Điệu múa của dân tộc Chăm
Người
dân tộc thiểu số Chăm, còn gọi là người Chàm, người Chiêm Thành, người Chiêm, người Hời... Hiện nay người Chăm
cư ngụ chủ yếu tại Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thai Lan và Mỹ. Dân số tại Việt
Nam theo điều tra dân số năm 1999 là 132.873 người; theo tài liệu của Ủy ban
Dân tộc Chính phủ Việt Nam năm 2008 là khoảng hơn 145.000 người, xếp thứ 14 về
số lượng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Lịch sử hình thành
Người Chăm là một dân tộc đã từng có một
quốc gia độc lập, hùng mạnh trong lịch sử; có nền văn hóa phát triển; có quan hệ
đồng tộc, đồng tôn với các cộng đồng người Chăm ở các nước khác như Campuchia,
Thái Lan, Malaysia, Mỹ, Pháp, Australia, Canada... Ở Việt Nam người Chăm có
quan hệ gần gũi với nhóm dân tộc như Ê Đê, Gia Rai, Chu Ru, Raglai.
Trước thế kỷ thứ VII có Vương quốc Lâm Ấp
từ năm Sơ Bình thứ 3 nhà Hán (192) đến năm Đại Nghiệp thứ 1 nhà Tùy (605). Sau
năm 605, tình hình nước ChămPa không rõ cho đến thế kỷ thứ VIII. Các tên gọi
khác nhau của Vương quốc này theo văn bia tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ là
Campanagara, Nagara Campa, Nagar Cam. Còn sử sách Trung Quốc gọi là Lâm Ấp Quốc,
phiên âm theo tiếng Bắc Kinh hiện nay là Lin-yi-guo, Chiêm Bà Quốc, Hoàn Vương
Quốc và Chiêm Thành Quốc. Vương quốc này bắt đầu suy tàn từ đầu thế kỷ XV sau
cuộc can thiệp do quân đội nhà Minh dưới sự chỉ huy của vua Vĩnh Lạc Đế đối với
ba triều đại: nhà Hậu Trần (Đại Việt), nhà Hồ (Đại Ngu) và triều đại Vijaya
(Chăm Pa). Sau khi quân đội nhà Minh rút về, Vương quốc Chăm Pa được phục hồi
nhưng chia thành 2 tiểu vương quốc: Tiểu vương quốc Vijaya (Đồ Bàn: 1428-1471)
và Tiểu vương quốc Panduranga (Phan Rang: 1433-1832). Tiểu Vương quốc Vijaya bị
quân đội Đại Việttiêu diệt dưới sự chỉ huy của vua Lê Thánh Tông để thôn tính đất
đai vào năm Hồng Đức thứ 2 nhà Lê tức năm 1471. Năm đó, Tiểu Vương quốc
Panduranga cũng trở thành chư hầu của Đại Việt. Năm Hiển Tông thứ 2 chúa Nguyễn,
năm Chính Hòa thứ 14 nhà Lê tức năm 1693, Nguyễn Hữu Cảnh đã một lần chinh phục
Tiểu Vương quốc Panduranga, đổi tên Chiêm Thành quốc thành Thuận Thành trấn, rồi
đổi Thuận Thành trấn thành Bình Thuận phủ. Nhưng đến năm 1694, trong khi Nguyễn
Hữu Cảnh tây chinh đánh Campuchia, tướng người Chăm tên Ốc Nha Đạt và tướng người
Thanh tên A Ban đã tập hợp được đông đảo lực lượng người Chăm Pa, nổi dậy và
tiêu diệt toàn bộ lực lượng chúa Nguyễn tại đây. Chúa Nguyễn, vua Nguyễn Hiển
Tông tức Nguyễn Phúc Chu đã bất đắc dĩ cầu hòa với người Chăm Pa và cho phép
người Chăm Pa phục hồi Thuận Thành trấn (Khu Tự trị Chăm Pa). Hòa ước giữa chúa
Nguyễn và chúa Chăm Pa được ghi rõ trong Nghị Định Ngũ Điều vào năm Hiển Tông
thứ 21, năm Vĩnh Thạnh thứ 8 nhà Lê tức năm 1712 và được duy trì cho đến năm
Minh Mạng thứ 13 (1832). Sau cải thổ quy lưu (giải thể khu tự trị) vào năm
1832, một số người Chăm liên minh với Lê Văn Khôi, nổi dậy để phục hồi Thuận
Thành trấn nhưng kết thúc thất bại. Hậu duệ của chúa Chăm Pa có ông Dụng Gạch,
một vị hoàng tử anh hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính lâm thời huyện Hòa Đa
(Bắc Bình ngày nay) phụ trách miền núi sau Cách mạng tháng Tám.
Các sản phẩm gốm bàn xoay của người Chăm rất nổi
tiếng và phổ biến ở miền Trung.
Phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong việc tạo
ra các sản phẩm đó.
Chăm Pa thừa kế Lâm Ấp được thành lập sau
cuộc nổi dậy của một viên quan địa phương (quan Công Tao) tên là Khu Liên
(Kiu-lien) chống lại chính quyền nhà Hán năm 192 tại huyện Tượng Lâm, thuộc quận
Nhật Nam, ngày nay là Huế. Lãnh thổ của Chăm Pa ngày nay thuộc thành phố Đà Nẵng
và các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình
Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và một số vùng Tây Nguyên. Lâm
Ấp chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa và tôn giáo Trung Quốc nhưng sau các cuộc chiến
với quốc gia láng giềng Phù Nam, cũng như sự thôn tính lãnh thổ của quốc gia
này vào thế kỷ IV, đã hòa trộn văn hóa Ấn Độ. Theo văn bia tiếng Phạn tại Mỹ
Sơn, vua Chăm Pa và vua Campuchia đều là hậu duệ của Hoàng tử Asvattaman, một
anh hùng lưu vong bạc mệnh trong sử thi Ấn Độ Mahabarata thuộc nhà Kuru. Riêng,
các chúa Panduranga thì thuộc dòng Pandu nên Chăm Pa (Vijaya, thuộc nhà Kuru)
và Panduranga (thuộc nhà Pandu) vốn là 2 quốc gia thù địch với nhau. Sử sách
Trung Quốc luôn ghi rõ 2 nước Chiêm Thành (Chăm Pa) và Tân Đồng Long
(Panduranga) là 2 quốc gia riêng.
Lịch sử của vương quốc Chăm Pa là các cuộc
xung đột với Trung Quốc, Đại Việt, Khmer và Mông Cổ, cũng như xung đột nội bộ.
Chính do các cuộc xung đột này mà Chăm Pa mất dần lãnh thổ vào tay Đại Việt, một
quốc gia có tổ chức chính quyền và quân sự hoàn hảo hơn. Chăm Pa trong quá khứ
là một nước chư hầu của các triều đại phong kiến Trung Quốc và Đại Việt nhưng vẫn
giữ được bản sắc văn hóa và sự toàn vẹn lãnh thổ. Người Chăm Pa là những chiến
binh giỏi đã sử dụng địa hình đồi núi để chiếm ưu thế. Năm Hồng Đức thứ 2 nhà
Lê (1471), Tiểu Vương quốc Vijaya chịu tổn thất nặng nề trong cuộc chiến với Đại
Việt dưới triều đại vua Lê Thánh Tông. Khoảng 60.000 quân Chăm Pa bị giết và
30.000 bị bắt làm tù binh. Ngược lại, Tiểu Vương quốc Panduranga tiếp tục phát
triển dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn và vua Gia Long (Nguyễn Thế Tổ) trong các
vùng thung lũng Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết. Tuy nhiên vua Minh Mạng đã
không quan tâm Chăm Pa như vua cha nữa và thủ tiêu cơ chế tự trị của Thuận
Thành trấn vào năm Minh Mạng thứ 13 nhà Nguyễn (1832).
Dân tộc Chăm có truyền thống múa lâu đời và phong
phú.
Về ngôn ngữ, dân số và địa bàn cư trú
Tiếng Chăm thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai-Đa Đảo
(Malayo-Polynesian) của hệ ngôn ngữ Nam Đảo (Autronesian).
Người Chăm được xác định là cư dân bản địa
ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam và đã có quá trình định cư lâu đời
ở khu vực này. Trải qua hàng ngàn năm, dưới những biến cố lịch sử, xã hội, chủ
yếu là do chiến tranh và mâu thuẫn nội bộ, người Chăm không còn cư trú tập
trung ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ mà phân bố rộng rãi ở khắp các tỉnh phía
Nam Việt Nam và một số các quốc gia khác.
Hiện nay tổng số người Chăm trên thế giới
khoảng 400.000 người, phân bố chủ yếu ở Campuchia, Việt nam, Malaysia, Thái Lan
và Mỹ. Cộng đồng Chăm lớn nhất thế giới vào khoảng trên 270.000 người tại
Campuchia, được gọi là Khmer Islam; kế đến là Việt Nam 145.000 người; Thái Lan
trên 15.000 người; Malaysia trên 10.000 người và Mỹ khoảng trên 200 người.
Một số người Chăm di cư sang các nước khác
như tộc Utsul ở đảo Hải Nam đến bang Terengganu của Malaysia hay vùng Hạ Lào.
Trong thế kỷ XX, nhiều người Chăm hoặc gốc Chăm di cư sang Mỹ và các nước
phương Tây khác.
Ở Việt Nam có khoảng 145.235 người Chăm
sinh sống, sống rải rác ở các tỉnh phía Nam như Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa,
Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Phước, Thành phố Hồ Chí Minh,
An Giang... Do đặc điểm cư trú, tính chất tôn giáo và sắc thái văn hóa mang
tính vùng miền, người Chăm ở Việt Nam được chia thành 3 nhóm cộng đồng chính là
Chăm Hroi, Chăm Ninh Thuận-Bình Thuận và Chăm Nam Bộ.
- Nhóm Chăm Hroi bao gồm những người Chăm
hiện đang sống rải rác từ Nha Trang trở ra, chủ yếu là ở tỉnh Phú Yên và Bình Định;
tổng số khoảng 20.500 người. Người Chăm Hroi có nguồn gốc từ những người Chăm cổ
là một bộ phận của cộng đồng Chăm Việt Nam và từ lâu được gọi là Chăm Hroi.
- Nhóm Chăm Ninh Thuận-Bình Thuận gồm những
người Chăm cư trú ở tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, có tên gọi là Campaduraga; có
tổng số dân khoảng 98.000 người; (Ninh Thuận 66.000 người; Bình Thuận 32.000
người); đây là nhóm cộng đồng người dân tộc Chăm lớn nhất chiếm khoảng 67,60% tổng
số người Chăm ở Việt Nam.
- Nhóm Chăm Nam Bộ bao gồm những người
Chăm sinh sống chủ yếu ở An Giang, Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh Đông
Nam Bộ với tổng số khoảng 26.700 người, cư trú ở các tỉnh như Thành phố Hồ Chí
Minh, Đồng Nai, Tây Ninh, An Giang, Kiên Giang, Bình Dương, Bình Phước... trong
đó tập trung chủ yếu ở An Giang và Thành phố Hồ Chí Minh. Người Chăm ở đây có
cùng nguồn gốc với người Chăm Hroi và người Chăm ở Ninh Thuận-Bình Thuận, nhưng
do nguyên nhân lịch sử, nhiều người Chăm đã rời Việt Nam đến các nước như
Campuchia, Thái Lan, Malaysia vào những thế kỷ trước. Từ cuối thế kỷ thứ XVIII
đến đầu thế kỷ thứ XX, một bộ phận người Chăm ở Campuchia mâu thuẫn với người
Khmer bản địa và sự ngược đãi của chính quyền Campuchia nên đã tìm về cư trú ở
An Giang và Tây Ninh, tạo nên cộng đồng người Chăm ở hai tỉnh này. Những năm
sau đó, một bộ phận nhỏ người Chăm này chuyển đến một số tỉnh khác ở Nam Bộ để
sinh sống.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, dân tộc Chăm ở Việt Nam có 161.729 người, cư trú tại 56 trên tổng số 63 tỉnh,
thành phố. Người Chăm cư trú tập trung tại các tỉnh như Ninh Thuận 67.247 người,
chiếm tỷ lệ 41,6% tổng số người Chăm tại Việt nam; Bình Thuận 34.690 người, chiếm
tỷ lệ 21,4% tổng số người Chăm tại Việt Nam; Phú Yên 19.945 người, An Giang
14.209 người, Thành phố Hồ Chí Minh 7.819 người, Bình Định 5.336 người, Đồng
Nai 3.887 người, Tây Ninh 3.250 người.
Về tín ngưỡng và tôn giáo
Người Chăm có tín ngưỡng, tôn giáo rất
phong phú. Tín ngưỡng của người Chăm có từ xa xưa và mang dấu ấn của thời
nguyên thủy, đó là sự tin tưởng của người Chăm vào sự tồn tại của một thế giới
siêu nhân, nơi các thần linh ngự trị và cũng chính là nơi tồn tại của ma quỷ và
linh hồn của những vật thể ở thế giới trần tục sau khi chết. Người Chăm luôn
tin rằng tất cả các vật thể cũng như mọi người đều có linh hồn và linh hồn thì
tồn tại vĩnh viễn dù con người có chết đi và các vật thể đã bị hư hại. Những
linh hồn cùng với ma quỷ và thần linh luôn có những tác động, chi phối, ảnh hưởng
đến thế giới hiện hữu, đến đời sống của cộng đồng cũng như đến từng thành viên
trong cộng đồng người Chăm. Người Chăm thờ rất nhiều vị thần linh như Thần cây,
Thần đá, Thần nước, thờ Linh hồn tổ tiên.
Người Chăm là một cộng đồng đa tôn giáo,
niềm tin tôn giáo luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống tâm lý của
họ, chi phối hoạt động nhận thức, tình cảm, ý chí của mỗi cá nhân trong cộng đồng.
Người Chăm có niềm tin tôn giáo rất sâu sắc, chịu sự chi phối ràng buộc chặt chẽ
bởi tôn giáo truyền thống.
Người Chăm theo Ấn Độ giáo, Hồi giáo, Phật
giáo. Tôn giáo chính thời Vương quốc Chăm Pa cổ là Ấn Độ giáo và văn hóa chịu ảnh
hưởng sâu sắc của Ấn Độ. Tuy nhiên, đạo Bà La Môn (tức là tục Bachăm) ngày nay
hoàn toàn không liên quan với Ấn Độ giáo này. Ngày nay, hầu hết người Chăm theo
Hồi giáo. Hồi giáo của người Chăm có 2 loại: Một là tục Bani và tục Bachăm. Hai
là Hồi giáo Sunni (thuộc giáo phái Hanafi). Tục Bani và Bachăm là một tôn giáo
chịu ảnh hưởng của Hồi giáo Shi'a (Ba Tư, Iran), họ rất tôn trọng Ali như
Muhammad. Còn Hồi giáo Sunni thì không chấp nhận tôn trọng Ali như Muhammad.
Theo Biên niên sử Mã Lai (1614), Hồi giáo đầu tiên ở thế giới Mã Lai cũng phát
nguồn từ Iran, nhưng sau này, người Ả Rập từ vùng Hadramaut (gọi là Hadrami)
sang Mã Lai tuyên truyền, xuyên tạc Hồi giáo Shi'a là tà giáo, buộc người Mã
Lai theo Hồi giáo Sunni cực đoan vào cuối thế kỷ thứ XVIII, đầu thế kỷ thứ XIX.
Tục Bani là một hồi giáo bản địa hóa hiền lành, khoan dung, không cực đoan. Tục
Bani giống giáo phái Alewi, một giáo phái Hồi giáo Shi'a ở Cộng hòa Suri ngày
nay. Con đường tục Bani từ Iran chuyển bá chưa được làm rõ nhưng nhiều tài liệu
Mã Lai, Java cho rằng chính Chăm Pa là trung tâm tuyên giáo Hồi giáo đầu tiên tại
khu vực Đông Nam Á.
Người Chăm sống ở Myanmar rất nhiều, là một
trong bốn dân tộc lớn nhất Myanmar. Hầu hết mang họ Aung cùng họ với họ Ung của
người Chăm ở Việt Nam đã bị Việt hoá.
Về kinh tế và tổ chức cộng đồng
Người Chăm là một dân tộc có nhiều ngành
nghề truyền thống lâu đời như thêu, dệt, làm đồ gốm, làm gạch, chế tạo công cụ
sản xuất, buôn bán, đóng thuyền, đánh cá, điêu khắc... đặc biệt là nghề trồng
lúa nước được người Chăm phát triển từ rất sớm và luôn có những cải tiến về giống
và thủy lợi.
Người Chăm sống ở đồng bằng, có truyền thống
sản xuất lúa nước là chính. Kỹ thuật thâm canh lúa nước bằng các biện pháp giống,
phân bón, thủy lợi khá thành thạo. Hai nghề thủ công nổi tiếng là đồ gốm và dệt
vải sợi bông. Trước kia, người Chăm không trồng cây trong làng vì cho rằng cây
sẽ là nơi cư trú của ma quỷ.
Người Chăm thường sinh sống tập trung
trong paley Chăm (làng Chăm). Mỗi paley có khoảng 300 đến 400 hộ gia đình, cùng
theo một tôn giáo nhất định, gồm nhiều tộc họ sinh sống với nhau. Mỗi paley đều
có một đơn vị hành chính của làng là Hội đồng phong tục và Po Paley (Trưởng
làng); trong đó Po Paley là người đóng vai trò rất quan trọng trong Paley. Luật
tục Chăm ghi:
“Ếch có nắp đậy hang,
Làng có chủ cai quản”
Po Paley được dân làng bầu, phải là người
cao tuổi, có uy tín, am hiểu phong tục tập quán, luôn vì mọi người, có lòng vị
tha. Đồng thời Po Paley cũng phải là người lao động giỏi, có kinh nghiệm trong
sản xuất, gia đình hạnh phúc, con cháu sum họp đoàn kết. Người Chăm ví Po Paley
như là cây cao, bóng cả:
“Cây to lan toả một lòng,
Xoè ra che mát cho người dừng chân”
Hội đồng phong tục do dân làng bầu chọn và
có nhiệm vụ trông coi về vấn đề phong tục tập quán, tín ngưỡng. Thành viên của
Hội đồng phong tục đều là những người có uy tín trong tôn giáo, trong các tộc họ,
là người am hiểu tập quán, phong tục lễ nghi, tín ngưỡng, tôn giáo của người
Chăm; có quyền phân xử những thành viên trong paley vi phạm Luật tục. Trong trường
hợp người vi phạm ngoan cố thì khi cha, mẹ hoặc người thân chết, Hội đồng phong
tục sẽ cấm các tu sĩ, chức sắc không được cúng lễ và xem như người vi phạm đã bị
loại ra khỏi cộng đồng.
Người Chăm có tập quán bố trí cư trú dân
cư theo bàn cờ. Mỗi dòng họ, mỗi nhóm gia đình thân thuộc hay có khi chỉ một đại
gia đình ở quây quần thành một khoảnh hình vuông hoặc hình chữ nhật. Trong làng
các khoảnh như thế ngăn cách với nhau bởi những con đường nhỏ. Phần lớn làng
Chăm có dân số khoảng từ 1.000 người đến 2.000 người.
Mỗi một dòng họ có một chiết Atâu, một
Akauk Guăp và một vật tổ riêng. Luật tục Chăm quy định, Akauk Guăp phải là người
cao tuổi, am hiểu phong tục tập quán, có uy tín trong dòng họ, gia đình giàu
có, không được có chồng chắp vợ nối.
Về hôn nhân gia đình và nhà cửa
Chế độ mẫu hệ và tín ngưỡng nữ thần vẫn tồn
tại ở người Chăm. Đàn ông lo việc ngoài nhà, đàn bà lo việc trong gia đình và
gia phả. Phong tục Chăm quy định con theo họ mẹ, họ bên mẹ được xem là gần họ nội.
Nhà gái cưới chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ, đến khi chết đi nhà vợ có
trách nhiệm thờ cúng đến hết tang, sau đó mang hài cốt về trả lại cho dòng họ
nhà trai tiếp tục thờ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, người con gái út được
thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già.
Về nhà cửa, nhà ở của người Chăm là một quần
thể nhà trong một khuôn viên, bây giờ do việc quy họach phân lô đất theo kiểu
nhà liên kế hẹp nên việc phát triển nhà theo quần thể trong một khuôn viên dần
không còn nữa. Mối quan hệ của các nhà trong quần thể này đã thể hiện quá trình
tan vỡ của hình thái gia đình lớn mẫu hệ để trở thành các gia đình nhỏ.
- Bộ khung nhà của người Chăm ở Bình Thuận
khá đơn giản. Vì cột cơ bản là vì ba cột, kèo được liên kết với cột hoặc không
có vì kèo thì dùng tường thay thế kèo. Nếu là vì năm cột thì có thêm xà ngang đầu
gác lên cây đòn tay cái nơi hai đầu cột con. Từ các kiểu vì này dần dần xuất hiện
cây kèo và trở thành vì kèo.
- Mặt trước nhà quay về hướng Nam hoặc hướng
Tây. Gian giữa là trung tâm, người Chăm gọi là sang-yơ, phía phải là phòng ngủ
của bố mẹ, bên trái là kho, sau là phòng ngủ của con cái. Mặt trước có một hiên
ở giữa nhà.
- Nhà bếp được xây dựng riêng biệt với nhà
chính và ở phía Tây nhà chính, trong nhà bếp có khu bếp, khu chứa nước uống và
kho chất đốt chứa củi, than...
Nhà người Chăm ở miền Nam lại rất khác:
- Nhà người Chăm ở An Giang có cách tổ chức
mặt bằng sinh hoạt còn phảng phất cái hình đồ sộ của nhà sang yơ ở Bình Thuận.
- Nhà người Chăm ở Châu Đốc có khuôn viên
không còn nhiều nhà mà chỉ có nhà chính và nhà phụ kết hợp thành hình thước thợ.
Chuồng trâu bò và lợn được làm xa nhà ở.
Nhà ở là nhà sàn, chân rất cao để phòng ngập
lụt. Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt hoàn toàn khác với nhà ở Bình Thuận
cũng như ở An Giang.
Về trang phục
Trang phục người Chăm của những nhóm dân địa
phương khác nhau với lối tạo dáng và trang trí riêng khó lẫn lộn với các tộc
người trong nhóm ngôn ngữ hoặc khu vực.
- Trang phục nam
Trang phục cổ truyền của đàn ông lớn tuổi
thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn nhạt
màu vàng hoặc bạc, ở hai đầu khăn có các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân.
Những vị có chức sắc tôn giáo, hai đầu khăn có hoa văn màu vàng, tua vải màu đỏ,
quấn thả ra hai mang tai. Nam mặc áo có cánh xếp chéo và cài dây phía bên hông
thắt lưng, thường là áo màu trắng, trong là quần soọc, ngoài quấn váy xếp.
Trang phục dân tộc Chăm
- Trang phục nữ
Về cơ bản, phụ nữ các nhóm người Chăm thường
đội khăn. Khăn được phủ trên mái tóc hoặc quấn gọn trên đầu, quấn theo lối chữ
nhân hay dùng loại khăn to quàng từ đầu rồi phủ kín vai. Khăn đội đầu chủ yếu
là màu trắng, có loại được trang trí hoa văn theo lối viền các mép khăn đối với
khăn to. Nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục thường có chiếc khăn vắt
vai ngoài chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài tới 23 m vắt qua vai
chéo xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đỏ, trắng, vàng của
các trang trí trong bố cục của dải băng.
Nữ mặc áo cổ tròn cài nút phía trước ngực
xuống đến bụng, quấn váy xếp khi làm lễ hoặc mặc váy ống thông thường, đầu quấn
khăn không ràng buộc về màu sắc.
Thiếu nữ Chăm
Phụ nữ nhóm người Chăm Khánh Hoà và ở một
số nơi mặc quần bên trong áo dài. Nhóm Chăm Hroi mặc váy quấn hở có miếng đáp
sau váy.
Nhóm người Chăm Quảng Ngãi mặc áo cánh xẻ
ngực, cổ đeo vòng và các chuỗi hạt cườm.
Trang phục của người Chăm do có nhóm cơ bản
theo Hồi giáo nên cả nam và nữ có lễ phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc
điểm trang phục lối tạo hình áo khá điển hình là lối khoét cổ và can thân, nách
từ một miếng vải khổ hẹp hoặc can với áo dài thẳng ở giữa làm trung tâm áo cho
cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy ở đây duy nhất còn tộc người Chăm có
nam giới mặc váy ở nước ta với lối mang trang phục và phong cách thẩm mỹ riêng.
Hứa Ban Mai (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét