Phụ nữ người Chăm với trang phục truyền thống bên
tháp cổ
Tổng số dân: 400.000
Khu vực có số dân đáng kể: Campuchia
217.000, Việt Nam 162.000, Malaysia 10.000, Thái Lan 4.000, Hoa Kỳ 3.000, Pháp
1.000, Lào 800, Ả Rập Saudi 100.
Ngôn ngữ: Chăm, Khmer, Việt, Mã Lai
Tôn giáo: Đa phần theo Hồi giáo dòng
Sunni. Một bộ phận theo Ấn Độ giáo.
Sắc tộc có liên quan
Utsul, Gia Rai, Ê Đê, Ra Glai, Chu Ru, Mã
Lai,Indonesia, Philippines
Người Chăm, (tiếng Chăm: Urang Campa), còn
gọi là người Chàm, người Chiêm , dân Chiêm Thành, người Hời..., hiện cư ngụ chủ
yếu tại Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan và Hoa Kỳ. Người Chăm thuộc
nhóm chủng tộc Austronesia hay người Nam Đảo.
Dân số người Chăm tại Việt Nam theo điều
tra dân số 1999 là 132.873 người; theo tài liệu của Ủy ban Dân tộc Chính phủ Việt
Nam năm 2008 là khoảng hơn 145.000 người, xếp thứ 14 về số lượng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.
Tiếng Chăm thuộc ngữ tộc Malay-Polynesia của
hệ ngôn ngữ Nam Đảo (Autronesian).
Lịch sử
Người Chăm là một dân tộc đã từng có một
quốc gia độc lập, hùng mạnh trong lịch sử, có nền văn hóa phát triển, và là hậu
duệ của các cư dân nền văn hóa Sa Huỳnh thời kì đồ sắt. Ở Việt Nam người Chăm
có mối liên hệ gần gũi với các dân tộc nói các tiếng cùng thuộc ngữ tộc
Malay-Polynesia như Gia Rai, Ê Đê, Ra Glai và Chu Ru.
Nước Chiêm Thành khoảng thế kỉ 12.
Trước thế kỷ thứ 7 có vương quốc Lâm Ấp từ
năm Sơ Bình thứ 3 nhà Hán (192) đến năm Đại Nghiệp thứ 1 nhà Tùy (605). Sau năm
605, Lâm Ấp có nhiêu thay đổi, đặc biệt là liên tục xây tháp Ân giáo và dựng
bia tiếng Phạn, lịch sử bắt đầu được rõ ràng. Các tên gọi khác nhau của vương
quốc này theo văn bia tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ là Campapura, Campanagara,
Nagara Campa, Nagar Cam. Còn sử sách Trung Quốc gọi là Lâm Ấp quốc, Hoàn Vương
Quốc và Chiêm Thành quốc. Vương quốc này bắt đầu suy tàn từ đầu thế kỷ 15 sau
cuộc can thiệp do quân đội nhà Minh trong thời vua Vĩnh Lạc Đế đối với ba triều
đại:nhà Hậu Trần (Đại Việt), nhà Hồ (Đại Ngu) và triều đại Vijaya (Chiêm
Thành).
Sau khi quân đội nhà Minh rút về, vương quốc
Champa được phục hồi nhưng chia thành 2 tiểu vương quốc: Tiểu vương quốc Vijaya
(Đồ Bàn: 1428-1471) và Tiểu vương quốc Panduranga (Phan Rang: 1433-1832). Tiểu
vương quốc Vijaya bị quân đội Đại Việt tiêu diệt vào thời vua Lê Thánh Tông để
thôn tính đất đai vào năm Hồng Đức thứ 2 nhà Lê tức năm 1471). Năm đó, tiểu
vương quốc Panduranga cũng trở thành chư hầu của Đại Việt. Năm Hiển Tông thứ 2
chúa Nguyễn (năm Chính Hòa thứ 14 nhà Lê tức năm 1693), Nguyễn Hữu Cảnh đã một
lần chinh phục Tiểu vương quốc Panduranga, đổi tên Chiêm Thành quốc thành Thuận
Thành trấn, rồi đổi Thuận Thành trấn thành Bình Thuận phủ. Nhưng, năm 1694,
trong khi Nguyễn Hữu Cảnh tây chinh đánh Campuchia, tướng người Chăm tên Ốc Nha
Đạt và tướng người Thanh tên A Ban đã tập hợp được đông đảo lực lượng người
Chăm Pa, nổi dậy và tiêu diệt toàn bộ lực lượng chúa Nguyễn tại đây. Chúa Nguyễn
(vua Nguyễn Hiển Tông tức Nguyễn Phúc Chu) đã bất đắc dĩ cầu hòa với người
Champa và cho phép người Champa phục hồi Thuận Thành trấn (Khu Tự trị Champa).
Hòa ước giữa chúa Nguyễn và chúa Champa được ghi rõ trong Nghị Định Ngũ Điều
vào năm Hiển Tông thứ 21 (năm Vĩnh Thạnh thứ 8 nhà Lê tức năm 1712) và được duy
trì cho đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832). Sau giải thể khu tự trị vào năm 1832,
một số người Chăm liên minh với Lê Văn Khôi, nổi dậy để phục hồi Thuận Thành trấn
nhưng kết thúc thất bại. Hậu duệ của chúa Champa có ông Dụng Gạch (Bo Gait, Bộ
Gạch), một vị hoàng tử anh hùng, phó chủ tịch ủy ban hành chính lâm thời huyện
Hòa Đa (Bắc Bình ngày nay) phụ trách miền núi sau Cách mạng tháng Tám.
Phù điêu mô tả thủy chiến giữa người Chăm
và người Khmer ở đền Bayon.
Champa thừa kế Lâm Ấp được thành lập sau
cuộc nổi dậy của một viên quan địa phương (quan Công Tao) tên là Khu Liên
(Kiu-lien) chống lại chính quyền nhà Hán năm 192 tại huyện Tượng Lâm, thuộc quận
Nhật Nam (ngày nay là Huế). Lãnh thổ của Chăm Pa ngày nay thuộc thành phố Đà Nẵng
và các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình
Định, Phú Yên,Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và một số vùng Tây Nguyên. Lâm Ấp
chịu ảnh hưởng lớn văn hóa và tôn giáo Trung Quốc nhưng sau các cuộc chiến với
quốc gia láng giềng Phù Nam, cũng như sự thôn tính lãnh thổ của quốc gia này
vào thế kỷ 4, đã hòa trộn văn hóaẤn Độ. Theo văn bia tiếng Phạn tại Mỹ Sơn, vua
Champa và vua Campuchia đều là hậu duệ của hoàng tử Asvattaman, một anh hùng
lưu vong bạc mệnh trong sử thi Ấn Độ Mahabarata thuộc nhà Kuru. Riêng, các chúa
Panduranga thì thuộc dõng Pandu nên Champa (Vijaya, thuộc nhà Kuru) và
Panduranga (thuộc nhà Pandu) vốn là 2 quốc gia thù địch với nhau. Sử sách Trung
Quốc luôn ghi rõ 2 nước Chiêm Thành (Champa) và Tân Đồng Long (Panduranga) là 2
quốc gia riêng.
Lịch sử của vương quốc Chăm Pa là các cuộc
xung đột với Trung Quốc, Đại Việt, Khmer và Mông Cổ, cũng như xung đột nội bộ.
Chính là do các cuộc xung đột này mà Chăm Pa mất dần lãnh thổ vào tay Đại Việt,
một quốc gia có tổ chức chính quyền và quân sự tốt hơn. Chăm Pa trong quá khứ
là một nước chư hầu của các triều đại phong kiến Trung Quốc và Đại Việt nhưng vẫn
giữ được bản sắc văn hóa và sự toàn vẹn lãnh thổ. Người Chăm Pa là những chiến
binh giỏi đã sử dụng địa hình đồi núi để chiếm ưu thế. Năm Hồng Đức thứ 2 nhà
Lê (1471), Tiểu vương quốc Vijaya chịu tổn thất nặng nề trong cuộc chiến với Đại
Việt dưới triều đại vua Lê Thánh Tông. Khoảng 60.000 quân Chăm Pa bị giết và
30.000 bị bắt làm tù binh. Ngược lại, Tiểu vương quốc Panduranga tiếp tục phát
triển dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn và vua Gia Long (Nguyễn Thế Tổ) trong 4 đạo:
Đạo Pa-nrang (Đạo Phan Rang tức Tỉnh Ninh Thuận), Đạo Kraong (Đạo Long Hương /
Liên Hương tức Huyện Tuy Phong Tỉnh Bình Thuận), Đạo Pảrik (Đạo Phan Rí tức Huyện
Bắc Bình Tỉnh Bình Thuận) và Đạo Pạjai (Đạo Phố Hài, huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm
Thuận Nam, Hàm Tân và Thành phố Phan Thiết). Đến vua Minh Mạng, Khu Tự trị Thuận
Thành đã bị xóa sổ và trở thành phủ Ninh Thuận.
Dân số và cư trú
Một làng của người Chăm ở Ninh Thuận
Người Chăm được xác định là cư dân bản địa
ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam và đã có quá trình định cư lâu đời ở
khu vực này. Trải qua hàng ngàn năm, dưới những biến cố lịch sử, xã hội mà chủ
yếu là do chiến tranh và mẫu thuẫn nội bộ, người Chăm không còn cư trú tập trung
ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ mà phân bố rộng rãi ở khắp các tỉnh phía Nam
Việt Nam và một số các quốc gia khác.
Hiện nay tổng số người Chăm trên thế giới
khoảng 400.000 người, phân bố chủ yếu ở Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan
và Hoa Kỳ. Cộng đồng Chăm lớn nhất thế giới là vào khoảng trên 217.000 người tại
Campuchia, được gọi là Khmer Islam; kế đến là Việt Nam. Malaysia có trên 10.000
người, Thái Lan khoảng 4.000 người và Hoa Kỳ trên 3.000 người...
Một số người Chăm di cư sang các nước khác,
như tộc Utsul ở đảo Hải Nam, đến bang Terengganu của Malaysia. Trong thế kỷ 20,
nhiều người Chăm hoặc gốc Chăm di cư sang Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác.
Người Chăm ở Lào có hơn 800 người, trong đó có 600 người sống ở thủ đô
Viêng-chăn, cộng đồng này di cư từ Campuchia do sự diệt chủng của Khơ-me Đỏ.
Phân bố dân cư ở Việt Nam
Trên lãnh thổ Việt Nam có khoảng 145.235
người Chăm sinh sống, sống rải rác ở các tỉnh phía Nam như Bình Định, Phú Yên,
Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh,
An Giang,... Do đặc điểm cư trú, tính chất tôn giáo và sắc thái văn hóa mang
tính vùng miền, người Chăm ở Việt Nam được chia thành 3 nhóm cộng đồng chính
là: Chăm H'roi, Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận, và Chăm Nam Bộ.
Chăm H'roi bao gồm những người Chăm sống rải
rác ở miền núi các tỉnh Phú Yên, Bình Định; tổng số khoảng 20.500 người. Người
Chăm Hroi có nguồn gốc từ những người Chăm cổ là một bộ phận của cộng đồng Chăm
Việt Nam và từ lâu được gọi là Chăm Hroi. Người Chăm Hroi theo tín ngưỡng dân
gian chịu ảnh hưởng từ đạo Bàlamôn.
Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận hay Đông Chăm
gồm những người Chăm cư trú ở Ninh Thuận, Bình Thuận, có tên gọi là
Campaduraga; tổng số khoảng 98.000 người (Ninh Thuận: 66.000; Bình Thuận:
32.000), đây là nhóm cộng đồng Chăm lớn nhất chiếm khoảng 67,60% tổng số người
Chăm ở Việt Nam. Người Chăm Ninh Thuận-Bình Thuận có hai nhóm chính phân theo
tín ngưỡng là Chăm Ahiêr (Chăm Bàlamôn) và Chăm Awal (Chăm Bàni). Ngoài ra còn
có một nhóm nhỏ người Chăm Bàni đã cải sang theo Hồi giáo chính thống vào thập
niên 1960 do tiếp xúc với người Chăm Nam Bộ.
Chăm Nam Bộ hay Tây Chăm bao gồm những người
Chăm sinh sống chủ yếu ở An Giang, thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh; tổng số khoảng
26.700 người. Cộng đồng này đến từ Campuchia, và có nguồn gốc xa hơn nữa lại từ
Nam Trung Bộ Việt Nam như hai cộng đồng trên.
Sự hình thành nhóm Chăm Nam Bộ ở Tây Ninh
khởi đầu từ năm 1755 khi tướng Nguyễn Cư Trinh chiêu dụ người Chăm bị hà hiếp
trên đất Chân Lạp về định cư ở núi Bà Đen. Tới thời Minh Mạng, từ năm 1834, người
Chăm từ Chân Lạp tiếp tục về định cư ở 2 huyện Tân Ninh và Quang Hoá. Thời Tự Đức,
người Chăm lại tiếp tục tới Quang Hóa định cư vào các năm 1849, 1857.
Tại Châu Đốc, từ năm 1818, vua Gia Long đã
cho tu sửa bảo Châu Đốc và chiêu dụ người Việt, Hoa, Chăm, Khmer đến định cư.
Nhóm này gọi là Chăm Châu Đốc. Tới năm 1841, nhà Nguyễn rút quân khỏi Chân Lạp,
nhiều người Chăm cũng theo về định cư ở An Giang. Tới năm 1859, người Chăm ở
Campuchia nổi dậy chống vua Ang Duong. Bị đàn áp, hàng nghìn người Chăm sang
Châu Đốc tị nạn. Tới giai đoạn Khmer Đỏ, từ 1975, nhiều người Chăm từ Campuchia
tiếp tục sang Châu Đốc lánh nạn.
Trong cả hai nhóm người Chăm Nam Bộ trên:
Có một thành phần là người gốc từ quần đảo
Mã Lai và Indonesia, được gọi Chăm Chà-và (Cham Chvea, Cham Java, Cham Jva),
tên gọi này có thể bắt nguồn từ người Jawa Kur[4], người Hồi giáo nói tiếng
Khmer. Người Jawa Kur là con cháu của những thủy thủ đến từ Malaysia,
Indonesia, họ kết hôn với phụ nữ Khmer bản địa và con cái của họ nói tiếng
Khmer nhưng theo đạo Hồi (dòng Sunni). Người Jawa Kur hiện còn sống tại nhiều
vùng Campuchia và vùng Châu Đốc (tỉnh An Giang, Việt Nam). Do có sự tương đồng
về nguồn gốc Nam Đảo, người Chăm từ Việt Nam và người Jawa Kur đã sống cùng
nhau ở Campuchia, tạo thành một cộng đồng và có chung tín ngưỡng Islam Sunni.
Nhóm người Chăm từ Nam Trung Bộ đã sống
hòa đồng với người Jawa nói trên và theo Hồi giáo Sunni, và tự xưng là người
Islam dòng Sunni.
Nhóm người Chăm từ Nam Trung Bộ nhưng
không theo đạo Hồi "mới" của người Jawa Kur mà vẫn giữ lại đạo Hồi có
từ lúc ở miền Trung Việt Nam. Nhóm này bị 2 nhóm trên gọi là Chăm Jahed (Chăm xấu,
cũ). Có thể xem họ giống với người Chăm Bani ở Bình Thuận.
Bài chi tiết: Hồi giáo tại Việt Nam
Một số cộng đồng Chăm sau khi sang
Campuchia lại tiếp tục sang Malaysia và Thái Lan. Họ đều có nguồn gốc từ miền
Trung Việt Nam, di cư khỏi vùng đất cũ của mình do sựNam tiến của Đại Việt cách
đây nhiều thế kỷ. Đa số họ theo Hồi giáo Sunni và có tiếp xúc chặt chẽ với người
Malaysia và Indonesia do có cùng tôn giáo và ngôn ngữ cùng thuộcngữ tộc
Malay-Polynesia. Ở Campuchia, do tôn giáo của mình mà người Chăm còn được gọi
là Khmer Islam.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, người Chăm ở Việt Nam có dân số 161.729 người, cư trú tại 56 trên tổng số
63 tỉnh, thành phố. Người Chăm cư trú tập trung tại các tỉnh: Ninh Thuận
(67.274 người, chiếm 41,6% tổng số người Chăm tại Việt Nam), Bình Thuận (34.690
người, chiếm 21,4% tổng số người Chăm tại Việt Nam), Phú Yên(19.945 người), An
Giang (14.209 người), thành phố Hồ Chí Minh (7.819 người), Bình Định (5.336 người),
Đồng Nai (3.887 người), Tây Ninh (3.250 người)[2].
Tín ngưỡng, Tôn giáo
Tôn giáo đầu tiên [cần dẫn nguồn] của
Chămpa là 1 dạng của Ấn giáo Tamil Shaivism, tới từ miền Nam Ấn Độ qua đường biển.
Khi các thương gia Ả Rập, Ba Tư dừng chân ở miền duyên hải Trung bộ Việt Nam
trên đường tới Trung Hoa, Hồi giáo (Islam) bắt đầu ảnh hưởng tới văn hóa của
người Chăm.
Không rõ chính xác khi nào Hồi giáo tới
Champa nhưng các di chỉ ngôi mộ có niên đại vào thế kỷ 11 đã được phát hiện.
Nhìn chung người ta cho rằng Hồi giáo tới Đông Dương nhiều sau khi đã tới Trung
Quốc trong suốt thời kì nhà Đường (618–907), và các nhà buôn Ả Rập và Ba Tư
trong vùng đã tiếp xúc trực tiếp với người Chăm chứ không phải với các dân tộc
khác. Điều này có thể giải thích tại sao chỉ có người Chăm theo Hồi giáo theo
kiểu Ba Tư (chú trọng Ali như phe Shiia) một cách truyền thống trong vùng Đông
Dương.
Đa số người Chăm, đặc biệt là ở Campuchia,
theo Hồi giáo các phe Sunni, thực hiện các trụ cột của nó bao gồm cả cầu nguyện
năm lần một ngày, ăn chay trong tháng Ramadan và thực hiện hành hương hajj đến
thánh địa Mecca. Từ nhiều năm nay, các đại diện từ Campuchia đã tham gia vào cuộc
thi quốc tế ngâm thơ Kinh Qur'an tại Kuala Lumpur. Các cộng đồng người Hồi giáo
các phe Sunni Chăm ở Campuchia điều hành các trường học tôn giáo, và được đứng
đầu bởi một Mufti. Tuy nhiên, một nhóm nhỏ người Chăm, tự gọi mình Kaum Jumaat,
duy trì một sự thích nghi thần học Hồi giáo phe Shiia, theo đó họ cầu nguyện chỉ
vào thứ Sáu và tổ chức Ramadan chỉ trong ba ngày. Ở Việt Nam cũng có nhóm tương
tự được gọi là adat Bini (Bà Ni, Ăwal, Triều Nguyễn gọi là Ni Tục). Một số
thành viên của nhóm này có tham gia vào cộng đồng Chăm Hồi giáo Sunni và đang xảy
ra sự chia rẽ, tranh cãi giữa Kaum Jumaat (Shiia) và các phe Sunni tại
Campuchia, Bini và các phe Sunni tại Việt Nam. Một trong những yếu tố dẫn đến sự
thay đổi này là ảnh hưởng từ các thành viên trong gia đình của họ đã sang các
nước Hồi giáo theo các phe Sunni để nghiên cứu về Hồi giáo có xu hướng phải bắt
trước cả tông giáo lẫn phong tục Ả Rập, họ tin rằng người Chăm phải bỏ toàn bộ
phong tục xưa và trở thành một người như Mã Lai, như Ả Rập.
Tại Tây Sumatra, người Minangkabau lưu
truyền huyền thoại về võ sư Harimau Campo (hổ Champa). Harimau Campo cùng với
các võ sư Ninik Datuak Suri Dirajo (từ Padang Panjang), Kambiang Utan (dê rừng
Campuchia), Kuciang Siam (mèo Xiêm), Anjiang Mualim (chó Gujarat) là 5 tông
phái chính của môn võ Pencak Silat.
Bài chi tiết: Hồi giáo tại Việt Nam
Ở Việt Nam, có khoảng 60.000 người Chăm
theo adat Cham (Bà Chăm, Ahiér, Triều Nguyễn gọi là Chiêm Tục). Mặc dù cả hai
adat - adat Cham và adat Bini đều là adat của tín độ Hồi giáo nhưng sự nhầm lẫn
của người Pháp cho rẳng adat Cham là đạo Bà La Môn (Ấn giáo) đã dẫn đến quan
niêm sai lầm khó sửa lại, là họ tự cho rằng mình là tín độ Ấn giáo! Tất nhiên,
ngày nay họ không có một hệ thống đẳng cấp nghiêm ngặt, dù trước đó họ có thể
đã được chia thành đẳng cấp Nagavamshi Kshatriya[5] cùng với 1 thiểu số đẳng cấp
Brahmin có vai vế[6]. Các đền thờ vua được coi là các vị thần Ấn giáo hóa thân
xưa được gọi là Bimong trong tiếng Chăm. Các thầy tế lễ được chia thành 3 cấp,
cấp bậc cao nhất được gọi là Po Adhia hay Po (đọc a-sá), tiếp theo là Po Tapáh
và thấp nhất là Po Paséh.
Masjid Jamiul Azhar ở xã Châu Phong, Tân Châu.
Người Chăm ở Việt Nam về mặt tín ngưỡng có
3 nhóm chính:
Chăm ở Ninh Thuận-Bình Thuận theo adat
Cham;
Bini (phe Shiia) ở Ninh Thuận-Bình Thuận
theo adat Bini, là 1 dạng Hồi giáo theo phe Shiia;
Sunni (văn bản Đảng CSVN ghi là Islam) ở
An Giang và Nam Bộ theo Hồi giáo các phe Sunni, đặc biệt là phái Shafi'i, họ có
mối liên hệ gắn bó với thế giới các phe Sunni bên ngoài, chủ yếu thông qua Hồi
giáo ở Đông Nam Á như Malaysia.
Ngoài ra, cộng đồng Chăm H'roi ở miền núi
theo tín ngưỡng dân gian cũng có thể xếp vào nhóm thứ nhất.
Tại tỉnh Ninh Thuận, nơi có nhiều người
Chăm ở Việt Nam cư trú, có khoảng 44.000 người Chăm và gần 31.000 người Bini.
Trong số 34 làng Chăm ở Ninh Thuận, có 23 làng Chăm và 11 làng Bini[7]. Tại tỉnh
Bình Thuận, nơi có 4 làng toàn Chăm và 9 làng hỗn hợp thì có gần 25.000 người
Chăm và khoảng 10.000 người Bini [8].
Tại tỉnh An Giang có 9 xã có người Chăm
sinh sống, trong đó khoảng 2.660 hộ, 13.722 người, chiếm tỷ lệ gần 12% so tổng
số người dân tộc thiểu số và chiếm 0,62% so tổng dân số toàn tỉnh[9], sống tập
trung khá đông ở huyện An Phú và thị xã Tân Châu, số còn lại sống rải rác ở các
huyện: Châu Phú và Châu Thành, gần như toàn bộ theo Hồi giáo Sunni. Người Chăm ở
Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam Bộ cũng hầu hết theo đạo Hồi.
Đặc điểm kinh tế
Những tượng đá (điêu khắc Chăm). Hiện vật cổ
Chăm là một dân tộc có nhiều ngành nghề
truyền thống lâu đời như thêu, dệt, làm đồ gốm, làm gạch, chế tạo công cụ sản
xuất, buôn bán, đóng thuyền, đánh cá, điêu khắc... đặc biệt là nghề trồng lúa
nước được người Chăm phát triển từ rất sớm và luôn có những cải tiến về giống
và thủy lợi.
Người Chăm sống ở đồng bằng, có truyền thống
sản xuất lúa nước là chính. Kỹ thuật thâm canh lúa nước bằng các biện pháp giống,
phân bón, thủy lợi khá thành thạo. Hai nghề thủ công nổi tiếng là đồ gốm và dệt
vải sợi bông. Trước kia, người Chăm không trồng cây trong làng vì cho rằng cây
sẽ là nơi cư trú của ma quỷ.
Tổ chức cộng đồng
Người Chăm thường sinh sống tập trung
trong palei Cam (làng Chăm). Mỗi paley có khoảng 300 đến 400 hộ gia đình, cùng
theo một tôn giáo nhất định, gồm nhiều tộc họ sinh sống với nhau. Mỗi paley đều
có một đơn vị hành chính của làng là: Hội đồng phong tục và Po Paley (Trưởng
làng), trong đó, Po Palei là người đóng vai trò rất quan trọng trong Palei. Luật
tục Chăm ghi:
“Ếch có nắp đậy hang;
Làng có chủ cai quản.”
Po Paley được dân làng bầu, phải là người
cao tuổi, có uy tín, am hiểu phong tục tập quán, luôn vì mọi người, có lòng vị
tha. Đồng thời Po Paley cũng phải là người lao động giỏi, có kinh nghiệm trong
sản xuất, gia đình hạnh phúc, con cháu xum họp đoàn kết. Người Chăm ví Po Paley
như là cây cao, bóng cả:
“Cây to lan tỏa một lòng,
Xòe ra che mát cho người dừng chân.”
Hội đồng phong tục do dân làng bầu chọn và
có nhiệm vụ trông coi về vấn đề phong tục tập quán, tín ngưỡng. Thành viên của
Hội đồng phong tục đều là những người có uy tín trong tôn giáo, trong các tộc họ,
là người am hiểu tập quán, phong tục lễ nghi, tín ngưỡng, tôn giáo của người
Chăm, có quyền phân xử những thành viên trong paley vi phạm Luật tục. Trong trường
hợp người vi phạm ngoan cố thì khi cha, mẹ hoặc người thân chết, Hội đồng phong
tục sẽ cấm các tu sỹ, chức sắc không được cúng lễ và xem như người vi phạm đã bị
loại ra khỏi cộng đồng.
Người Chăm có tập quán bố trí cư trú dân
cư theo bàn cờ. Mỗi dòng họ, mỗi nhóm gia đình thân thuộc hay có khi chỉ một đại
gia đình ở quây quần thành một khoảnh hình vuông hoặc hình chữ nhật. Trong làng
các khoảnh như thế ngăn cách với nhau bởi những con đường nhỏ. Phần lớn làng
Chăm có dân số khoảng từ 1.000 người đến 2.000 người.
Mỗi một dòng họ có một chiết Atâu, một
Akauk Guăp và một vật tổ riêng. Luật tục Chăm quy định, Akauk Guăp phải là người
cao tuổi, am hiểu phong tục tập quán, có uy tín trong dòng họ, gia đình giàu
có, không được có chồng chắp vợ nối.
Hôn nhân gia đình
Chế độ mẫu hệ và tín ngưỡng nữ thần vẫn tồn
tại ở người Chăm. Đàn ông lo việc ngoài nhà, đàn bà lo việc trong gia đình và
gia phả. Phong tục Chăm quy định con theo họ mẹ, họ bên mẹ được xem là gần (họ
nội). Nhà gái cưới chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ, đến khi chết đi nhà vợ
có trách nhiệm thờ cúng đến hết tang, sau đó mang hài cốt về trả lại cho dòng họ
nhà trai tiếp tục thờ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, người con gái út được
thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già.
Hoàng
minh Thắng (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét