Thư tịch cổ của người Chăm được viết chủ yếu
trên lá buông, giấy quyển, giấy dó… đó như một chiếc kho khổng lồ ẩn chứa, ghi
nhận tất cả những tinh túy của đời sống và văn hóa, tín ngưỡng người Chăm từ xa
xưa đến nay. Qua biến đổi của thời gian, nhiều thư tịch giá trị hư hỏng, mất
mát. Xót lòng, nhiều người đã dốc cạn sức để bảo tồn, gìn giữ.
Dốc sức bảo tồn
Người Chăm chủ yếu sinh sống dọc dài trên
dải đất miền Trung. Từ xa xưa, tất cả các phong tục, các nét đẹp văn hóa, tín
ngưỡng… hiện hữu trong cuộc sống, lao động, sản xuất đều được những người có chức
sắc trong các làng người Chăm ghi chép cẩn thận, chi tiết trên lá buông, giấy
dó, giấy quyển. Các chất liệu này do không được bảo quản tốt, không có sức bền
nên ngày càng mục nát. Trước nguy cơ ấy, tỉnh Ninh Thuận (nơi có nhiều làng người
Chăm nhất) đã thành lập Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Chăm để sưu tầm, bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa này.
Bà Nguyễn Thị Thu, Giám đốc Trung tâm
Nghiên cứu văn hóa Chăm bộc bạch: “Văn hóa Chăm, nét đẹp trong cộng đồng người
Chăm rất cuốn hút. Càng nghiên cứu càng thấy bung mở ra nhiều điều thú vị. Đó
là những quy chuẩn văn hóa, những quy ước đẹp trong cuộc sống. Có đến hơn 200
phong tục, lễ hội… của người Chăm được lưu lại trên những thư tịch viết tay. Từ
mấy chục năm trước tôi đã nhìn thấy những nét đẹp ấy.
Rồi đến khi về làm ở trung tâm, dù điều kiện
còn nhiều khó khăn, nhân lực ít nhưng chúng tôi không quản ngày đêm miệt mài đi
khắp các làng Chăm để hướng dẫn cách bảo quản, để sưu tầm. Bởi, người Chăm chủ
yếu bảo quản thủ công bằng cách treo lên gác bếp, phơi nắng… nên “sức khỏe” của
các thư tịch giảm sút nghiêm trọng. Nếu mất đi cuốn thư tịch nào nghĩa là mất
thêm một kho tàng quý giá. Nhiều người nghiên cứu các đề tài khoa học mà chỉ dựa
vào tư liệu điền dã thì sẽ không có tính chính xác cao. Thế nên càng cấp thiết
phải bảo tồn, biên dịch các thư tịch này ra chữ quốc ngữ”.
Chính vì niềm đam mê các nét đẹp, sự phong
phú, sống động của đời sống người Chăm qua thư tịch cổ nên từ ngày thành lập đến
nay, Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Chăm đã tiến hành điền dã, khảo sát, nghiên cứu
nhiều chuyên đề về văn hóa Chăm và văn hóa các dân tộc khác có liên quan tới
người Chăm gồm: trên 20 đề tài khoa học, trên 70 chuyên đề khảo cứu, đã công bố
7 công trình của cá nhân và tập thể xuất bản thành sách, hàng trăm công trình
bài viết trên các tạp chí khoa học và Hội thảo; tiến hành sưu tầm, phục chế
hàng trăm cuốn thư tịch cổ. Trong đó, thư tịch gốc gồm 53 cuốn được viết trên
giấy quyến, lá buông.
Quyết không để các thư tịch này hư hỏng dần
mòn, những thư tịch khó bảo quản, 52 cuốn thư tịch với tổng số 12.334 trang,
cùng với một số tư liệu khác như 500 ảnh tư liệu quý, 92 cuộn phim tư liệu thư
tịch cổ.
Những cuốn từ điển sống
Bao năm say sưa nghiên cứu văn hóa Chăm,
thư tịch Chăm, bà Nguyễn Thị Thu quả quyết rằng, kho tàng thư tịch này là tài
liệu cực kỳ quí hiếm. Nếu mất rồi thì khó mà tìm tòi thêm về dân tộc Chăm nữa.
Bởi, ngày nay những người Chăm lớn tuổi còn đọc và dịch được các thư tịch này
sang chữ quốc ngữ rất hiếm hoi.
Một trong những cuốn từ điển sống đồ sộ nhất
đó là ông Quảng Văn Đại, trú tại thôn Chất Thường, xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước,
Ninh Thuận. Ngược về mảnh đất Phú Hài, huyện Phan Thiết, Bình Thuận, còn có ông
Đạo Hùng Tiến cũng mê mẩn gìn giữ và dịch các thư tịch cổ người Chăm. Ông Tiến
giãi bày: “Tôi năm nay đã ngoài 90, mắt kém quá rồi. Không còn sức làm việc được
mấy nữa nên tất cả người Chăm chỉ còn nhờ vào ông Quảng Văn Đại dịch là chính
thôi. Vài người có nhiệt huyết với thư tịch cổ ở Ninh Thuận trước khi qua đời
cũng đã trao đổi lại nhiều kinh nghiệm quý cho ông Đại”.
Ngoài 80 tuổi, nhưng 50 năm nay, không kể
ngày đêm ông Quảng Văn Đại vẫn miệt mài đi khắp các mảnh đất miền Trung sưu tầm
thư tịch cổ người Chăm. Có nhiều đợt, ròng rã mấy tháng trời ông Đại rời nhà đi
ghi chép, nghiên cứu, sưu tầm, rồi tự dịch ra chữ quốc ngữ. Ánh mắt ẩn chứa
mênh mông khát vọng, ông tâm sự: “Cũng may gia tộc không phản đối, vợ con ủng hội
tuyệt đối tôi làm việc này. Có những đêm mải mê dịch mà kiệt sức gục xuống ngủ
ngay trên bàn. Bây giờ được người ta cho cái bàn, cái máy tính nên dịch đến
đâu, tôi đánh máy ra đến đó. Người Chăm dịch được các thư tịch này ra chữ quốc
ngữ hầu như chẳng còn ai”.
Viết bằng tay, rồi đánh máy, sau đó ông Đại
còn hệ thống thành những cuốn bản thảo đồ sộ hàng nghìn trang in. Những cuốn
thư tịch cổ song ngữ chữ Chăm và chữ Việt ấy, ông Đại tiếp tục hệ thống phân
chia khoa học rõ ràng từng phần riêng biệt như: văn hóa, lễ lạt, cúng tế, tín
ngưỡng…
Như
chạy đua với thời gian, ông Đại dựng luôn một gian phòng nhỏ bằng tôn, ăn ngủ
luôn trên các tài liệu và thư tịch Chăm để tức tốc dịch. Ông cho biết: “Nhiều
nét đẹp văn hóa của người Chăm rất tương đồng với các dân tộc khác của người Việt
như nghi lễ: Mbai padaong (nghi lễ cúng gia tiên), Ew Nisei bilan (nghi lễ cúng
các vị thổ địa)… Nhiều nghi lễ, phong tục mang đậm nét đẹp người Chăm như: lễ
Ew praok (lễ cúng các vị thần được người Chăm yêu quý), Mbai paraong kaok thun
(lễ cầu an, cầu phúc), nghi lễ Yuer yang (nghi lễ trọng đại, quy mô xin mở cửa
các tháp cổ cho mọi người vào tham quan)… Với ông Đại cũng như nhiều người
nghiên cứu văn hóa Chăm khác thì thư tịch cổ cũng như có linh hồn, đó là biểu
tượng cao đẹp, linh thiêng và đầy tính bác học.
Ước vọng khôn nguôi
Tự túc tất cả mọi thứ, sau nửa thế kỷ
nghiên cứu, dịch thư tịch, ông Quảng Văn Đại có nguyện vọng sẽ được các nhà xuất
bản in hàng chục nghìn trang bản thảo của ông. “Hiện tại Nhà xuất bản Dân tộc
cũng đã nhận xuất bản vài cuốn về nét đẹp người Chăm, tín ngưỡng người Chăm do
tôi biên soạn, dịch từ thư tịch cổ sang tiếng Việt. Nhưng còn rất nhiều bản thảo
quý khác, nếu tôi có mất đi thì các tài liệu này cũng xin được hiến vào các
trung tâm bảo tồn, nghiên cứu” - ông Đại chia sẻ tâm tư của mình.
Để nhiều tư liệu quý được dịch và phân
tích đầy đủ, dưới sự giúp đỡ của Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Chăm, ông Đại gửi
45 quyển thư tịch cổ Chăm, gồm 2.424 trang cho Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II bồi
nền, số hóa, phục chế. Sau khi hoàn tất, Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Chăm đã
giữ lại một bản sao còn bàn giao bản chính đã phục chế cho ông Đại.
Không
chỉ ông Đại mà những người làm công
tác quản lý, bảo tồn như bà
Nguyễn Thị Thu cũng cháy bỏng ước vọng, từ những nét đẹp trong thư tịch cổ này
sẽ làm phong phú, sống động, đa dạng nền văn hóa các dân tộc Việt Nam. Bà Thu
chia sẻ: “Việc giải mã các biểu trưng văn hóa, nét đẹp đời sống trong thư tịch
cổ đi đến mục tiêu quan trọng là bảo tồn đúng cách, nguyên vẹn những giá trị
văn hóa gốc cũng như định hướng phát huy những giá trị tích cực, giảm thiểu những
yếu tố rườm rà, phức tạp, lai căng, lãng phí.
Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Chăm sẽ tiếp
tục kiểm kê thư tịch cổ tại các làng Chăm để lên phương án hướng dẫn bảo quản tốt
nhất. Những nghi lễ đẹp trong thư tịch cũng sẽ thường xuyên được đưa ra tổ chức
tọa đàm. Đây sẽ là hoạt động khoa học thường niên phục vụ cho công tác nghiên cứu
văn hóa Chăm đạt đến kết quả thiết thực, thực sự gắn với đời sống của người
Chăm, trong đó tiếng nói của đội ngũ chức sắc đóng vai trò chi phối quan trọng.
Đó cũng là cách làm cho thư tịch có sức sống hơn”.
Hoàng
Thị Lân (Sưu Tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét