Nghệ nhân Chăm.
Dân
tộc Chăm thuộc nhóm ngôn ngữ Mã lai – Đa đảo (ngữ hệ Nam Đảo), có quan hệ họ
hàng với người Raglai, người Ê Đê,
người Chu Ru và người Gia Rai. Người Chăm cũng có nhiều nét tương đồng về mặt tộc
người với người Indonesia, người Malaisia, người Brunei… ở khu vực Đông Nam Á.
Họ là những cư dân bản địa ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ, đã từng kiến tạo nên
một nền văn hóa rực rỡ với ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ.
Có ý kiến cho rằng, người Chăm và các dân
tộc thuộc nhóm Mã lai – đa đảo khác, như: Ê Đê, Gia Rai, Raglai… từ vùng biển
Đông Nam Á và Thái Bình Dương di cư đến Việt Nam. Trên mảnh đất mà tổ tiên người
Chăm sinh sống từ xa xưa, các nhà khoa học đã phát hiện ra dấu tích của nền văn
hóa Sa Huỳnh, một nền văn hóa tiền sử ở Trung bộ nước ta. Do đó, lại có ý kiến
cho rằng, người Chăm vốn là những cư dân bản địa ở khu vực này. Họ chính là hậu
duệ của các cư dân văn hóa Sa Huỳnh ở thời kì đồ sắt. Dù vẫn còn những quan điểm
khác nhau, nhưng có một thực tế mà tất cả các nhà khoa học đều thừa nhận: người
Chăm xưa kia từng là chủ nhân của một quốc gia độc lập, hùng mạnh trong lịch sử
và có nền văn hóa phát triển rực rỡ. Đó là nhà nước Chăm Pa, hay còn gọi là
Chiêm Thành.
Thánh địa Mỹ Sơn.
“Nhà nước Chăm Pa là một trong những nhà
nước xưa nhất, ra đời sớm nhất và cũng tồn tại lâu nhất của khu vực Đông Nam Á
này. Nhà nước này, theo sử sách, đã xuất hiện vào cuối thế kỉ thứ 2 sau Công
nguyên. Nhà nước đầu tiên của người Chăm là nhà nước Lâm Ấp. Sau này, nhà nước
này lớn mạnh, trở thành 1 nhà nước lớn, có 1 lãnh thổ kéo dài suốt từ đèo Ngang
cho tới vùng Đồng Nai bây giờ, tức là suốt dọc dải đất miền Trung. Thậm chí, có
những thời, vương quốc này mở rộng lãnh thổ tới vùng Tây Nguyên, sử sách gọi là
vùng Thượng Nguyên của Chiêm Thành. (Nghiên cứu của ông Ngô Văn Doanh, Ủy viên
Hội đồng Di sản quốc gia).
Cũng như những nhà nước khác ở Đông Nam Á
thời kì này, vương quốc Chăm Pa chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độ. Theo
ông Ngô Văn Doanh, từ thế kỉ thứ 4, văn
hóa Ấn Độ đã được truyền bá vào Chăm Pa và Ấn Độ giáo trở thành tôn giáo chính
thống của đất nước: “Thể chế chính trị, văn hóa của Nhà nước Chăm Pa ngay từ đầu
cho đến khi không còn tồn tại nữa, là một nhà nước theo mô hình của Ấn Độ. Có
thể thấy ngay trong sử sách, các bia kí ghi lại, tổ chức triều đình, cách lên
ngôi vua, cách truyền ngôi, rồi các bộ luật, rồi các quy chế trong triều đình…
đều làm theo quy chuẩn của Ấn Độ. Còn trong lĩnh vực văn hóa, gần như tất cả
các khía cạnh lớn: văn học, tôn giáo, chữ viết, rồi phong tục tập quán, cả ăn mặc…
đều theo các mẫu của Ấn Độ. Cũng chính vì thế, không phải ngẫu nhiên mà các nhà
khoa học gọi Chăm Pa và một số nước Đông Nam Á là các vương quốc “Ấn Độ hóa”.
Từ thế kỉ thứ 10, các thương nhân Ả Rập đã
mang tôn giáo và văn hóa đạo Hồi vào Chăm Pa. Vào thế kỉ 17, hoàng gia Chăm đã
lấy đạo Hồi làm quốc giáo và đa số người dân theo đạo này.
Trong
suốt thời gian tồn tại Nhà nước với
gần 20 thế kỉ, văn hóa Chăm Pa phát triển rực rỡ. Điêu khắc Chăm Pa đã đạt đến
tầm cỡ thế giới, sánh ngang với nền điêu khắc của người Khmer và người Java
trong khu vực. Các vị vua Chăm đã cho xây dựng nhiều ngôi đền tháp theo phong
cách của Ấn Độ giáo. Một số đền tháp còn tồn tại đến ngày nay. Những bia kí
Chăm Pa được viết bằng chữ Phạn được viết chủ yếu bằng các thể thơ của Ấn Độ.
Người Chăm Pa có một hệ thống lễ hội phong phú. Âm nhạc và ca múa đóng vai trò
quan trọng trong đời sống của người Chăm xưa, đặc biệt trong các lễ hội như lễ
Ka tê, lễ mở cửa đền tháp….
Tư thế và nụ cười an nhiên và bình thản của
Siva, Tháp Bánh Ít, Bình Định (thế kỷ XI).
Người Chăm ở Việt Nam ngày nay được thừa
hưởng một nền văn hóa phong phú, đa dạng từ tổ tiên của mình là những cư dân
Chăm Pa ngày trước. Điều này được thể hiện qua các lĩnh vực: tổ chức xã hội, kiến
trúc, văn học, nghệ thuật…
Hoàng
Thị Vinh (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét