Lễ hội Căm Mường của
người Lào ở Điện Biên
Tóm
tắt: Việt Nam và Lào là hai xứ sở kề sát nhau và có quan hệ tình cảm
gắn kết qua nhiều thế kỷ. Có những điểm tương đồng song cũng có nhiều khác biệt
trong phong tục, tập quán của hai đất nước. Nghiên cứu về văn hóa Lào không thể
không tìm hiểu về phong tục cưới hỏi-một hình thức sinh hoạt tinh thần phong
phú của dân tộc Lào.
Cùng với thời gian và sự phát triển của xã hội, nhiều tập
tục cưới xin của người Lào cũng có sự thay đổi. Việc cưới xin ngày càng văn
minh, giản tiện hơn nhưng không vì thế mà mất đi những tập quán cổ truyền của
dân tộc. Chính sự gìn giữ những yếu tố truyền thống đó đã tạo nên nét văn hóa độc
đáo và hết sức đặc trưng của dân tộc Lào.
Trong
cuộc sống từ xưa đến nay, đám cưới chính là biểu hiện của nếp sống xã hội bởi
nó vừa kế thừa truyền thống, phong tục, tập quán của xã hội lại vừa đổi
thay,cách tân theo sự phát triển của thời đại qua từng thời kỳ.Ngày nay, sự du
nhập của văn hóa Tây Âu đã tác động và làm biến đổi đến nền văn hóa của nhiều
nước trong khu vực châu Á. Song hiếm có đất nước nào trong quá trình hội nhập
và phát triển không những du nhập được những nét văn hóa mới mà vẫn giữ được
các phong tục cổ truyền như dân tộc Lào. Điều đó được thể hiện một cách rõ nét
qua văn hóa cưới hỏi của người Lào.
Nếu
như quan niệm Việt Nam coi chuyện tiếp xúc giữa trai gái như lửa với rơm thì
người Lào lại quan niệm vấn đề nam nữ như cát với nước và theo lẽ tự nhiên, cát
với nước thu hút nhau qua tiếp xúc, giao tế. Trai, gái Lào làm quen, tìm hiểu
nhau dễ dàng, cởi mở. Người Lào rất quý con và bình đẳng giữa con gái với con
trai. Bởi vậy,con gái Lào từ mười sáu tuổi trở lên được tự do tiếp bạn trai tại
nhà, có thể cùng bạn trai đi dự các buổi lễ hội, hội chợ… Tình yêu đôi lứa tự
nhiên nảy nở từ sự giao thiệp cởi mở song vẫn được giữ trong khuôn khổ lễ giáo.
Từ xưa đến nay trong việc hôn nhân của người Lào, khi cha mẹ đôi bên đã quyết định
bàn chuyện kết duyên cho con cái họ thì đôi nam nữ đã yêu nhau hoặc tối thiểu
đã quen biết nhau rõ ràng. Bởi vậy trong hôn nhân của người Lào, hiếm có cảnh lần
đầu vợ biết mặt chồng trong ngày cưới. Điều đặc biệt là theo tập tục cưới xin ở
Lào còn có tục khửn- xu( cho nợ lễ cưới), vợ chồng nghèo có thể về ở
với nhau, sau khi làm ăn khá giả sẽ tổ chức lễ cưới theo phong tục của bản mường.
Giống
như Việt Nam, tiến trình nghi thức hôn lễ của người Lào ngày nay đã được rút gọn
còn một lễ phụ ( lễ bắn tin) và hai lễ chính là lễ hỏi và lễ cưới.
1.
Ngan mẳn ( lễ ăn hỏi)
Sau
khi 2 gia đình gặp gỡ, thống nhất việc cưới xin của đôi trẻ , bố mẹ, gia đình
hai bên sẽ bàn bạc, thoả thuận các điều kiện, cách thức tổ chức và quan trọng
hơn là chọn ngày lành tháng tốt để cử hành hôn lễ.
Trước
kia lễ hỏi được coi là lễ quan trọng trong hôn nhân mà theo đúng nghi thức, gia
đình chú rể phải chuẩn bị một số lễ vật gồm:
- Khà
Khuôn phí (lễ vật cúng Thần Hoàng, nơi nhà gái đang cư ngụ). Giá trị của
lễ vật sẽ được quy định tuỳ theo hoàn cảnh và thành phần trong xã hội của gia
đình hai bên.
- Khà
Đoòng (lễ vật thách cưới) được coi như của hồi môn để đền bù cho công
sức nuôi dưỡng của gia đình nhà gái. Đây là nghi thức không thể thiếu mà nhà
trai phải nộp cho gia đình cô dâu. Của hồi môn có thể được tính bằng
tiền, vàng ta, đá quý, đất đai nhưng không có quy định cụ thể về số lượng. Nó sẽ
được quyết định bởi gia đình cô dâu. Thông thường những gia đình giàu có hoặc
có con gái xinh đẹp sẽ đưa ra mức vật chất thách cưới rất lớn. Số lễ vật thách
cưới thường được nhà gái giữ hoặc giao lại cho hai vợ chồng với điều kiện sau một
thời gian chung sống gia đình phải hoà thuận, người chồng phải hết mực thương
yêu vợ. Nó cũng như một khoản vật chất để đảm bảo rằng nếu cuộc hôn nhân của
con gái họ không hạnh phúc thì số tiền đó sẽ giúp cho con gái họ đảm bảo cuộc sống
sau li hôn. Như vậy, từ xa xưa thân phận của người con gái, phụ nữ Lào đã được
xã hội rất coi trọng.
Ngày
nay lễ hỏi được tổ chức đơn giản hơn rất nhiều nên việc chuẩn bị các lễ vật
cũng chỉ là hình thức .Nhà trai chỉ phải chuẩn bị lễ vật thách cưới và nhà gái
lại trao khoản hồi môn đó cho đôi vợ chồng để họ có điều kiện tạo lập cuộc sống
riêng sau hôn nhân.
2.
Ngan vi va (đám cưới)
Người
Lào có lệ tổ chức cưới vào thời điểm từ tháng 10 đến tháng 3 theo lịch Lào. Lý
do đơn giản vì khoảng thời gian đó là mùa khô, rất thuận tiện cho việc tổ chức,
thực hiện các hoạt động của lễ cưới và tránh được những tháng mùa mưa. Cũng
theo lịch Phật, người Lào kiêng cưới vào tháng 7,8,9 vì thời gian này được coi
là “ tháng của Phật”. Mọi người đều ăn chay và kiêng kỵ sát sinh, uống bia rượu,
tổ chức hội hè…Theo quan niệm của người Lào, ngày tốt để tổ chức đám cưới là
ngày trăng rằm hàng tháng , ngụ ý duyên phận vợ chồng son sẽ ngày càng lên cao,
càng nẩy nở sáng tỏ như trăng.
Sau
khi ngày lành tháng tốt được chọn, hai gia đình sẽ chuẩn bị các công việc cho
đám cưới với sự giúp đỡ, hỗ trợ nhiệt tình của bà con, họ hàng, làng xóm. Một
đám cưới truyền thống của người Lào thường được tổ chức tại nhà của cô dâu vào
10 giờ sáng hoặc 4 giờ chiều. Sở dĩ họ thường tổ chức cưới vào giờ
này vì đây là khoảng thời gian không ảnh hưởng đến công việc thường ngày của mọi
người và họ sẽ có nhiều thời gian để vui chơi hơn. Khi buổi lễ kết thúc tại nhà
của cô dâu, khách mời có thể dự bữa tiệc mừng đám cưới ngay sau đó. Đám cưới
thường được tổ chức trong một ngày gồm những thủ tục sau đây:
- Haih-Khởi(
Lễ rước rể)
- Su-
Khoắn( Lễ buộc chỉ cổ tay)
- Hặp
pathan a hản (Lễ ăn mừng đám cưới)
2.1.
Haih- Khởi (Lễ rước rể)
Khác
với phong tục truyền thống của Việt Nam, người Lào có tục “gửi rể”. Theo
tập tục đó, sau hôn lễ, chú rể sẽ về sinh sống ở nhà cô dâu. Có thể giải thích
phần nào tại sao chàng trai Lào sau hôn lễ lại về ở nhà vợ qua những câu thành
ngữ quen thuộc sau đây của người Lào:
“
Au lục phảy ma dù năm nhà,
Pàn
au phí hà ma xày hươn.”
Đem
dâu về ở với mẹ chồng
Khác
nào rước quỷ về bỏ trong nhà
Ngược
lại
“
Đảy lục khởi ma liểng phò thậu
Pàn
đảy khậu tềm lẩu tềm kia.”
Được
con rể về nuôi bố vợ,
Khác
nào được gạo đầy lẫm đầy kho
Theo
phong tục thì lễ rước rể được cử hành đầu tiên trong ngày cưới. Khi giờ xuất
phát đã điểm, phái đoàn nhà trai gồm bạn bè, họ hàng sẽ rước chú rể đến nhà cô
dâu. Đoàn người sẽ phải đi bộ đến nhà cô dâu. Dẫn đầu nhà trai là chú rể trong
trang phục truyền thống của Lào: chiếc áo sơ mi dài tay cổ tròn bằng vải thô với
hàng khuy cũng làm bằng vải được cài về phía tay trái; chân chú rể quấn chiếc Pha-
nhạo- nếp- tiêu (một loại quần lửng ống túm- kiểu trang phục quen thuộc
của vua chúa ngày xưa) và vật không thể thiếu trong bất cứ buổi lễ trang trọng nào
của người Lào là chiếc Phạ- biềng (khăn quàng vai được làm bằng
thổ cẩm). Chiếc khăn được đeo quàng qua vai chú rể và hai đầu được gài với nhau
theo kiểu truyền thống chứ không buộc lại một cách thông thường. Tay chú rể cầm
theo bó hoa nhỏ làm từ lá và ngọn chuối với một số loại hoa thơm khác được thắp
một ít nến .Điều đặc biệt là trên quãng đường luôn có một người, thường là bạn
thân nhất của chú rể sẽ đi bên cạnh cầm ô che. Hình ảnh này tạo nên sự liên tưởng
tới các vị vua chúa thời xưa luôn dùng ô, lọng che trên đường, nhằm làm tăng
thêm vẻ trang trọng của chú rể trong ngày cưới. Của hồi môn được đặt trong
Khun-mak (một loại bát mạ vàng hoặc bạc thường được người Lào để nước thơm và
hoa tươi mang theo khi lên chùa) do những người lớn tuổi đáng kính trọng hoặc bố
mẹ của chú rể mang theo. Không khí vui tươi của đám cưới được thấy ngay trong
tiếng trống vang, tiếng khèn, tiếng cười nói, reo hò, có thể nghe thấy bài
ca Haih- khởi, thấy những điệu nhảy hoà theo tiếng nhạc. Những lời
cầu chúc cho đôi trẻ được mọi người nói với nhau hay thể hiện qua những bàn tay
chắp trước ngực họ trong cả quãng đường…
Trong
khi đó, cô dâu sẽ đợi trong phòng của mình cho đến khi được gọi ra dự buổi lễ.
Không thể phủ nhận rằng cô là người đẹp nhất và hạnh phúc nhất trong giây phút
này. Trang phục cưới của người con gái Lào được thiết kế hết sức tinh sảo với
màu sắc sặc sỡ, tươi tắn như màu của rừng núi, hoa tươi.. Đó là chiếc
áo hình ống kiểu truyền thống với váy quây có cạp được trang trí bởi các hoạ tiết
thổ cẩm rất đẹp mắt. Chiếc khăn phạ- biềng đeo qua vai được lựa
chọn phù hợp với màu sắc của chiếc váy càng làm nổi bật sự đồng bộ và sang trọng
của bộ lễ phục. Tóc cô dâu được bới cao lên đỉnh đầu( thường được cuốn với tóc
giả cho dày dặn) và được điểm trang thêm nhiều loại kim gài rất đẹp mắt. Thứ
không thể thiếu để giúp cô dâu thêm vẻ đẹp quý phái, sang trọng là những đồ
trang sức bằng vàng ta được cha mẹ sắm sửa cho trước lễ cưới. Người Lào
thường rất ưa thích việc đeo nhiều loại trang sức vàng được thiết kế theo kiểu
truyền thống. Có thể nói sự chờ đợi dường như là vô tận trong khoảnh khắc này.
Khi
đến trước cổng nhà gái, đoàn nhà trai sẽ dừng bước trước một sợi dây được làm bằng
bạc hoặc mạ vàng ngăn cho đoàn nhà trai vào do họ hàng cô dâu đứng giữ. Để có
thể vào nhà, đoàn nhà trai buộc phải trả lời một số câu hỏi của họ hàng cô dâu.
Đó có thể chỉ là những câu hỏi thông thường giữa hai bên nhà thông gia như: tên
anh là gì, anh từ đâu đến, anh mang theo những gì đến đây… hoặc những câu hỏi gần
gũi hơn như anh có đảm bảo con cháu anh sẽ đem lại hạnh phúc cho vợ của mình,
có thực sự mong muốn tạo mối quan hệ tốt với chúng tôi… Thậm chí là những lời mặc
cả, thoả thuận song mục đích của nó là để tạo sự giao lưu, thân thiện giữa hai
gia đình. Trong suốt quá trình này chú rể không được nói gì mà chỉ có những người
lớn tuổi nói với nhau một cách thân thiện, lịch sự và không thể thiếu được
trong sự giao lưu đó là những chén rượu mừng trao cho nhau. Sau khi các câu trả
lời đã làm thoả mãn gia đình và bạn bè cô dâu ,chú rể sẽ đưa một khoản
tiền nhỏ cho những người “ gác cổng”thường là trẻ con hoặc những cô gái trẻ cầm
sợi dây. Nếu cảm thấy hài lòng với món tiền đó, họ sẽ mở rộng đường để mời đoàn
nhà trai vào song chú rể phải rửa chân trước khi bước vào cửa nhà. Chú rể sẽ đặt
hai chân lên một miếng đá có phủ lá chuối xanh tươi do gia đình cô dâu chuẩn bị
sẵn. Người nhà của cô dâu sẽ đem một khay nước cùng một tấm khăn để rửa chân thật
kỹ cho chú rể. Dĩ nhiên cũng như khi bước vào cổng nhà, chú rể phải thưởng tiền
cho người thi hành lệ đó cho mình. Tục này ngụ ý chú rể sẽ rửa hết những gì
không tốt và về ở nhà vợ với tấm thân trong sạch, đem theo những điều mới mẻ, tốt
đẹp. Sau đó một người họ hàng lớn tuổi của nhà gái, thường là những người đã có
cuộc hôn nhân dài và hạnh phúc sẽ dẫn anh ta đến nơi đặt Pha- khoắn(
mâm lễ) . Lúc này người mẹ sẽ dẫn cô dâu ra và buổi lễ được bắt đầu.
2.2.
Su- khoắn ( lễ buộc chỉ cổ tay)
Lễ Su-
khoắn dùng để chỉ một hình thức tổ chức biểu hiện một nội dung tín ngưỡng
được biết đến cái tên quen thuộc là Lễ buộc chỉ cổ tay. Trong Đạo Phật hệ tiểu
thừa- quốc giáo của người Lào - không hề có nghi lễ này. Du nhập và phát triển
từ thời vua Pha-ngum (thế kỷ XIV), Phật giáo còn tồn tại song song cùng với nhiều
tín ngưỡng khác gọi chung là Linh hồn giáo tức tín ngưỡng về thần, ma. Sự chiếm
lĩnh của Phật giáo đã làm một số đạo, tín ngưỡng đó bị mờ nhạt, chỉ còn giữ lại
một số nghi lễ lớn trong đó có Su- khoắn là tục buộc chỉ cổ
tay để cầu vía, cầu phúc. Theo đó người Lào tin rằng con người có phì (linh
hồn hay còn gọi là ma). Khi chết thì linh hồn vẫn tồn tại. Nó có thể phù hộ
nhưng cũng có thể gây tai hoạ cho con người nên đã hình thành hai khái niệm
là Phì- đi (ma lành) vàPhì- hãi (ma dữ). Phì-
đi là ma bản, ma nhà (ông bà, cha mẹ, người phúc đức có công với bản)
thường trú ngụ quanh bản làng, nhà cửa để phù hộ, che chở cho con cháu, dân bản. Phì-
hãi là linh hồn của những người chết bất đắc kỳ tử , chết oan, chết yểu
không người thờ cúng, thường ẩn khuất ở những cây cao lớn, vực nước xoáy, mỏm
đá cao… Làm lễ Su-khoắn để cầu cho những linh hồn của “ma
lành” để nó luôn luôn bảo vệ, đem lại may mắn cho con người và ngăn sự xâm phạm
của ‘ma dữ’. Như vậy có thể thấy dù là phong tục không thể thiếu trong các lễ
cưới nhưng trong lễ Su- khoắn, ý nghĩa của việc xác nhận hai người
đã thành vợ thành chồng không được chú trọng mà nó chỉ là sự mong cầu may mắn,
hạnh phúc, sức khoẻ cho đôi vợ chồng mới.
Nghi
lễ Su- khoắn thường được diễn ra ở nơi trang trọng nhất trong
nhà, thường là phòng khách.Pha-khoắn (mâm lễ) phải được chuẩn bị kỹ
lưỡng cho buổi lễ. Nó được tạo nên bởi các ô và khan(loại
mâm nhỏ) chồng lên nhau. Trên mỗi mâm được cắm nhiều ống hình ống
loa làm bằng lá chuối xanh phủ đầy các loại hoa đủ màu sắc, thường có một loại
hoa chủ đạo là hoa chăm- pa. Trầu cau, thuốc lá, trứng luộc, xôi, rượu, nhang,
nến... được bầy biện một cách ngay ngắn xung quanh mâm. Và không thể thiếu
trong mâm Pha-khoắn những sợi chỉ trắng được làm bằng bông,
móc vào những chiếc que nhỏ và cắm quanh mâm lễ.
Lễ
cưới truyền thống của người Lào không thể thiếu Mor- phon (vị
chủ lễ), người sẽ điều hành lễ Su- khoắn. Bắt đầu buổi lễ, cô dâu
chú rể ngồi theo hàng cùng với gia đình, người thân của họ.Mor-phon lấy
sợi chỉ trắng dài để nối mâm Pha- khoắn và đưa 2 đầu sợi dây
cho cô dâu chú rể kẹp vào lòng bàn tay trong tư thế chắp hai tay cầu nguyện. Buổi
lễ bắt đầu, Mor-phon nhắm mắt và bắt đầu đọc các bài kinh, các
câu xướng trong lúc hành lễ. Đó là những câu thơ thi vị, tự nhiên, gần gũi,
mong muốn cô dâu sẽ là người vợ tốt, chú rể có thể là trụ cột vững chắc cho gia
đình... Thời gian làm lễ sẽ kéo dài từ 1 đến 3 tiếng đồng hồ. Kết thúc buổi lễ,
gia đình và bạn bè hai bên sẽ vái lần cuối và đồng thanh hô “ Khuane
aeh ma Deh” để gọi “ vía” về. Sau phần nghi thức Su- khoắn ,
vị chủ lễ lấy một quả trứng luộc, dùng chỉ cắt đôi, một nửa trao cho cô dâu, một
nửa trao cho chú rể để hai người đút trọn cho nhau. Hình ảnh quả trứng hàm ý đã
là vợ chồng thì hai người phải luôn yêu thương, đùm bọc, bảo vệ lấy nhau. Kế đó
vị chủ lễ lấy một sợi chỉ trắng vừa đủ dài, một đầu cột vào cổ tay của chú rể,
đầu kia cột vào cổ tay của cô dâu rồi ra hiệu cho hai người kéo tay
giật đứt làm đôi. Lúc này ánh mắt của mọi người đều tập trung xem cổ tay người
nào giữ được phần dài hơn thì người đó là sẽ là người được nhiều may mắn hơn(
hoặc là người sẽ giữ được tình cảm lâu bền hơn). Có những vùng như Xiêng
Khoảng vị chủ lễ sẽ cắt sợi dây làm đôi cho bằng nhau để tránh chuyện
ganh tỵ. Sau đó mọi người có mặt trong buổi lễ sẽ lần lượt buộc chỉ cổ tay cho
hai người không quên kèm những lời chúc tốt đẹp nhất đến đôi trẻ. Một số người
sẽ cuốn theo tiền vào sợi chỉ coi như món quà cho đôi trẻ để họ bắt đầu cuộc sống
mới. Sợi chỉ trắng là biểu tượng cho sự may mắn và lời cầu nguyện cho đôi trẻ:
hai tâm hồn sẽ thành một và sống bên nhau hạnh phúc mãi mãi.
Một
điều quan trọng là lễ cưới của người Lào không đòi hỏi phải có sự tham gia của
các vị sư như đám cưới của người Thái Lan. Nhiều người nhầm tưởng rằng phong tục
của Lào và Thái giống nhau song đám cưới cổ truyền tại hai nước được sắp đặt
khác nhau. Theo phong tục của người Lào, mặc dù không cần thiết nhưng cũng có
thể mời các nhà sư đến để làm lễ cầu nguyện trước hoặc sau ngày cưới . Trong
ngày cưới không tiến hành nghi lễ đó vì đám cưới không có liên quan đến tôn
giáo. Thay vì đó buổi lễ sẽ được điều hành bởi vị chủ lễ, thường là những người
đứng tuổi hoặc các vị sư đã hoàn tục là người trong làng. Trong văn hoá của người
Thái Lan, họ không có lễ Su- khoắn cho các dịp đặc biệt như
đám cưới, đính hôn, liên hoan chia tay, mừng đầy tháng… mà chỉ có dân tộc Lào ở
Thái Lan còn thực hiện lễ đó.
2.3.
Hặp pathan a hản (Lễ ăn mừng đám cưới)
Bữa
tiệc mừng sẽ được tổ chức vào buổi tối ngày hôm đó tại nhà của cô dâu hay ngoài
khách sạn và thường được kéo dài trong khoảng bốn đến năm tiếng đồng hồ. Có thể
ví như trong một ngày người Lào tổ chức hai lễ cưới: một lễ cưới truyền thống(
tức lễ Su- khoắn) dành cho người lớn tuổi, bậc cha chú, anh em họ
hàng và một lễ cưới hiện đại dành cho tất cả các vị khách mời gồm cả nam thanh
nữ tú, bạn bè gần xa của cô dâu chú rể.
Sự
nhu nhập của văn hoá Tây- Âu trong những năm gần đây cũng làm biến đổi cách thức
tổ chức lễ ăn mừng đám cưới của người Lào. Ngày nay nó được tổ chức theo xu hướng
hiện đại song vẫn đảm bảo các nghi thức truyền thống. Có thể nhận định hiếm dân
tộc nào trên đất nước Châu Á trong giai đoạn hội nhập, phát triển không những
du nhập được nét văn hoá mới mà vẫn giữ vững được nét đặc trưng, đặc sắc như
dân tộc Lào- được thể hiện một cách rõ nét qua cách tổ chức lễ ăn mừng đám cưới.
Bữa
tiệc được bắt đầu khoảng 11giờ trưa hoặc 6, 7 giờ tối. Dù đến sớm hay đúng giờ
được mời thì các vị khách cũng nán đợi đến giờ tổ chức rồi mới bắt đầu ăn tiệc
(chủ nhà sẽ đón khách trong khoảng 1 tiếng tính từ thời gian ghi trong giấy mời).
Điều đặc biệt trong cách đón khách của người Lào là không chỉ cô dâu chú rể cùng
bố mẹ hai bên mà hầu hết những người họ hàng gần gũi cũng sẽ đứng trang trọng
bên ngoài để cùng đón khách( thường ưu tiên những người họ hàng có chức sắc,
quan hệ rộng). Đoàn đón khách ăn mặc thật đẹp đứng thành một hàng dài theo từng
hàng nam trước nữ sau( thông thường có khoảng chục đôi vợ chồng là họ hàng thân
thích của nhà gái). Đứng ở cửa vào phòng chính là các cô gái trẻ tay cầm khán(
khay nhỏ) để mời tất cả các vị khách khi qua cửa sẽ uống một ly rượu tây. Đến
giờ khai mạc bữa tiệc, sau khi đại diện hai gia đình có lời cám ơn mọi người mới
bắt đầu dùng bữa. Lúc này cô dâu, chú rể sẽ đi từng bàn chúc rượu. Chú rể cầm
chai rượu tây rót vào ly trên khay do cô dâu cầm rồi đi mời rượu các vị khách
quý và hầu hết không ai từ chối uống ly rượu mừng đó. Tuy nhiên họ không mời tất
cả mà chỉ mời đại diện những vị khách quan trọng thường được sắp xếp ngồi trên
những dãy bàn đầu. Sau đó buổi tiệc mới thực sự bắt đầu bằng tiếng nhạc sống và
điệu nhảy truyền thống Lam Vông đầu tiên của cô dâu và chú rể.Sau điệu nhảy của
đôi trẻ,sân khấu dành cho tất cả mọi người cùng tham gia . Dưới sự dẫn dắt của
người dẫn chương trình, mỗi một bài hát là một điệu nhảy mà cặp đôi đầu tiên
lên nhảy sẽ được xướng tên, sau đó các vị khách khác có thể lên hoà cùng giai
điệu, tham gia cuộc vui. Điều độc đáo là các bản nhạc của Lào, dù là những bài
hát truyền thống hay những bản nhạc cách tân theo phong cách Valse, Rumba, Cha
cha…đều có nhịp điệu sôi nổi, đặc trưng và hết sức phù hợp với điệu múa Lam
Vông truyền thống. Điệu múa tuy chỉ có những động tác đơn giản nhưng không ngừng
khiến ta say sưa thể hiện qua giai điệu của các bản nhạc. Ngoài các kiểu múa
Lam Vông theo đôi, người Lào còn có những kiểu múa tập thể hết sức độc đáo.
Trai gái, già trẻ sẽ đứng theo hàng và nhảy theo nhịp điệu của tiếng nhạc thật
đều. Và trong suốt buổi tiệc mừng đám cưới, gia đình cô dâu chú rể và các vị
khách mời có thể vừa ăn uống vừa giao lưu với nhau qua những câu chuyện, những
điệu nhảy… Dù có tổ chức ở những nơi xa hoa, tráng lệ như khách sạn hay dân dã
tại nhà thì nét văn hoá sinh hoạt cộng đồng của người Lào cũng không hề thay đổi.
Lễ cưới kết thúc, chắc hẳn mọi người đều thấm mệt song những niềm vui trong họ
thật khó quên…
Như
vậy cùng với thời gian và sự phát triển của xã hội, nhiều tập tục trong việc cưới
xin của người Lào cũng có những sự thay đổi. Việc cưới xin bây giờ tương đối giản
tiện hơn, văn minh hơn song vẫn giữ được bản sắc riêng của dân tộc. Đám cưới-
hình thức sinh hoạt tinh thần của dân tộc Lào thực sự tạo được những ấn tượng tốt
đẹp về con người, về văn hoá, tập tục của đất nước mến khách này.Chỉ cần một lần
được gần gũi, tiếp xúc cũng để lại những ấn tượng khó có thể nào quên…
Hương Giang (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét