắng
cảnh đỉnh núi Phiêng Luông cao 1500m (ngang Tam Đảo) trên đỉnh là 1 bãi
bằng sông cỡ 10 ha tha hồ hóng gió trông mây vùng biên giới Việt Lào.
-
Ngoài ra còn tham quan rừng thông Mộc Châu, thác Thái Hưng, chùa Chiền Viên.
Mùa
xuân đẹp nào hơn vườn đào Lõng luông, hoa mơ hoa mận ở vùng Mèo Vân Hồ?
- Ẩm
thực: Các cửa hàng ở thị trấn có các món
“lợn cắp nách” “đặc sản gà dai” lẩu dê nấu ngải cứu - các món nướng Thái, Lẩu
xá, cơm lam, xôi thơm….
Có thể nói
Mộc Châu - miền xanh thẳm cao vời vợi lưng trời, 1 viên ngọc bích ở địa đầu
miền Tây Bắc của Tổ Quốc đó là vùng nông thôn miền núi
ngàn đời hoang sơ dân dã đang công nghiệp hiện đại hóa ở 1 trình độ cao…đến
đây để ta vừa hoài niệm bâng khuâng, vừa hứng khởi trông về tương lai tươi sáng
và tràn trề hi vọng….
Bài
47
Tháng
6/1963, vào huyện Sông Mã (vùng biên giới Việt Lào) và tôi được các anh ở
đây kể câu chuyện “anh Sáng bắn Hổ”.
Số là hồi
1952 - 1953, vùng này là hậu địch, Việt Minh ta mới xây dựng được khu căn cứ nhỏ
với 1 đội du kích tuyên truyền vũ trang…anh em phải ở lán trong rừng, luôn di
chuyển để tránh địch, ăn thì nhờ lấy trộm gạo ở mả mấy người mới chết ngoài
Paheo (rừng ma), đào củ mài, hái rau rừng đợ bữa qua ngày. Trong đội có anh Lò
Văn Sáng vác súng kíp vào rừng tìm con don, con dím, con lợn rừng…Thế là vào 1
đêm anh đến phục sau gốc cây bên bờ hồ, chờ lũ lợn về uống nước, khoảng 10 - 11
giờ khuya, đám lợn vài con ủn ỉn đổ về ao (hồ), 1 ông ba mươi (hổ) to đùng, cỡ
con bò tháu cũng khẽ khàng bước ra “rình” vồ chú lợn choai (chắc mẩn, 1 bữa
ngon), gốc cây anh Sáng nằm phục cách hổ độ 7 mét… Đúng lúc Hổ vồ lợn thì anh
Sáng cũng bất thần nổ súng…một phát xuyên táo chết tươi 2 chú Hổ và lợn. Thật
là hi hữu “trời cho” may và tài, bình tĩnh chớp thời cơ…
Thế là 1
tiếng “hú” đồng đội anh chay ra: người vác lợn, người khiêng hổ về căn
cứ được 1 phen liên hoan xả láng…
Tiếng
lành đồn xa “anh Lò Văn Sáng người bắn hổ” làm vang danh tiếng tăm đội
du kích, làm bọn Pháp và tay sai hết hồn mỗi khi quân
ta tập kích đánh giặc trừ gian…cho đến ngày giải phóng.
Sau
này, anh Sáng tham gia công tác thoát ly, hồi 1962 - 1963…anh Sáng đã trở thành
Bác Lò Văn Sáng, chủ tịch ủy ban hành chính huyện Sông Mã: 1 vị chủ tịch râu
tóc bạc phơ, cao ráo, cường tráng (đẹp lão) thông minh tháo vát, ung dung thư
thái dẫn dắt (lãnh đạo) nông dân huyện sông Mã cùng cả nước tiến lên xã hội chủ
nghĩa.
Bài
48
Tháng
8/1983, sau khi đi họp Quốc hội kỳ giữa năm (tháng 6, về…bác Cầm Ngoan, chủ tịch
UBND tỉnh Sơn La, phó chủ tịch Quốc hội) goi
tôi (NK) ra thì thầm: anh sang bảo anh Thường (trưởng ty lâm nghiệp) 2 anh em
vào sông Mã chỉ huy trạm kiểm lâm cùng đồn biên phòng đi săn lấy 1 con voi rừng
để đón chủ tịch Trường Chinh sắp tới (vào dịp 2/9 lên thăm tỉnh). (1)
Thế là NK
tôi cùng anh Nguyễn Xuân Thường (khoảng 52 tuổi hơn NK 7 tuổi, người Mường ở
Yên Lập - Phú Thọ sang công tác hậu địch xa nhà từ hồi 1950, hồi 1963 làm bí
thư kiêm phó chủ tịch huyện Sông Mã, Bác Lò Văn Sáng làm chủ tịch) lên 1 xe u
oát, cùng khoảng 5 kg Keo Mậu dịch quốc doanh đem theo để làm quà cho bọn trẻ
các nhà thân quen (chẳng biết có đứa nào là “con gửi” của bí thư huyện ủy cũ
hay không, có trời mới biết?).
Đường
dài 120km,
qua 7 khúc suối (1 xe đi trên lòng suối), mất trên 10 tiếng đồng hồ thì tới Bản
Địa bên này bờ sông Mã, vào ở nhà chủ tịch xã Nà Nghịu, cũng là trung tâm thị
trấn huyện Ly. Điện thoại réo Hạt trưởng kiểm lâm (quân của trưởng ty lâm nghiệp)
và thượng úy đồn trưởng biên phòng về nhận lệnh…
Xong,
cả tối 2 anh em cùng chủ tịch xã, mới thêm cả phó chủ tịch huyện phụ trách nông
nghiệp: 4 anh em, 2 con vịt, ít cá sông, 1 hũ rượu cần, 1 chai lẩu xiêu “hảo
hán nớ” - au hảnh nớ…cạn chén bõ bao ngày xa cách (hồi tháng 6/1963, NK Tôi
cách đấy 20 năm, hồi mới ra trường, xung phong vào Sông Mã làm quân anh Thường
xuống chỉ đạo sản xuất ở xã Nà Nghịu…nên cả 2 anh em đều là người cũ, bạn cũ xa
lâu mới về… cuộc Kin lẩu (cuộc rượu) tới khoảng 11giờ đêm thì có tiếng vó ngựa
lộc cộc của hạt trưởng kiểm lâm chạy về: Báo cáo 2 anh đã trông thấy voi.
- Ừ thế
thì tốt, ngồi xuống, ta au hảnh (cạn chén) vài choác để lấy khí thế…
Chiều
tối hôm
sau, mấy anh em đang ngồi hàn huyên trao đổi xây dựng vùng cánh kiến Sông Mã, xử
lý vấn đề sấy Long Nhãn của bà con khai hoang Hưng Yên nên như thế nào?... thì
có tiếng xe đạp (hồi này chưa có xe máy) của thượng úy trưởng đồn biên phòng chạy
về báo cáo:
-
Thưa 2 anh, bọn chúng em phối hợp với kiểm lâm đã tiếp cận voi, con này
voi đực, ngà còn nhỏ, cỡ 7 - 8 tạ…
- Được,
cứ thế mà triển khai…
Sáng
hôm sau: Hạt trưởng kiểm lâm cùng phó chủ tịch huyện đến:
-
Báo cáo 2 anh em, nếu bắn được voi bọn em dự kiến ăn
chia như sau:
2
đùi sau, lá gan, vòi
và ngà xin gửi 2 anh về biếu tỉnh - còn lại: một ít huyện ủy, 1 ít ủy ban, còn
lại chia đều đầu người ở hạt kiểm lâm và đồn biên phòng.
- Thế cũng
được; các cậu xuống tận nơi xem anh em chúng nó “săn” thế nào,
phải chắc ăn đấy…
Chờ 2
ngày, bặt tin
Đến
ngày chờ thứ 3 thì cả 2 hạt trưởng và trưởng đồn hớt hải chạy về:
-
Báo cáo 2 anh, voi nó đánh hơi thấy không lành, nó sợ, chạy về Lào (bên
kia biên giới) mất rồi…
Ôi,
thế là cụt vòi, thế là hết chiều ni voi đi mãi…
Thật
là vô vọng - 2 anh em (NK tôi và anh Nguyễn Xuân Thường) không ai nói với ai
câu gì, chia tay huyện còn dặn với 2 chú em:
-
Các cậu cứ tiếp tục theo dõi bám sát trận địa, phát hiện thấy voi
thì “điện” ngay ra tỉnh…
Bữa
tiệc chiêu đãi chủ tịch Trường chinh lên thăm cán bộ, nhân dân tỉnh
Sơn La năm ấy diễn ra bình thường, Chủ tịch tuổi đã cao, ăn kiêng, không uống
rượu, tính cụ vốn là tiết kiệm (ăn uống đơn giản như Bác Hồ) nên các vị quan chức
đầu tỉnh bữa ấy cũng không dám “hảo hán nớ” - “au hảnh nớ”…
Và chú
voi (săn hụt) chắc là đang quay vòi vung vít như nhắn sang bên kia biên giới:
-
Vua chúa bây giờ có ý thức bảo vê động vật hiếm quý, không
ai được ăn thịt voi đâu nhé.
Chuyện
thật như đùa vậy!
Hà Nội,
11 - 3 - 2012
NK
(1)Lúc
này NK đang làm
Thư ký Đ/c
chủ tịch tỉnh
Bài
49
Múa
xòe, còn có tên “xòe khăm khen” (múa cầm tay), có từ xưa có 32
điệu, nổi tiếng nhất là xòe phong Thổ, xòe Mường Lò.
Phổ cập
là điệu “khắm khen” mọi người nắm tay nhau quay vòng tròn, biểu hiện cho tình
đoàn kết; điệu “khắm khăm mới lẩu” tức là nâng khăm mời rượu tỏ lòng yêu quý và
mến khách; điệu “đổn hôn” tức tiến, lùi nhào về phía trước ý nói trời đất dù có
bão giông, sống gió nhưng tình cảm con người với nhau thì luôn gắn chặt; Điệu
“phá xí” tức bỏ bốn, tượng trưng cho 4 phương trời đoàn kết giao lưu; điệu
“nhôm khăn” tức tung khăn thể hiện niềm vui mừng mùa màng thắng lợi, xây nhà mới,
sinh thêm con cháu, cưới xin…
Ở
vùng Mộc Châu - Mai Châu (Tày Đeng) có các điệu xòe chá, xòe ồng bổng, xòe kiếm,
xòe đánh máng…
Xòe ồng
bổng là 1 điệu múa xưa, động tác đơn giản, mọi người cầm tay nhau nhảy nhót
xung quanh đống lửa theo nhịp “hò huậy, hò huây” mừng thắng lợi giòn giã sau cuộc
đi săn về hoặc xung quanh vò rượu cần mừng nhà mới.
Đặc
điểm xòe này: trang phục bình thường chỉ có đàn ông xòe, “nhạc” miệng là
tự hô, cổ vũ người xem, vui nhộn phóng khoáng. Điệu xòe “đánh máng” dành cho nữ
giới, cứ 3 cặp mỗi cặp dùng 2 chày gỗ gõ vào máng dùng để giã gạo, tạo ra
tiếng chày giòn chắc, nhịp điệu mỗi lúc 1 mạnh…cùng trống chiêng rộn rã.
Các điệu
xòe (xe) được các nghệ nhân dân gian xây dựng (32 điệu) luôn mang bóng
dáng gần gũi với dân bản như “xe cúp” (múa nón), xe tẳng chai (múa
chai), xe kếp phắc (hái rau), xe cáp (múa sạp)…
Các điệu
xòe vòng sôi nổi bao nhiêu thì các điệu xòe đơn, xòe tốp lại
tinh tế duyên dáng bấy nhiêu - với triết lý âm dương: trời đất, nước
- lửa và ý nghĩa nhân sinh cao cả ẩn chứa kỳ ảo trong các điệu xòe Thái từ xưa
tới nay trong các cuộc vui liên hoan, lễ hội.
Bài
50
Từ xưa
người Thái đã làm “Pí” (sáo) để thổi chơi, gửi gắm nỗi niềm qua nốt
nhạc tiếng sáo giữa núi rừng mênh mông đèo heo hút, là công cụ để “pay ỉn
sao” nói tiếng lòng vào con tim người mà mình theo đuổi…
1,
Pí tam lay (pí nốc ống) cấu trúc gồm 2 phần: phần 1 là ống
phát âm nối với ống 2 làn phần khuếch thanh, ống 2 đôi khi được lắp
thêm 1 gáo tre (to) để tăng độ vang của âm thanh.
2,
Pí lào nọi
(sáo lào nhỏ): y hệt phần 1 của pí tam lay, bằng cây nứa tép, tuy khác là 1
hàng âm 6 lỗ.
Xuất
xứ: từ “pí” (sáo) có lẽ từ “pép” hoặc pép phan (pép hoẵng) do tục đi săn
hoẵng (từ pép đẻ ra pí cùng đồng âm). Trong đêm khuya ở rừng vẳng lên tiếng Hoẵng
kêu (Hoẵng giác) đó là lúc con đực đi tìm con cái để bắt chước tiếng Hoẵng gọi
bạn tình phải chăng vậy “pí” chỉ là 1 ống nứa tép mà véo von mà “bếp nhà sàn,
tiếng pí thổi say mê” là thế?
Ngoài
sáo còn có KHÈN…
Bài
51
Xứ Thái,
có thể nói là
xứ sở của hát thơ (khắp xư).
Vốn
thơ ca cổ truyền từ các tập biên niên sử “Quắm tố mướng”
hoặc sử thi “Tày pú xấc” cho đến các truyện thơ tình như Sống chụ son
sao, Khun lú, Náng Ủa, Tản chụ xiết xương, sử thi chương Han….với các bài thơ,
ca dao đều được dùng để “khắp” (hát)….
Bước
đầu đã có làn điệu “lòng bản” và cách hát riêng cho mỗi loại bài thơ, xét theo
hình thái sinh hoạt âm nhạc phân ra làm 2 hệ - theo Dương Đình Minh Sơn thì:
- Hệ tín
ngưỡng “hát thơ mo”
do giới mo then hát khi cúng tế lễ.
- Hệ
dân gian: hát kể chuyện tự sự, hát thơ tình, hát ví, hát hò trên sông, hát ru,
hát đồng dao……vv….
Ở
người Thái 2 chữ “thơ ca” quả là đầy đủ và ý nghĩa “Thơ để
giải bầy nỗi lòng, ca (hát) để ngâm vài lời thơ gửi đến những cõi lòng ai đó”.
Thơ Thái
là 1 thứ “kinh thi” bản địa, hồn quê hòa đồng với thiên nhiên trời đất.
Thơ dân gian Thái có 1 khối lượng đồ sộ với các truyện thơ, sử thi như đã nói ở
trên đã trở thành các tác phẩm thơ cổ điển nổi tiếng.
Thơ đương
đại của các tác
giả Thái Sơn La (thời cách mạng xã hội chủ nghĩa) thường dùng lời thơ để hát
(khắp xư) nói lên chí khí vươn lên của dân tộc mình, làm chủ bản Mường, cùng
nhau đoàn kết các dân tộc anh em dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đất nước
ngày 1 giàu mạnh - xin dẫn 1 số bài mới:
HÀO
QUANG KHẨU CẢ
(tác
giả tự dịch)
Từ xa
xưa ông cha đặt tên Khau cả (1)
Là nói
lên:
- Rắn
hơn sắt thép, cứng quá kim cương giống gieo trồng mọi đất xanh tươi
cho lúa chín hạt, quả ngọt nuôi người. Giặc Pháp muốn mượn oai hùng của núi, đặt
trung tâm thống trị tỉnh ta và thành nơi diệt nguồn anh hùng đất nước.
Nhưng:
Khâu
Cả là lò luyện con người gang thép chặt tan xiềng xích của thực dân, góp hun
đúc những Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu và bao chiến sĩ/ những
trái tim của cách mạng tỏa khắp non sông: chặt tan xiềng xích của thực dân
Pháp, phong kiến/ góp phần đánh thắng hai đế quốc to. Đồi Khâu Cả cùng sóng cao
cả nước giải phóng mình, xóa phu, thuế, nguột cuông. Dựng chính quyền cùng cả
nước Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc/ hào quang khâu cả vượt chín tầng/
mây như ánh sáng soi đường cho ta bay bổng.
Sơn
La, 9/7/1998
Hoàng
Nó
(Cầm
Văn Lường - 1925 đã mất)- quê Chiềng Ban, Mai Sơn.
(1)
đồi Khâu Cả: ngọn núi (đồi) ở giữa thị xã Sơn La, nơi trước 1945 Pháp xây dinh
công xứ (tỉnh trưởng) và nhà tù liền kề.
Sau
là trụ sở UBHC khu tự trị Tây Bắc, nay là trụ sở UBND
tỉnh Sơn La.
ĐÔI
BỜ THƯƠNG NHỚ
Mặt
trời đi qua sàn nhà người thương
Hạt
nắng còn vương bên thềm cửa sổ
Hoàng
hôn đi mặt trời không rủ
Để
anh buồn trong nỗi nhớ hoàng hôn.
Anh mượn
gió gửi lời câu thương nhớ
Mộc
mạc thôi, tiếng hát tự bao giờ
Mười
sẽ quên và chín sẽ quên
“Sông
Mã cạn bằng đĩa mới quên”
Chín
lần quên để ngàn lần thương nhớ!
Anh
là con thuyền trôi trong dòng sông đôi mắt
Để đôi
bờ bên nhớ bên thương
6/1997
Hà Trường
Giang (1950)
Quê huyện
sông Mã - Sơn La
VÀNG
VÀ THƠ
Một
câu thơ, một hàng vàng
Cân
coi thử, ai nặng hơn ai?
Nem
công, chả quế ăn vội
Không
hóc cũng cay!
Cà dưa,
tương ớt nhai lâu hóa ngọt
Anh
kiếm vàng chỉ bằng nước bọt
Tôi
làm thơ mệt óc, mỏi tim
Cái
gì giữ mãi hương
thơm
Vàng
bằng bọt dễ tan theo bọt
Thơ bằng tim, đậm mãi trong tim
Cầm Biêu (1920-1997)
Quê Mường Chanh - Mai Sơn
LỜI MẸ
Yêu nhau bằng lời nói
Mẹ bảo chưa đủ
Bằng mân khiêng cỗ nặng
Mẹ bảo cũng chưa no
Vội đón sau đón trước
Cành vướng sợi tơ lòng
Mẹ bảo!
Hãy lấy ngày làm
gang để đếm
Lấy tháng làm sải để đo tấc
lòng
Mưa to có cùng nhau hứng?
Mặt trời làm tấm gương soi
Soi vào khuôn mặt
Soi vào lòng dạ tim gan
Ốm đau, ai tránh khỏi đôi lần
Giầu nghèo có lúc cánh cửa kẹp
ngón tay
Đắng, ngọt, chua, cay, nhạt…
Đầu lưỡi nếm cho rành
Tự đáy lòng mình
“cân đong”
Xử sự công bằng
1983
Lò Văn Cậy (1928 -
1994)
Quê Sốp Cộp - Sông Mã
HOA RỪNG
Thấy em lượm bông vạt nương chân núi
Như đứng giữa dải ngân hà
Anh vứt bó cây, chạy ngay tới
Chẳng đợi em ưng ý
Anh cứ mà lượm theo.
Mới đầu anh lượm cây này, em lượm
cây kia
Rồi lượm chung cây
Lượm chung cành
Lượm cả tay nhau.
Mặt trời bảo về, ta chưa muốn
Ta trốn mặt trời dưới rặng vừng bên
nương
Tắm trong hương hoa vừng thơm ngát
Gió ngàn ru nghiêng ngả vừng
xanh
Tia trời chiều vuốt ve áo hoa em lay
động
Hàng cúc bạc long lanh
Ngực em mười đôi cúc bướm
Có mười đôi bóng anh lẫn mười
đôi bóng hoa vừng
Ngực rực hồng tia nắng
Ngực ngấn đầy hương hoa.
Vương Trung (1938)
ÁNH CHỚP TRỜI XA
Mưa rơi trên núi Giảng?
Chớp lóe sáng chân mây!
Ai phơi gì sàn ngoài
quên dọn. Mau dọn!
Cụ bà vừa nhắc cháu vừa
than:
- Tháng 5, tháng trời buồn, không buồn
Tháng 6, lặng mưa dông - Sao dông
(1)
“Rồng chọi rồng” ngày đêm không ngớt.
Cất tiếng cười hai cháu cầm tay
- Ánh lửa hàn nhà máy,
Bà ơi!
(1) Tục ngữ: Tháng 5: trời buồn
Tháng 6: trời kiêng mưa
Sơn
La 19 - 5 - 1979
Lò Văn
E (1933 - 1995)
Quê Sốp
Cộp - Sông Mã
NHỚ CON
Có điều
gì sánh được
Mẹ nhớ con
Thương
từ những lỗi lầm
Mưa
lâm thâm mà lòng mẹ thành bão
Nắng
lên rồi nỗi nhớ hóa là mây
Tình
yêu của mẹ là trái chín trên cây
Để
cho con bốn mùa hương vị ngọt thật đắm say
11
- 1992
Cầm
Thị Phụi
(Phó chủ tịch
HĐND tỉnh)
ĐÊM
HỘI MÚA XÒE
Tiếng
trống, tiếng cồng vang giục giã
Như chắp
cánh niềm vui bay cao
Cả “Khuống” mường
bỗng dưng nghiêng ngả
Với
vòng xòe nhún nhẩy say sưa
Đôi
chân thon thon quen theo lối nương.
Đôi
chân bè đạp mòn lối ruộng
Quyện
bên nhau rập rình
“Khắm
xéo” quàng trên áo cóm
Tất
cả rung lên, cả rừng hoa chao đảo
Cái
dùi gỗ băm trên mặt trống
Rền
như giông, như sấm
“Họa…họa…Huệ…Huệ…”
Cả vòng
xòe cuồng lên
Theo
nhịp trống, nhịp tim
Tung
chân nhảy hết mình, hết sức
“Đàn
bướm” cúc muốn bay khỏi ngực
Chiếc
mũ nồi, cũng chực bay theo
Vòng
xòe quay, quay mãi không ngừng
Lương
Văn Tộ (1946)
Quê Sông
Mã - Sơn La
CÂY
BAN TRÊN RỪNG
(Tác
giả tự dịch)
Ào
ào bãi xoáy
Đá
lăn, cây đổ
Thân
sâng, gốc sở ngổn ngang
Một
cây Ban đứng điềm
nhiên
Cạnh
lối lên nương làm cỏ
Hỏi
giông, hỏi gió
Sao
Ban kia vẫn bình yên phận thường?
Cây
ban rằng: “hòa tình yêu”
Trắng
trong tuổi trẻ
Chung
thủy tận già
Lửa
mường đất gốc, chưa thành than
(thì không
thể chết
Gió dập
thân, cành, chưa tan tành em vẫn tươi xanh)
Một
cây Ban
Đứng
trên nương
Lò Xuân
Thương (1936)
Quê Púng
Tra - Thuận Châu
CHIỀU
BẾN VẠN (1)
Bến
cũ đâu hỡi sông?
Bến ở trong
lòng nước
Miệt
mài ngày đêm chảy
Về Hòa
Bình khơi xa.
Bản
tình ca bất tận
Gập
ghềnh đá nơi đâu?
Ở
trong lòng nước ấy
Với
biển hồ phẳng lặng
Xóa
những dòng vách ngăn.
Và mai
lên
Ngược
xuôi
Thuyền đánh
cá
Và chiều
buông
Sương
giăng tròn
Trăng
xóa
Còi
tàu vang xa, vang xa
Bến
Vạn Yên 1995
Hoàng
Bạch Long 1949
Quê Huy
Thượng - Phù Yên
(1)
Bến Vạn Yên: Phố
nhỏ Vạn Yên, bên bến Sông Đà, xã Tân Phong, Phù Yên ….xưa là Sông Đà ghềnh thác,
nay là Hồ Thủy điện mênh mông.
KHOẢNG
XANH
Gió Lào
mang hơi lửa
Hun
sém cả trưa hè
Cháy
khét tiếng ve
Rừng
tre trơ trụi lá
Con
chim vội vã sà xuống khe trốn
Sợi
nắng muốn chăng đan mặt cỏ
Nhưng chẳng sao, chẳng sao cả
Trái đất đã quen mùi khắc nghiệt!
Đến con kiến cũng còn phải ung dung
thư thái
Miệt mài tha mồi về tổ
Ai như quả bứa chín vàng
mơ
Trong trẻo giữa trưa hè
Thời gian nhòa vào im lắng
Một khoảng không trống vắng
Vỗ ào vào cánh xanh
Lò Vũ Vân 1943
Quê Bắc Yên - Sơn La
XUÂN BẢN THÀN
Tết
Ở bản Thàn
Cái vui
Sôi lên từ hũ rượu cần
Bụng trống
Vú chiêng
Rung lên
Cả mái sàn chao đảo
Đỉnh núi cao lúc lắc cái đầu
Măng vầu
Măng sặt
Dỏng tai đón mưa rơi
Xuân 1996
Lò Vũ Vân
BIỂN Ở THẢO NGUYÊN
Ở độ cao một nghìn năm mươi mét
Rất xa biển nên thèm nghe sóng biển
Mượn gió ngàn làm sóng vỗ lao
xao
Ước có biển nên gom mây về làm biển
Biển Thảo Nguyên biển trắng vỗ mênh
mông
Đảo là những ngọn thông, chóp núi
Cho thuyền chim đi về neo đậu
Thảo nguyên xanh đắm mình trong màn
huyền ảo
Đưa ta về thời xưa cổ tích
Dưới đại dương lộng lẫy thủy cung?
Biển Thảo Nguyên chỉ trong trưa
khoảnh khắc
Bỗng chốc tan - biển biến về đâu?
Ánh nắng vàng chuốt ngọc lên lá
Lại trong veo, ngời sắc Thảo Nguyên.
Thảo Nguyên Mộc Châu hè 1997
Lò Vũ Vân
NHỚ VỀ PHỐ VẠN
Chúng tôi dân tứ xứ
Gặp nhau ở nơi đây
Dựng nên một Phố nhỏ
Phố Vạn Yên, Vạn Yên (1)
Anh Phúc Kiến, Quảng Đông (2)
Tôi Mường Bi, Mường Động (3)
Còn chị hay mơ mộng
Theo chồng lên nơi đây
Là dân
Nam Định đó (4)
Một
dãy phố nhỏ thôi
Bao
dòng đời đã chảy
Tụ về Phố nhỏ này
Nhớ bến
Vạn thuở ấy
Thuyền đuôi én
ngược xuôi
Ai
đi xuống chợ Bờ
Ai
ngược dòng Đà Giang
Lên
Mường Chiên, Mường Ét
Dòng
sông vẫn êm trôi
Nối
phố nhỏ của tôi
Với
bao bờ thương nhớ
Ơi bến
Vạn, phố Vạn
Phố của
chúng tôi đó
Mùa đông
heo hút gió
Tết
về câu đối đỏ
Tiếng
pháo lại rộ vang
Tiếng
chuông điểm đình Ang (7)
Tiếng
trống vang đình Hán
Hồn
thiên cổ bay về
Bản
làng trong khói hương
Mùa
hè nóng rát bỏng
Những
cây phượng trước ngõ
Lại
cháy đỏ màu hoa…
Nay
phố đã đi xa
Chìm đáy
nước sông Đà
Ôi
phố núi nho nhỏ
Phố của
chúng tôi đó
Vẫn
cháy màu phượng đỏ
Trong
lòng mỗi chúng tôi
Rồi
một ngày không xa
Hoa
phượng lại rực đỏ
Trên
phố mới nguy nga
Tôi
lại viết bài ca
Về bến
Vạn, phố Vạn
Phố
của hoa phượng đỏ
Thắm
mãi bên sông Đà
6/1996
(1)
Bến phố Vạn Yên (Tân Phong, Phù Yên)
(2)
2 tỉnh của quê gốc người Hoa
(3)
Thuộc Hòa Bình quê người Mường
(4)
Chợ Bờ (Hòa Bình), nay chìm dưới hồ
(5)
Thuộc Quỳnh Nhai
(6)
Đình Ang, Đình Hán là 2 ngôi đình thuộc xã Tâm Phong
Nhà thơ Đinh
Tân (1942)
Dân
tộc Mường
Quê Tân
Phong, Phù Yên, Sơn La
Điều
tra dân số 1/4/1999: Toàn tỉnh có 882.077 người (đến 1/4/2009 có 1.080.641 người).
Có 12 dân tộc anh em.
Thái
|
482.985
|
Người
chiếm 54,7 %
|
Kinh
|
153.646
|
Người
chiếm 17,42%
|
Hmông
|
114.578
|
Người
chiếm 13,00%
|
Mường
|
71.906
|
Người
chiếm 8,15%
|
Các
dân tộc khác
|
Người
chiếm 6,73%
|
Trình
độ dân trí tính đến 2002:
Tỉ lệ biết
chữ 70,8%
Học
sinh phổ thông 220.430 em
Giáo
viên 10.209 người
Thầy
thuốc (y, bác sỹ) 26 người/1 bệnh viện
Bài
52:
“Ngắm
họt Mường Muỗi
Nhớ
về Châu Thuận”.
Với
nghìn năm lịch sử, bản Mường Chiềng Ly là trung tâm chính trị - kinh
tế - văn hóa của 18 Châu Mường Tây Bắc….đã để lại nhiều giai thoại về các
mối tình khá cảm động.
1)
Mối tình thứ nhất: Khun Lú - Nàng Ủa.
Thuở đó,
Then (chúa tể của Mường Trời) sinh hạ được một nàng công chúa đặt
tên là Cong Péng. Lớn lên Nàng xinh đẹp và thông minh hơn người.
Trên Mường Trời chẳng có ai xứng làm chồng Nàng. Duy nhất chỉ có Then
(cha) là xứng đáng. Nhưng luật đời không thể loạn luân. Vì vậy Then gọi nàng đến
cho xuống trần gian làm người, hẹn 23 năm sau sẽ trở về trời.
Dưới
trần gian khi đó có Phìa Chiềng Ly, quyền uy lừng lẫy, sinh được 2 quý nữ
đào tơ.
“Cắm
xôm, chị khiến trăng mờ
Nàng
em Ngân Liếng, cá ngơ ngẩn nhìn”
Một
hôm, khi “hè đã sang Ban tàn rừng biếc/ muôn loài ve tha thiết kêu ran/
mưa rào tràn ruộng bậc thang/ nắng oi đã gọi 2 nàng ra sông/ tuột váy áo vẫy
vùng sông nước/ Phô tấm thân ngà ngọc dưới trời/ Từ trời, trời ngắm trời coi:
eo như tiên cá, 2 chồi như hoa/ Trời thầm tính: ta đà có cách/ gửi con ta vào
quách 2 nàng…” Thế là công chúa Cong Péng được biến thành một quả sung chín mọng
và thơm phức trôi đến 2 nàng đang tắm; 2 chị em bắt lấy và chia nhau ăn
Nàng
Ngân Liếng ăn liền mát dạ
Nằng
Cắm Xôm nuốt cả ngọt thơm
Thấy
người khoan khoái râm ran
Chừng
như phép lạ mê man động tình.
Từ đó
2 chị em đều có thai mặc dù chưa hề chung sống với ai cả.
Hai cô nàng đều rất đau buồn và hổ thẹn! Thế rồi cha (Phìa Chiềng Ly) nhờ
uy thế nên vẫn tìm được chồng cho 2 nàng.
Chồng
Cắm Xôm là Khum Pâng
Chồng
Ngân Liếng là Khun Bái.
9
tháng 10 ngày: Cô chị sinh được chàng Khun Lú, cô em sinh ra
Nàng Ủa,
cùng sinh ra lớn lên ở trong dinh thự ông bà ngoại ở Chiềng Ly. Trước đó 2 chị
em (2 mẹ ) đã từng thề bồi:
Ta
cùng chịu phép trời biến hóa
Sinh
gái trai sẽ gả cho nhau
Cho
chung một Mệnh khổ đau
Cùng
là gái: gả trước sau một chồng.
Hết
thời hạn ở rể, ông Phìa Chiềng Ly cho Khun
Bái đem vợ và con (Nàng Ủa) về quê sinh sống.
Hai
trẻ sinh ra lớn lên ở bên nhau, vốn có duyên trời nên yêu
nhau tha thiết, 2 mẹ cùng vun vén hùn vào…Nay xa cách rất chi
là thương nhớ; Rồi nhiều lần tìm cách thăm nhau, mối tình ngày một bền chặt.
Nhưng rồi “thấm thoát” qua nhiều năm nhiều tết…ông tạo Bái dứt
khoát theo “Luật Mường” đã gả Nàng Ửa cho Khun Trai….và gia đình chàng Lú cũng
ép chàng phải lấy Nàng Mành (Méng)... Kết cục là Nàng Ủa và Khun Lú quyên sinh
chết vì người tình như đã ước hẹn. Hồn 2 người biến thành 2 ngôi sao Khun Lú -
Nàng Ủa (Sao Hôm, Sao Mai) bị trời chắn 1 bức phên ngăn cách chỉ được nhìn thấy
nhau chứ không được gặp nhau; và đúng như trời định: 23 năm sau, hồn Ủa về gặp
Then, Then liền lấy làm vợ (con gái mình đã đầu thai sang kiếp khác để khỏi vi
phạm Luật trời - Trời cũng khéo biến hóa là vậy). Chàng Lú và Nàng Ủa chỉ còn
là:
Đứng
xa cách đôi bên cùng liếc
Lệ đưa
tình thảm thiết đắng cay
Đất
không thương, trời lại đầy
Tình
chung cũng chỉ khóc hoài mà thôi
Chàng
lẩn khuất mây trời vạn kiếp
Nỗi
nhớ thương biền biệt không gian.
2.
Mối tình thứ 2: Tình chàng thi sĩ.
Thầy
giáo trẻ Trần Lê Văn (sinh 1920, quê Vị Xuyên - Nam Định)
năm 1943 được Nhà nước Bảo hộ (Thực dân Pháp) cử lên dạy Tiểu học
ở Chiềng Ly, được bố trí ở 1 gia đình người Thái họ Bạc
(Bạc Cầm, Cầm Văn… thuộc tầng lớp quý tộc Thái - sau này 1946 - 1953 tỉnh
trưởng Sơn La thuộc Pháp là Bạc Cầm Qúy).
Thời
trước năm 1945 ở xứ Thái (Sơn La) này quan đầu tỉnh là công sứ người
Pháp (tên Tây lai Cousseau - rất gian ác: vợ hắn người Việt, con
nhà giàu, do Bố mẹ giúp hắn “chạy” được cái hàm “Hồng lô tự
thiếu khanh” (trật Chánh Ngũ phẩm) của Triều đình Huế - đó là 1 con cáo già
trong giới quan cai trị của thực dân Pháp ở Sơn La thời đó).
Con
gái rượu của chủ nhà là cô Bạc Thị Nâu, cũng là học
sinh của Thầy Văn. Chàng trai Thành Nam 23 tuổi, có tâm hồn thi sĩ ở cận kề
cô Nàng tuổi cập kê “trai chằm nhinh báu đi” (trai gần gái không tốt)- thế là 1
mối tình trai gái thầm lặng bốc lửa. Khi mẹ Nàng phát hiện ra con gái mình “đầu
mày cuối mắt” với thầy giáo Văn thì bà tuyên bố như dao chém đá “cho dù chúng
nó “yêu” to bằng trái núi cũng không gả”- mối tình Thái Kinh/ ngược xuôi quả là
trắc trở… Nhưng may thay: Vừa lúc ấy, Việt Minh nổi lên, bọn thống trị thực dân
Pháp và bè lũ tay sai chạy bán xới lên Lai Châu rồi sang Vân Nam (Trung Quốc -
đang là thời chính quyền của Quốc dân Đảng - Tưởng Giới Thạch), anh giáo trẻ Trần
Lê Văn trở thành cán bộ giáo dục của chính quyền cách mạng tỉnh Sơn La, mối
tình Trần Lê Văn - Bạc Thị Nâu xem ra thuận buồm xuôi gió thì tình thế lại xảy
ra vào lúc ngặt nghèo: một cánh quân Pháp tràn từ Vân Nam xuống nhằm chiếm lại
18 châu Mường Xứ Thái. Thế là một đám cưới gấp (đám cưới tình thế): chỉ có nhà
gái với chú rể (cùng đại diện đoàn thể Việt Minh) thật đúng như nhà thơ đã ghi
lại:
Tháng
hai sườn núi trăng ngơ ngác
Đám
cưới hiu buồn một giác mơ.
Lý do làm chàng buồn vì
Cả họ nhà trai
có chú rể
Anh lính tiền tuyến làm ông tơ.
Thế rồi “Nàng theo chàng về Dinh”,
rồi đi qua 2 cuộc kháng chiến…cô gái Thái ở Bản Chiềng Ly
(Thuận Châu) luôn là người vợ hiền thục của nhà thơ Trần Lê Văn (thường
trú ở Thủ Đô cho tới ngày đầu bạc, răng long).
3. Mối tình thứ 3: Tình chàng họa
sĩ.
Họa sĩ Kiều Minh (sinh 1938 -
quê Hà Nội). Năm 1962, sau khi tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật
Hà Nội lên công tác ở Sở văn hóa khu tự trị Thái
Mèo, đóng ở bản Chiềng Ly (thủ phủ)…cô Bạc Thị Nguyệt (cháu gái bà Bạc Thị Nâu)
lúc này là “cô Văn Công” - đoàn văn công khu Tây Bắc: xinh đẹp, hát hay, múa dẻo
đã lọt vào tầm mắt của chàng trai Họa sĩ Hà thành. Thời điểm này: cách mạng đến,
xóa bỏ chế độ Phìa Tạo…làm thay đổi mọi cách sống và nếp nghĩ, sự hòa hợp đoàn
kết dân tộc có nhiều sự tiến bộ, đã có nhiều cuộc hôn nhân Kinh - Thái, nên việc
nên vợ nên chồng của đôi bạn Minh - Nguyệt không có gì trở ngại. Năm 1975, sau
khi giải thể khu tự trị Tây Bắc: họa sĩ Kiều Minh được chuyển về Bộ văn hóa,
1984 NK tôi cũng được chuyển về Hà Nội, đến thăm 2 bạn, xúc động hạ bút viết
bài thơ.
BẢN CHIỀNG LY
Bản Chiềng Ly chưa đi đã
nhớ,
Phố chênh vênh bên núi bên hồ;
Gái bản từ lâu quen chợ búa
Trai Thuận Châu bao bạn nằm mơ.
Người Chiềng Ly hay đi đây đó,
Mùa hoa Ban về dự hội
Làng;
Quả còn lửa bay ngang trời phố
nhỏ,
Trái tim hồng thiếu nữ đón xuân
sang.
Tôi say đắm yêu cô Nàng
như thế.
Cha mẹ thương cho về ở
Kinh Kỳ;
Không ở rể mà vẫn
là rể quý
Để mỗi năm lại lên tết Chiềng Ly.
NK
Bài thơ NK viết lúc đến
thăm 2 bạn Minh - Nguyệt ở Hà Nội, được viết lại hoàn chỉnh ở
Chiềng Ly (Thuận Châu) hồi 1993 - bài thơ “Bản Chiềng Ly” được nxb
giáo dục
in vào Tuyển tập Văn học Dân tộc miền núi - 1999.
Nhà văn Hoàng Quảng Uyên
tăm đắc với 2 chữ “chênh vênh” của phố Thuận Châu nên con
người Chiềng Ly cũng chênh vênh cùng đất, phải đi đây đi đó
nhưng sự ra đi ấy không phải là “ly” (biệt) mà bởi
vì mảnh đất
có nhiều níu kéo…Thơ NK có một chút gì bảng lảng của khói lam chiều trên nhà
sàn Tây Bắc, của nắng nhạt trải thảm cao nguyên mang dấu ấn hào hoa Kinh Bắc.
Với NK thì sợi chỉ đỏ
(thông điệp) của bài thơ nằm ở 2 câu:
…. Cha mẹ thương cho về ở Kinh
Kỳ;
Không
ở rể mà vẫn là rể quý
Là nói lên cái thành quả của
cuộc cách mạng dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội: đã xóa
đi được cái thành kiến phân biệt xuôi/ ngược (Kinh, Thái…) Không phải ở rể như thời
chế độ Phía Tạo, mọi dân tộc anh em đều có thể trở thành
dâu rể trong gia đình Đại Việt: “Để mỗi năm lại lên tết Chiềng Ly” thăm lại Bản
cũ Mường xưa.
LỜI CUỐI SÁCH
“Sơn La ký sự” gồm 52 bài
tùy bút, hồi ức, thơ, sưu tầm, ghi chép về xứ Thái một thời NK đã sống, nhằm để
con cháu, bạn bè, ai đó đọc xong “ờ Sơn La, người Thái nó là như thế…” để thêm
yêu cái xứ sở “Sơn La âm u núi khuất trong sương mù” rồi “nước Sơn La, ma Hòa
Bình” ngày xưa nó bí ẩn, lạ lẫm, đáng sợ làm sao?
Năm 1962 (vừa tái lập tỉnh) Sơn La mới
có 18 vạn dân, chủ yếu là người Thái, sau 1975, nhất là sau 1986
người xuôi (Thái Bình, Hưng Yên…) lên ồ ạt, đến nay 2009 dân số toàn tỉnh
10.080.641 trong đó dân tộc Thái trên 48 vạn người.
Mọi phong tục tập quán kể cả tiếng
nói chữ viết Thái đang bị “hòa nhập” hòa tan, bị lai
ghép đã dần mai một. SOS là thế…
Để kết cuốn sách này, có lẽ hay hơn
là nhờ Chế Lan Viên nói hộ:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo
mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu
thương?
Khi
ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi
ta đi, đất đã hóa tâm hồn!”
Góc
thành nam Hà Nội 26.5.2012
NGUYỄN KHÔI
Nguyễn
Khôi (tên
khai sinh : Nguyễn Kim Khôi)
sinh
1938, quê phố
Đình, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh..
NR;
259/39 phố Vọng – Hà Nội.
- Hội
viên Hội Nhà văn Hà Nội
- UV
BCH Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội
- UV
BCH Hội VHNT các Dân tộc Thiểu số VN (Khóa 2)
Chuyên
viên Cao cấp, nguyên Phó Vụ trưởng Văn phòng Quốc hội Việt Nam
Các
tác phẩm đã xuất bản:
-
Trai Đình Bảng (thơ) nxb Văn Học 1995,vhtt 2000
- Gửi
Mường bản xa xăm (thơ) nxb vhdt 1998 – Giải thưởng Hội VHTH các DTTS VN
1998.
-
Trưa rừng ấy (thơ tứ tuyệt 100 bài) NXB VHDT-2005
-
Chiều phố Vọng – Thơ, NXB NXB Hội Nhà Văn -2011
- Bắc
Ninh thi thoại (biên khảo) đã tái bản lần thứ 3.
-
Các dân tộc ở Việt Nam-cách dùng họ và đặt tên (biên khảo NXB
VHDT 2006.
- Cổ Pháp
cố sự- 4 tập, 920 trang NXB VHDT, viết về cội nguồn nhà Lý.
-
Có thơ in ở: tuyển tập thơ Việt Nam 1945-2000 (NXB lao động);
tuyển tập thơ
Việt
Nam 1975-2000, NXB
Hội Nhà Văn; tuyển tập Văn học Miền Núi-NXB giáo dục1998; tuyển tập thơ Việt
Nam thế kỷ 20 (NXB giáo dục-2005) , tuyển tập thơ Việt Nam 10 năm đầu thế kỷ
21(NXB Hội Nhà Văn 2010)vv…
Dịch
thuật:
- Sống
Chu Son Sao (Tiễn Dặn Người Yêu) – truyện thơ dân tộc Thái
- Tiếng
hát làm Dâu (dân ca H’mông) vv…
Giải
thưởng :
- Giải
thưởng viết
về 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, bài thơ ” Về Hà Nội”.
- Giải
thưởng Văn học Nghệ thuật Thủ đô 2008 cho Bộ sử Làng Cổ Pháp
cố sự.
Nguồn:
Nguyễn Khôi
Sưu
Tầm Tài Liệu và Web Design, Hà Phương Hoài
Kỹ
Thuật Truy Tầm , Hoàng Vân
Sưu
tầm Nhạc Dân Ca; Julia Nguyễn
Xin
vui lòng liên lạc với haphuonghoai@gmail.com về tất cả những gì liên quan đến trang
web nầy Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ Last modified: 06/01/15
Bản quyền không thuộc về chúng tôi. Những gì trên e-cadao
quý vị tuỳ ý sử dụng Trong Nguyen : haphuonghoai@gmail.com .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét