Thánh đường Chăm Nhơn Hội trong đêm lễ Royal Phitrok.
Người Chăm tại Việt Nam sống rải rác khắp
các tỉnh, thành phố: Ninh Thuận, Bình Thuận, Tây Ninh, TP Hồ Chí Minh, Bình Phước
và An Giang... Nguồn gốc của đồng bào Chăm An Giang thường được cho rằng xuất
phát từ nam Trung Bộ. Trước thế kỷ 17, người Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận di cư
qua Campuchia. Năm 1699, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đem
quân sang Campuchia, giúp vua Nặc Ông Thu giải quyết việc anh em họ tranh giành
ngôi vị. Xong nhiệm vụ, Nguyễn Hữu Cảnh rút quân về Nam Bộ, một số người Chăm
theo về cư trú tại Tây Ninh.
Khoảng năm 1822-1823, đầu triều Minh Mạng,
vị vua cuối cùng của Chiêm Thành là Pô Chơn đóng đô ở Phan Rang (Ninh Thuận hiện
nay), rời bỏ ngai vàng, cùng một số binh, tướng thân tín đem theo gia đình vượt
Trường Sơn sang Campuchia lánh nạn. Năm 1840, khi Khâm sai đại thần Lê Văn Đức,
Phó khâm sai Doãn Uẩn cùng Trương Minh Giảng từ Campuchia (trấn Tây Thành) rút
về Châu Đốc, một số đông người Chăm theo làm binh lính, thân binh, cận vệ. Họ
theo đoàn quân Lê Văn Đức cư trú dọc đầu nguồn sông Hậu thuộc tỉnh An Giang từ
đó đến bây giờ. Họ là đoàn quân thiện chiến nổi tiếng của nhà Nguyễn.
Ông Hakêm (85 tuổi), ở Châu Giang (Phú
Châu, An Giang) kể ông tổ 6 đời của ông là cụ Hadji Ahmed từ đảo Tranganu
(Malaysia) di cư sang Thái Lan, Campuchia rồi định cư ở mảnh đất này của Việt
Nam. Ban đầu cụ sống ở Koh Koi (cồn Quan Thuế), xã Nhơn Hội (An Phú, An Giang).
Về sau cụ chuyển về Châu Giang sinh sống. Các thế hệ sau cụ là: em ruột Zaynala
Bidin, con là Abdul Karim, cháu nội là Hadji Ysamael, chắt tên Hadji Soleymal,
chít tên Hadji-Hakêm Idareh… Đây là dòng họ Chăm Chavaku có đặc điểm là đàn ông
người Chăm nhưng vợ có dòng máu sắc tộc khác.
Riêng cụ Du Số (đến nay 102 tuổi), ở Châu
Giang, kể: những người Chăm định cư sớm nhất tại địa phương này gồm bốn gia
đình. Trong đó có ông tổ của cụ tên Ad Doromal (đời thứ 1), Ad Doloh (đời thứ
2), Du Số (đời ông, đời thứ 5), Sam Su Mariam (đời thứ 6), Halimah (đời thứ 7).
Cụ cho biết, đi cùng cụ tổ nhà cụ còn có cụ Hadji Abmed cùng 3 gia đình khác. Cả
bốn cùng xây dựng Thánh đường Mubarak vào năm 1170 Hồi lịch, nhằm năm 1750
Dương lịch. Họ làm đúng luật tục Hồi giáo là chỉ được xây thánh đường khi địa
phương có từ 3 gia đình chung sống trở lên.
Người Chăm An Giang có xuất xứ từ Ninh Thuận,
Bình Thuận. Nhưng người Chăm hai địa phương nầy xuất xứ từ đâu? Có thuyết khẳng
định: Người Chăm, theo các nhà khảo cổ, vốn thuộc dòng Mã Lai- Đa Đảo, một vùng
văn minh hải đảo nhận ảnh hưởng văn hóa Ấn- Hồi mà hiện nay vẫn còn theo chế độ
mẫu hệ. Họ di cư sang miền nam Trung Bộ và Nam Bộ nhiều thế kỷ trước công
nguyên, mang theo và gìn giữ mọi phong tục tập quán cùng chế độ gia đình mẫu hệ
của họ. Căn cứ vào một số thư tịch cổ, tư liệu dân tộc học, một số bài hát dân
gian Chăm trong đồng bào còn nhớ được, một vài hiện vật còn lưu giữ và văn tự cổ,
so sánh về dân tộc học và lịch sử di cư, nhất là quyết định xác minh cộng đồng
dân tộc của Tổng cục thống kê Việt Nam ngày 2-3-1979, cho phép kết luận: Người
Chăm An Giang và người Chăm miền nam Trung Bộ đều cùng chung một nguồn gốc lịch
sử từ lâu đời, kể cả người Chăm TP Hồ Chí Minh, Tây Ninh và Campuchia.
Đến nay, trên địa bàn tỉnh An Giang có khoảng
30.000 người Chăm, tụ cư tại các xã đầu nguồn ven sông Hậu thuộc các huyện: An
Phú, Tân Châu, Phú Tân và Châu Phú. Họ có cùng ngữ hệ với đồng bào Chăm miền
nam Trung Bộ, Tây Ninh và TP Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, vì sống chung cộng đồng
người Khmer nên người Chăm An Giang nói và nghe được ngôn ngữ bạn. Người Chăm
nơi đây ngày trước sống bằng nghề dệt thủ công. Hàng thổ cẩm sản xuất ra, họ
mang đi bán dạo khắp các nơi trong khu vực ĐBSCL. Hàng bán được, ngoài lấy tiền
mặt, họ còn bán chịu, hẹn đến lần sau trở lại mới lấy tiền. Bên cạnh đó, họ làm
nông, nhưng không bằng nghề chính là chài lưới. Họ là tín đồ thuần thành của đạo
Hồi (Islam), trong khi đó người Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận theo Hồi giáo Bani
hay đạo Bà Ni (đây là tôn giáo đặc thù bởi sự kết hợp giao hòa giữa đạo Islam
(đạo Hồi) với đạo Bà La Môn mà người Chăm đã theo trước đó cùng với các tín ngưỡng
dân gian khác của họ).
Theo ghi chép của “Tống sử”, từ thế kỷ 10,
đạo Hồi đã được truyền vào Chămpa. Tuy nhiên từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15, đạo Hồi
vẫn chưa phải là tôn giáo chính thống. Từ sau khi Chămpa suy vong, nhiều người
Chăm bỏ tôn giáo truyền thống là đạo Bà La Môn để theo Hồi giáo. Và chính từ thời
điểm này, sự giao thoa giữa đạo Hồi và đạo Bà La Môn đã hình thành ra một tôn
giáo mới của người Chăm, đó là đạo Bani. Tên gọi Bani được chuyển từ tiếng Ả Rập
Beni, có nghĩa là con trai của đấng tiên tri Mohammed. Hồi giáo Chăm Bani là
tôn giáo độc đáo chỉ có ở Việt Nam, gắn chặt với người Chăm Ninh Thuận, Bình
Thuận, là một phần bản sắc văn hóa của họ. Mặt khác, chính bản sắc văn hóa người
Chăm này cũng làm mềm hóa tính chất của Hồi giáo.
Tại
mỗi xã, người Chăm An Giang đều có
thánh đường riêng. Họ chỉ tôn thờ thánh Alah, cầu nguyện mỗi ngày 5 lần. Tín đồ
là nam đều tắm rửa sạch sẽ, y phục chỉnh tề đến thánh đường làm lễ trưa thứ sáu
hàng tuần. Tín đồ nữ được hành lễ tại nhà. Họ thực hiện nghiêm túc giáo lý,
giáo luật của Hồi giáo, thực hiện các bổn phận của tín đồ như nhịn ăn tháng
Ramadam. Các tín đồ hành hương đến thánh địa Mecca được mang tước hiệu Hadji và
được tín đồ khác kính trọng. Đặc biệt, họ không nuôi heo và ăn thịt con vật
này. Họ cũng tuyệt đối không uống rượu, kể cả bia, tuân thủ nghiêm ngặt giáo luật.
Bài và ảnh: Cát Lộc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét