Dân
tộc Kháng, tên tự gọi: Mơ Kháng, còn
có các tên gọi khác là: Xá Khao, Xá Xúa, Xá Đôn, Xá Dâng, Xá Hộc, Xá Ái, Xá
Bung, Quảng Lâm, Háng, Xá, Brển.
Nhóm
địa phương: Kháng Dẩng, Kháng Hoặc, Kháng Dón, Kháng Súa, Ma Háng, Bư Háng, Ma
Háng Bẻng, Bư Háng Cọi… ở Sơn La cư trú tại các huyện Mường La, Quỳnh Nhai, Thuận
châu. Tiếng Kháng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ me, ngữ hệ Nam Á. Người Kháng
chưa có chữ viết riêng.
Theo
Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Kháng ở Việt Nam có dân số 13.840
người, cư trú tại 25 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Kháng cư trú tập trung tại các tỉnh: Sơn La
(8.582 người, chiếm 62,0% tổng số người Kháng tại Việt Nam), Điện Biên (4.220
người, chiếm 30,5% tổng số người Kháng tại Việt Nam), Lai Châu (960 người).
Người Kháng làm rẫy theo lối chọc lỗ tra hạt,
trồng nhiều lúa nếp làm lương thực chính, nay nhiều nơi chuyển sang cày bừa đất,
gieo hạt, có ruộng bậc thangnhưng không nhiều. Họ chăn nuôi gà, lợn, trâu là phổ
biến. Đồ đan: ghế, rổ, rá, nia, hòm, gùi… và thuyền độc mộc kiểu đuôi én được
người Thái ưa dùng. Người Kháng thường dùng loại gùi một quai, đeo qua trán. Họ
trồng bông rồi đem bông đổi lấy vải và đồ mặc của người Thái.
Người Kháng ở nhà sàn. Nhà thường có 3
gian 2 chái, mái kiểu mu rùa và hai cửa ra vào ở hai đầu nhà, 2 cửa sổ ở hai
vách bên. Trước kia, mái ở hai đầu hồi thường được làm thẳng, hiện nay nhiều
nơi đã làm mới hình mái rua như nhà Thái Đen. Mỗi nhà có hai bếp lửa (một bếp để
nấu ăn hàng ngày, còn một bếp để sưởivà để nấu đồ cúng khi bố mẹ chết).
Trang phục dân tộc Kháng (Tuần Giáo).
Trang phục cổ truyền của dân tộc Kháng ở
Sơn La. Trang phục cổ truyền của dân tộc Kháng ở Sơn La.
Trang phục đời thường của thiếu nữ Kháng.
Trang phục thời nay của thiếu nữ Kháng (Theo
baosonla.org.vn)
Thiếu nữ dân tộc Kháng.
Về trang phục cổ truyền thì cá tính tộc
người mờ nhạt giống phong cách trang phục Thái đen. Phụ nữ nhuộm răng đen, ăn trầu.
Lễ cưới Kháng là một nghi lễ lần lượt trải
qua các lễ thức sau:
– Dạm hỏi
– Xin ở rể
– Cưới
Lễ cưới lần đầu được tổ chức cho chàng
trai đi ở rể. Lễ cưới lần hai, đưa dâu về nhà chồng để gây dựng gia đình riêng.
Người cậu có vai trò đặc biệt trong việc dựng vợ gả chồng cho cháu.
Theo phong tục Kháng, người chết được chôn
cất chu đáo, trên mộ có nhà mồ, có các đồ vật dành cho người chết: hòm đựng quần
áo, giỏ cơm, ống hút rượu, bát, đũa… phía đầu mộ chôn một cột cao 4-5 mét, trên
đỉnh có con chim gỗ và treo chiếc áo của vợ hay chồng người chết.
Người Kháng có quan niệm mỗi người có 5 hồn,
hồn chính trên đầu và 4 hồn kia ở tứ chi. Khi chết mỗi người biến thành “ma ngắt”
ngụ ở 5 nơi. Hồn chủ thành ma ở nhà, chỗ thờ tổ tiên là “ma ngắt nhá”, hồn tay
phải trên thiên đàng là “ma ngắt kỷ”, hồn tay trái ở gốc cây làm quan tài là
“ma ngắt hóm”, hồn chân phải ở nhà mồ là “ma ngặt mơn”, hồn chân trái lên trời
thành ma trời là “ma ngặt xừ ù”.
Rực rỡ khăn trùm đầu của thiếu nữ Kháng.
Rực rỡ khăn trùm đầu của thiếu nữ Kháng.
Cũng giống như các dân tộc khác, tộc người
Kháng cũng có những nghệ thuật diễn xướng dân gian với các điệu múa và hát truyền
thống, đặc thù nhất là điệu múa Tăng Bu. Những làn điệu dân ca của người Kháng
thường phản ánh đời sống sinh hoạt hàng ngày. Nhiều người biết hát các bài hát,
áng thơ của người Thái, thuộc nhiều tục ngữ ca dao.
Người Kháng ăn Tết Nguyên Đán, Tết Cơm Mới,
và thực hiện các nghi lễ liên quan đến nông nghiệp nương rẫy.
Dưới đây mình có các bài:
– Một số điệu múa truyền thống dân tộc
Kháng tỉnh Điện Biên
– Tăng bu – Điệu múa truyền thống của người
Kháng, Điện Biên
– Lễ hội Pang Phoóng dân tộc Kháng Tỉnh Điện
Biên
– Lễ hội Xen Pang Ả dân tộc Kháng (trích)
– Lễ hội “Cà tảm mạn” của dân tộc Kháng
– Phong tục hôn nhân của dân tộc Kháng
– Độc đáo tục bói chén đặt tên trẻ của người
Kháng, Lai Châu
– Đặc trưng nhà sàn của dân tộc Kháng
Múa Tầm Đao (ảnh tư liệu Bảo tàng tỉnh).Múa Tầm
Đao
Một số điệu múa truyền thống dân tộc Kháng
tỉnh Điện Biên
Người Kháng ở tỉnh Điện Biên sinh sống chủ
yếu ở các huyện như: Tuần Giáo, Mường Chà và Mường Nhé. Theo tổng điều tra dân
số và nhà ở năm 2009, dân tộc Kháng tỉnh Điện Biên là 4.220 người, chiếm 30,5%
tổng số người Kháng ở Việt Nam.
Ngoài tên gọi là dân tộc Kháng còn có các
tên gọi khác như Xá Khao, Xá Xúa, Xá Bung, Quảng Lâm… Tiếng nói của họ thuộc
nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), bên cạnh đó họ còn nói thạo tiếng
Thái. Là một dân tộc thiểu số ít người sinh sống bằng nghề làm rẫy theo lối chọc
lỗ tra hạt là chính, họ cũng có ruộng nước nhưng không nhiều. Họ chăn nuôi gà,
lợn, trâu nhằm phục vụ cho nhu cầu tự cung tự cấp là chính, góp phần tăng gia
kinh tế cho gia đình. Bên cạnh đó trong quá trình chăn nuôi, sản xuất, dân tộc
Kháng còn sử dụng các sản phẩm do mình làm ra để trao đổi buôn bán. Điện Biên
là một tỉnh còn nghèo và cuộc sống của dân tộc Kháng cũng không tránh khỏi những
khó khăn, vất vả.
Người Kháng tỉnh Điện Biên là dân tộc còn
lưu giữ được khá nhiều những nét văn hóa đặc trưng và tiêu biểu của dân tộc
mình như: hát đối, hát giao duyên. Ngoài ra còn có các điệu múa: múa xòe (xek
vong), múa sạp (xek loong), múa tầm đao (tỏi điểng). Những điệu múa có thể
trong quá khứ dân tộc Kháng đã vay mượn của dân tộc khác, nhưng người Kháng đã
biết cách biến đổi đôi chút để tạo ra sự khác biệt và đặc trưng riêng của dân tộc
mình. Tên của các điệu múa thường được phát âm theo tiếng Thái. Mỗi điệu múa lại
thể hiện được những nét truyền thống đặc trưng riêng của họ, góp phần làm phong
phú thêm nền di sản văn hóa của tỉnh Điện Biên nói riêng và nền di sản văn hóa
Việt Nam nói chung
Múa tăng bu (Xek Pang) là điệu múa truyền
thống rõ nét nhất của dân tộc Kháng. Bằng cách nghệ thuật hóa động tác chọc lỗ
tra hạt trong lao động sản xuất vào điệu múa, những động tác tưởngchừng như khô
khan cứng nhắc nay trở nên uyển chuyển mềm mại và có nhịp điệu hơn. Ngoài ra,
đây còn là tiết mục vui chơi thu hút được rất nhiều người tham gia, nhất là các
thanh niên nam, nữ. Nhân dịp lễ hội, họ rủ nhau từ các làng bản khác cùng về
đây tham gia múa cùng dân bản. Nhiều người đứng nối nhau xếp thành vòng tròn lớn,
một tay bám lên vai người đi trước, một tay cầm cây tăng bu.
Cây tăng bu được làm bằng một đoạn thân
cây nứa, có đường kính thân khoảng 4- 6cm, dài khoảng từ 1,4m- 1,6m tùy theo mỗi
người. Sau một nhịp dẫn, tất cả mọi người cùng vỗ mạnh cây tăng bu xuống sàn gỗ,
tạo nên một dàn âm thanh cộng hưởng. Dàn âm thanh này luôn được giữ nhịp rất đều,
những người tham gia múa vừa phải đảm bảo tạo ra âm thanh, vừa bước uyển chuyển
theo nhịp điệu và giữ nhịp cho đều. Sau mấy vòng múa lại xoay chiều di chuyển một
lần, cứ như thế vòng múa tăng bu tạo cho người tham ra một cảm giác đầm ấm,
đoàn kết, vui vẻ như không hề biết dừng lại.
Nếu có một thành viên nào muốn nghỉ sẽ tự
rời khỏi vòng và lập tức có thành viên khác thay thế, vòng múa không bị gián đoạn.
Có thể nói phần múa tăng bu trong chuỗi các tiết mục văn nghệ thể dục thể thao,
các trò chơi dân gian diễn ra trong lễ hội của người Kháng là phần chơi hấp dẫn
và kéo dài nhất. Đặc biệt các bạn trẻ nam nữ thanh niên tham gia rất đông vui
và kéo dài cho tới tận đêm khuya.
Ngày nay, phương thức canh tác theo hình
thức chọc lỗ tra hạt vẫn còn phổ biến trong đồng bào các dân tộc thiểu số, vì vậy
điệu múa tăng bu mô tả hình ảnh chọc lỗ tra hạt vẫn còn tồn tại trong đời sống
văn hóa văn nghệ của đồng bào. Nó như một sản phẩm kết tinh từ sự sáng tạo của
đồng bào trong quá trình lao động với một nền tảng âm nhạc dân gian phong phú,
đặc sắc. Như vậy, múa tăng bu không còn chỉ hạn chế trong một gia đình hay dòng
họ mà nó là ngày hội chung của cả bản, cả vùng.
Múa sạp (Xek Loong) của dân tộc Kháng có
nét khác so với điệu múa sạp của một số dân tộc khác với nhịp điệu rất sôi động,
nhanh, mạnh mẽ. Người múa khéo léo và uyển chuyển để không bị vấp vào sạp. Múa
sạp là một tiết mục không thể thiếu trong các lễ hội và cũng là phần lôi cuốn
nhiều người tham gia. Từng tốp, từng tốp các chàng trai cô gái trong trang phục
truyền thống nắm tay nhau, chân nhún nhẩy nhịp nhàng, đều đặn theo nhịp âm
thanh của điệu múa. Tuy là tiết mục được đông người tham gia, nhưng không gian
giành cho múa sạp không cần phải quá rộng như tung còn hay múa xòe. Múa sạp thường
được diễn ra ở ngoài trời hoặc cũng có thể tổ chức ở trong nhà hay gầm sàn…
Đạo cụ dùng trong múa sạp tương đối đơn giản
gồm từ 2 đến 4 cây tre hoặc gỗ to, dài, thẳng dùng để kê hai bên; cần từ 4 đến
8 cây tre nhỏ hơn, thẳng và nhẹ làm thanh vỗ nhịp; 4 đến 8 người cầm hai đầu
thanh vỗ nhịp. Như vậy là đã có thể có một hội múa sạp như ý. Số người tham gia
múa sạp không hạn chế, không phân biệt nam hay nữ, già hay trẻ. Múa sạp là một
điệu nhảy dân gian quen thuộc của nhiều dân tộc và ngày nay đã được các nghệ sĩ
đưa lên sân khấu biểu diễn như một loại hình nghệ thuật. Vì vậy, múa sạp đã,
đang tồn tại và sẽ còn sống mãi trong đời văn hóa của dân tộc Kháng nói riêng
và dân tộc Việt Nam nói chung.
Múa tầm đao (Tỏi Điểng) là một loại nhạc cụ
dân gian đặc trưng của một số dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me như dân
tộc Kháng, Khơ Mú, Xinh Mun đang sinh sống trên đất Điện Biên. Tầm đao là loại
nhạc cụ chỉ dành riêng cho phụ nữ, được làm từ thân cây nứa nhỏ, đường kính từ
3-4 cm, dài từ 50- 60cm.
Để chế tác loại nhạc cụ này, những người
phụ nữ Kháng phải vào rừng lựa chọn những cây nứa vừa thẳng đẹp lại không quá
già. Họ chọn một đoạn vừa ý sao cho một đầu còn giữ lại, đầu kia bỏ mấu, giữ lại
thân ống nứa. Gần đầu có mấu, người ta đục hai lỗ đối xứng và so le nhau, khi
đánh ngón tay cái của tay cầm đặt ở vị trí lỗ trên, ngón trỏ sẽ đặt ở vị trí lỗ
dưới như vậy mới tạo nên nhịp gõ và điều chỉnh nhịp theo ý muốn. Đầu không giữ
mấu người ta vát nhẹ hai bên thân ống tạo thành trạc, dài khoảng 30cm, giữa hai
cánh trạc có xẻ một khe nhỏ vào thân ống để kẹp sợi chỉ, có tác dụng điều tiết
âm thanh.
Khi đánh, người ta gõ phần gốc cánh trạc
vào mu bàn tay để hai cánh trạc dung tạo ra âm thanh. Chị em phụ nữ Kháng trong
tiết mục này thường xếp thành hai hàng đối diện nhau, sau nhịp dẫn của người đội
trưởng, tất cả cùng hòa theo nhịp. Trên nền nhịp và âm thanh của tầm đao, các
điệu múa sẽ được biến tấu hài hòa, tinh tế… Cứ như thế, nhịp điệu tăng dần,
càng lúc càng thôi thúc hơn, thăng hoa hơn trong điệu múa, như không bao giờ dừng
lại.
Múa xòe (Xek vong) là điệu múa không thể
thiếu trong các ngày hội của dân tộc Kháng và không hề xa lạ đối với cộng đồng
các dân tộc Điện Biên. Người Kháng cũng coi múa xòe là một điệu múa truyền thống
của dân tộc mình. Thông thường, mỗi một lễ hội khi đến phần múa xòe là phần cuối
cùng, mọi người tay trong tay cùng chung nhịp xòe luôn tạo được nhiều cảm xúc
nhất cho những người tham gia.
Điệu xòe của người Kháng cũng là điệu múa
thể hiện tình đoàn kết trong cộng đồng, tạo cho những người tham gia lễ hội
quên đi những mỏi mệt, ưu phiền sau những khoảng thời gian lao động vất vả. Nơi
diễn ra múa xòe thường trên một bãi đất rất rộng, có thể đủ chỗ cho rất đông
người cùng tham gia.
Một vòng xòe hay và đẹp nhất là vòng xòe tự
nhiên, mọi người tay nắm tay nhau một cách thoải mái, cùng bước theo một nhịp,
cùng xoay theo chiều. Cứ như vậy người này nối tiếp người kia, vòng xòe cứ thế
mà lớn dần và khi đông người tham gia thì vòng xòe có thể tách dần ra để tạo
thành một vòng xòe khác lồng vào nhau.
Một hội xòe có thể có tới 3 đến 4 vòng
cùng xòe một nhịp, qua đó cho thấy sức hấp dẫn lôi cuốn tình người trong ngày hội.
Vào những dịp này mọi người thường vận những bộ trang phục lễ hội truyền thống
rất lộng lẫy của dân tộc mình, trở thành hạt nhân của hội xòe. Nhịp xòe được diễn
ra theo tiếng dẫn nhịp của dàn chiêng và những âm thanh đặc trưng từ những cây
tầm đao do chính những người phụ nữ tạo nên. Vòng xòe mỗi lúc lại rộng hơn, nhịp
xòe cũng vì thế mà rộn ràng hơn, thôi thúc hơn như muốn giục giã, chào mời mọi
người cùng tham gia.
Qua các điệu múa truyền thống của dân tộc
Kháng cho ta thấy được những nét văn hóa, nghệ thuật đặc trưng riêng, góp phần
làm phong phú thêm vốn di sản văn hóa, nghệ thuật không chỉ của tỉnh Điện Biên
mà còn là của cả dân tộc Việt Nam.
Người Kháng có nhiều điệu múa truyền thống
độc đáo.Người Kháng có nhiều điệu múa truyền thống độc đáo.
Tăng bu – Điệu múa truyền thống của người
Kháng, Điện Biên
Người Kháng tỉnh Điện Biên là dân tộc còn
lưu giữ được khá nhiều những nét văn hóa đặc trưng và tiêu biểu của dân tộc
mình, thể hiện rõ nét nhất trong điệu múa Tăng bu truyền thống.
Người Kháng tỉnh Điện Biên là dân tộc còn
lưu giữ được khá nhiều những nét văn hóa đặc trưng và tiêu biểu của dân tộc
mình như: hát đối, hát giao duyên. Ngoài ra còn có các điệu múa: múa xòe, múa sạp,
múa tầm đao… Trong số đó, múa Tăng bu là điệu múa truyền thống rõ nét nhất của
dân tộc Kháng.
Múa Tăng bu – là điệu múa bằng cách nghệ
thuật hóa động tác chọc lỗ tra hạt trong lao động sản xuất vào điệu múa, những
động tác tưởng chừng như khô khan cứng nhắc nay trở nên uyển chuyển mềm mại và
có nhịp điệu hơn. Đây còn là tiết mục vui chơi thu hút được rất nhiều người
tham gia, nhất là các thanh niên nam, nữ. Trong các dịp lễ hội, họ rủ nhau từ
các làng bản khác cùng về đây tham gia múa cùng dân bản. Nhiều người đứng nối
nhau xếp thành vòng tròn lớn, một tay bám lên vai người đi trước, một tay cầm
cây tăng bu.
Cây tăng bu được làm bằng một đoạn thân
cây nứa, có đường kính thân khoảng từ 4- 6cm, dài khoảng từ 1,4m- 1,6m tùy theo
mỗi người. Sau một nhịp dẫn, tất cả mọi người cùng vỗ mạnh cây tăng bu xuống
sàn gỗ, tạo nên một dàn âm thanh cộng hưởng. Dàn âm thanh này luôn được giữ nhịp
rất đều, những người tham gia múa vừa phải đảm bảo tạo ra âm thanh, vừa bước uyển
chuyển theo nhịp điệu và giữ nhịp cho đều.
Sau mấy vòng múa lại xoay chiều di chuyển
một lần, cứ như thế vòng múa tăng bu tạo cho người tham ra một cảm giác đầm ấm,
đoàn kết, vui vẻ như không hề biết dừng lại. Nếu có một thành viên nào muốn nghỉ
sẽ tự rời khỏi vòng và lập tức có thành viên khác thay thế, vòng múa không bị
gián đoạn.
Có thể nói phần múa Tăng bu trong chuỗi
các tiết mục văn nghệ thể dục, thể thao, các trò chơi dân gian diễn ra trong lễ
hội của người Kháng là phần chơi hấp dẫn và kéo dài nhất. Đặc biệt các bạn trẻ
nam nữ thanh niên tham gia rất đông vui và kéo dài cho tới tận đêm khuya.
Ngày nay, phương thức canh tác theo hình
thức chọc lỗ tra hạt vẫn còn phổ biến trong đồng bào các dân tộc thiểu số, vì vậy
điệu múa tăng bu mô tả hình ảnh chọc lỗ tra hạt vẫn còn tồn tại trong đời sống
văn hóa văn nghệ của đồng bào. Nó như một sản phẩm kết tinh từ sự sáng tạo của đồng
bào trong quá trình lao động với một nền tảng âm nhạc dân gian phong phú, đặc sắc.
Như vậy, múa tăng bu không còn chỉ hạn chế trong một gia đình hay dòng họ mà nó
là ngày hội chung của cả bản, cả vùng.
Múa Tăng bu đã thể hiện được những nét
truyền thống đặc trưng riêng của người Kháng nơi đây, góp phần làm phong phú
thêm nền di sản văn hóa của tỉnh Điện Biên nói riêng và nền di sản văn hóa Việt
Nam nói chung.
Hằng năm dân tộc Kháng tổ chức lễ hội Pang Phoong.
Hằng năm dân tộc Kháng tổ chức lễ hội Pang
Phoong.
Lễ hội Pang Phoóng dân tộc Kháng Tỉnh Điện
Biên
Dân tộc Kháng ở tỉnh Điện Biên là một
trong những dân tộc thiểu số nhưng là dân tộc mang trong mình biết bao truyền
thuyết, giai thoại huyền bí, việc nghiên cứu, tìm hiểu tộc người Kháng sẽ góp
phần khơi mở thêm nét đẹp truyền thống dân tộc Kháng, qua đó bảo tồn và phát
huy những giá trị Di sản văn hóa dân tộc.
Từ xa xưa đồng bào dân tộc Kháng dòng họ
Lò Khun ở bản Nậm Mu, xã Phình Sáng, huyện Tuần Giáo đã sáng tạo ra lễ hội Pang
Phoóng (Pang dịch ra là lễ, Phoóng là tổ tiên). Lễ hội thường diễn ra 03 ngày
trong khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 12 dương lịch hàng năm. Lễ hội
Pang Phoóng chứa đựng nhiều lễ thức dân gian hết sức sinh động và có ý nghĩa gần
giống lễ tạ ơn của một số dân tộc thiểu số khác.
Hàng năm trước khi thu hoạch vụ mùa, đồng
bào Kháng tổ chức lễ hội để tạ ơn tổ tiên, trời đất đã phù hộ cho họ một năm
mưa thuận gió hòa, sức khỏe dồi dào và làm ăn phát đạt đồng thời cầu xin những
điều may mắn, tốt đẹp cho một năm mới. Khi tiếng trống, tiếng chiêng vang lên
trên khắp bản mường là lúc báo hiệu mùa lễ hội bắt đầu. Theo truyền thuyết, lễ
hội Pang Phoóng bắt nguồn từ một sự tích. Đó là câu chuyện tình dang dở đầy
lãng mạn giữa chàng trai con Tạo bản và nàng vượn hóa thân thành thiếu phụ. Câu
chuyện được lưu truyền từ xa xưa nhằm tôn vinh gốc linh, hướng con người luôn
nhớ về cội nguồn.
Thầy mo cúng trong lễ hội.Thầy mo cúng
trong lễ hội.
Hàng năm, cứ đến mùa hoa mào gà nở đỏ trên
nương cũng là mùa lúa chín. Đồng bào Kháng dòng họ Lò Khun lại tổ chức lễ hội
Pang Phoóng tại nhà trưởng họ. Mỗi lần lễ hội diễn ra các gia đình trong dòng tộc
nô nức kéo về hội tụ để cùng tưởng nhớ về “Mẹ Vượn”. Đây cũng là dịp họ hàng,
anh em, bạn bè, trai tài gái sắc gặp nhau sau những ngày tháng lao động vất vả.Trong
không khí linh thiêng mà ấm áp tình người, tràn đầy sự hứng khởi của lễ hội, cả
bản mường cùng hân hoan trong lễ hội.
Sự tích lễ hội Pang Phoóng mang màu sắc
huyền ảo đã phản ánh một hiện thực trong đời sống tâm linh cộng đồng người
Kháng: luôn lấy cội nguồn tiên tổ làm nền tảng để rèn tâm, dưỡng đức và nguyện
cầu tổ tiên phù hộ độ trì cho dòng tộc vạn sự may mắn, tốt đẹp. Dù trải qua biết
bao biến cố thăng trầm của lịch sử, sự giao lưu hoà nhập cộng đồng nhưng lễ hội
Pang Phoóng vẫn giữ được bản sắc riêng, luôn hiện hữu trong đời sống cộng đồng.
Cho đến nay, vốn di sản văn hóa phi vật thể
quí báu đó vẫn giữ được sức sống và trở thành ngọc quí trong kho tàng văn hoá
dân tộc Kháng. Lễ hội Pang Phoóng là thông điệp kết nối quá khứ với hiện tại,
là sợi dây tạo lên sự gắn kết cộng đồng, thể hiện khát vọng bình dị ngàn đời về
một cuộc sống ấm no, hạnh phúc của những người dân vùng biên cương Tổ quốc.
Lễ hội Xen Pang Ả dân tộc Kháng (trích)
Dân tộc Kháng là một trong những dân tộc
thiểu số cư trú lâu đời ở miền Tây Bắc Việt Nam. Kinh tế chính của đồng bào là
nương rẫy, trồng lúa kết hợp với ngô khoai. Ở một số vùng sống ven sông, đồng
bào rất giỏi làm thuyền độc mộc. Đan lát là một nghề phụ khá nổi tiếng của đồng
bào Kháng, họ lấy mây tre trên rừng đan các loại gia cụ như hòm, mâm, ghế ngồi,
gùi, giỏ rất đẹp và bền.
Đến nay, đồng bào Kháng vẫn còn duy trì được
một số lễ nghi nông nghiệp như lễ Xíp Xí (rằm tháng7); lễ mừng cơm mới. Tuy
nhiên tiêu biểu nhất vẫn là Lễ hội Xen Pang ả, do Pa ả (thầy cúng) tổ chức.
Trong các bản của đồng bào dân tộc Kháng thường có một Pa ả chuyên làm việc
cúng lễ cho dân bản. Pa ả là người thông minh, thuộc nhiều bài cúng và biết
cách chữa bệnh thông thường, biết một số ảo thuật và biết nhiều điều mà người
khác không biết. Có thể gọi họ là những trí thức dân gian, họ rất có uy tín, được
dân bản tin và làm theo.
Lễ hội Xen Pang Ả được tổ chức với quy mô
một vùng rộng lớn, gồm nhiều bản, và cứ 2 hay 3 năm được tổ chức một lần vào
khoảng từ tháng 10 tới tháng 12. Lễ hội được tổ chức với mục đích mời các “ma
nhà”, “ma bản”, “ma trời” hưởng lễ vật và những người được Pa Ả chữa cho khỏi bệnh
(được coi là con nuôi) đến dâng lễ, tạ ơn, đồng thời để Pa Ả cầu chúc cho hồn
vía các con nuôi lành mạnh, không hay ốm đau, làm ăn phát tài. Lễ hội Xen Pang Ả
ngoài phần lễ cúng cầu xin, còn là nơi nhân dân diễn lại các công việc nương rẫy,
thu hái lâm sản trong đời sống thường nhật, thông qua các trò diễn; chơi các
trò chơi dân gian; hát đối đáp giao duyên; múa ống, múa khăn.
Xen Pang Ả là ngày hội lớn, vô cùng có ý
nghĩa đối với đồng bào dân tộc Kháng. Đây là dịp để mọi người tạ ơn tổ tiên và
các thế lực siêu nhiên đã giúp đỡ cho họ có sức khỏe, bản mường yên bình, no ấm.
Đây cũng là dịp để cộng đồng người Kháng vui chơi thư giãn, sau những tháng
ngày lao động vất vả, một nắng hai sương. Đặc biệt lễ hội còn là dịp để lớp
thanh niên chưa vợ chưa chồng tìm hiểu, hẹn hò nên vợ thành chồng, bởi vậy lễ hội
Xen Pang Ả còn có ý nghĩa trong việc tái tạo cộng đồng dân tộc.
Lễ hội “Cà tảm mạn” của dân tộc Kháng
Lễ hội “Cà tảm mạn” là lễ gọi hồn hay còn
gọi là lễ dậy hồn. Đây là loại hình tín ngưỡng dân gian không thể thiếu trong đời
sống tinh thần của dân tộc Kháng.
Họ cho rằng, con người có 2 phần, phần hồn
và phần xác luôn luôn gắn kết, giao hòa không thể tách rời. Khi người ốm, phần
hồn rời khỏi xác và lưu lạc nơi rừng thiêng, nước độc, bị các thần cây, thần
núi giữ lại. Từ đó, người Kháng thường làm lễ gọi hồn lưu lạc về nhập vào xác
thì người ốm sẽ khỏi bệnh.
Chuyện xưa kể rằng: Trong bản dân tộc
Kháng có chàng trai tên là Ọi, đẹp trai, thông minh, khoẻ mạnh và chăm làm nhất
bản. Sau mùa làm nương, chàng bị ốm, ngày nào chàng Ọi cũng ăn không ngon miệng,
ngủ không yên giấc, người chàng càng ngày càng gầy gò, da vàng, chân tay run rẩy,
không cầm nổi con dao, cái cuốc. Đã hơn 3 tuần trăng sáng, lúa chín vàng trên
nương, chàng uống đủ thứ lá rừng làm thuốc mà vẫn không khỏi bệnh. Biết chàng
không còn sống được lâu, cha chàng bèn thịt gà và mời tất cả mọi người đến ăn
cùng. Mỗi người bón cho chàng một miếng xôi cùng thịt gà và nói rằng “Đây là hồn
cơm, hồn thịt của người khoẻ đem đến, ăn vào sẽ thành thuốc”, sau đó mọi người
buộc vào tay chàng một sợi chỉ coi đó là sợi dây buộc phần hồn lưu lạc nhập vào
chàng. Cũng từ ngày hôm đó chàng ăn được nhiều cơm, da chàng hồng hào trở lại,
chàng khoẻ dần và đi làm nương cùng cha mẹ.
Từ câu chuyện trên, trong bản có người ốm
đều được làm lễ gọi hồn về. Đến nay, tại các bản của đồng bào dân tộc Kháng thường
có một Pa Ả (thầy cúng) chuyên làm việc cúng lễ cho dân bản. Pa Ả đại diện cho
dân bản để tiếp xúc với các thần linh, truyền lời khẩn cầu của người sống và
cũng là người có uy tín, được dân bản tin và làm theo.
Từ lâu, quan niệm tín ngưỡng dân gian của
dân tộc Kháng cho rằng: con người có 30 vía, 40 hồn phía trước, 50 hồn phía
sau, trong đó có một hồn chính ở trên đầu, khi chết, hồn chính biến thành ma
lành phù hộ con cháu, hồn còn lại biến thành ma dữ hay quấy nhiễu vòi ăn. Người
ta còn tin nhiều loại ma khác như ma suối, ma bản… Trong bài cúng dậy hồn có
câu:
“Ba mươi vía, bốn mươi hồn phía trước còn
lạc trong rừng
Năm mươi hồn phía sau còn vương ở suối
Hồn ở đâu hồn hãy về nhà
Hồn chớ la cà rừng xanh, chớ quẩn quanh rừng
rậm…”
Lễ vật cúng hồn gồm có xôi, thịt gà, rượu,
bánh kẹo, hoa quả. Tất cả được bày trên bàn thờ. Thầy mo mặc áo cúng, đội mũ,
tay cầm quạt. Bên cạnh thầy mo còn có 2 mo pí, mỗi lần thầy mo cúng, mo pí thổi
theo cùng với giai điệu hành khúc để phù hoạ cho lời cúng của thầy thêm linh
thiêng:
“Hồn ở đâu, hồn hãy về nhà
Về nhà mới có anh và chị
Về nhà có cha và mẹ bón xôi
Nếu còn lạc ở nương
Nếu còn vương ở ngoài ruộng
Đã có xôi kèm cá
Đã có gà kèm rượu…”.
Thầy mo kể hết các hồn của người thân,
cùng bà con dân bản chờ đón hồn lưu lạc trở về cùng ăn cơm:
Hú… ba mươi vía, bốn mươi hồn đằng trước
Năm mươi hồn đằng sau
Cùng nhau về cho khoẻ
Từ nay hồn ở nhà
Ở cùng cha, cùng mẹ
Để sớm mai lên nương
Để sớm hôm xuống ruộng
Hồn về rồi hồn ơi!
“Hú… hồn về rồi”. Thầy mo cầm con gà đưa
lên đầu, lên trán, lên vai, lấy một miếng xôi cúng và ít thịt gà, chấm rượu xoa
vào hai thái dương cho người ốm, buộc chỉ vào cổ tay cho người ốm và nói:
Đã có chỉ buộc tay
Có dây buộc hồn…
Đi xa biết đường về
Đã có thần che nắng
Đã có thần che mưa…”
Tất cả những người thân trong nhà và bà
con dân bản đến dự lễ cúng hồn làm theo thầy mo, mỗi người cầm một sợi chỉ buộc
vào tay người ốm, lấy xôi. thịt gà bón cho người ốm ăn và nói:
“Ăn thịt gà ngọt lưỡi
Ăn thịt lợn ngọt môi
Hồn ăn, hồn ở nhà…”.
Sau đó mọi người cùng ăn thịt, uống rượu tại
mâm lễ để mừng đón hồn về nhà và trống chiêng cùng nổi lên, con trai, con gái từng
đôi múa Hưn mạy, Tăng bu cho đến thâu đêm, suốt sáng.
Người được cúng hồn được giải toả tâm lý để
chống chọi với bệnh tật, đồng thời, lễ cúng hồn còn răn dạy con cháu biết đoàn
kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau để cùng phát triển kinh tế xóa đói nghèo.
Dạm ngõ
Phong tục hôn nhân của dân tộc Kháng
Các nghi thức hôn nhân ở dân tộc Kháng chịu
ảnh hưởng cơ bản từ phong tục cưới hỏi của dân tộc Thái, trong đó có một nghi lễ
đặc biệt giống với tập quán của dân tộc Thái đó là nghi lễ đi ở rể.
Mùa cưới
Mùa cưới của dân tộc Kháng thường diễn ra
từ tháng 10 năm trước đến tháng 2 âm lịch năm sau. Theo quan niệm của đồng bào
thì đây là thời gian thuận lợi: thu hoạch mùa xong xuôi, no đủ, công việc nông
nhàn.
Dân tộc Kháng có phong tục tìm người mai mối
cho đôi trẻ. Người được chọn làm mối có thể là nam hoặc nữ, phải là người có gia
đình hòa thuận, hạnh phúc, đông con, vợ chồng biết làm ăn vì theo quan niệm của
họ người làm mối sẽ mang lại may mắn, cuộc sống đầy đủ, đông con nhiều cháu cho
cặp vợ chồng tương lai
Dạm ngõ
Khi đôi trai gái đã ưng ý nhau thì bố mẹ
bên nhà trai sẽ tìm một người mối, đại diện cho nhà trai mang lễ vật sang nhà
gái dạm ngõ. Lễ vật dạm ngõ thường rất đơn giản chỉ cần một con gà và một chai
rượu. Sau buổi gặp mặt đầu tiên nếu nhà gái nhận lễ và mời nhà trai ở lại ăn
cơm hoặc nhà gái nhận lời thì tức là việc hôn nhân của đôi trai gái sẽ được tiến
hành.
Lễ hỏi
Nhà trai chọn ngày lành tháng tốt mang một
ít lễ vật gồm: lợn, gà, rượu, gạo đến nhà gái để đặt vấn đề chính thức về cuộc
hôn nhân cho đôi trẻ. Trong lễ này, nhà gái mời họ hàng thân thích đến dự để
bàn bạc thống nhất với đại diện nhà trai về lễ vật thách cưới mà nhà trai phải
nộp cho nhà gái theo phong tục dân tộc Kháng. Đặc biệt, trong ngày lễ ăn hỏi
nhà trai phải chuẩn đồ sính lễ cho cô dâu – tuỳ theo kinh tế của từng gia đình
nhưng thông thường gồm 1bộ váy áo, 1 đôi tóc giả, 1đôi hoa tai, 1 trâm cài tóc
và nếu giàu có thêm 1 đôi vòng tay bạc. Các thứ này là của lấy lòng tin con
dâu. Nếu sau này 2 vợ chồng cãi nhau muốn bỏ nhau cô dâu phải trả lại những vật
này cho bố mẹ chồng.
Nghi thức ngày cưới người Kháng (ảnh Nam
Trung).Nghi thức ngày cưới người Kháng (ảnh Nam Trung).
Lễ cưới
(Đây là lễ cưới ban đầu hay còn gọi là lễ
búi tóc cho cô dâu –tẳng soi đe quân măn): Từ lễ ăn hỏi đến lễ cưới thời gian
thường từ vài ba tháng, hoặc một năm, tuỳ thuộc vào sự bàn bạc thống nhất giữa
nhà trai với nhà gái hoặc tuỳ hoàn cảnh mỗi gia đình. Sau khi chọn được thời
gian thích hợp, nhà trai chủ động bàn bạc với nhà gái để chuẩn bị cho lễ cưới.
Tại lễ cưới này cô dâu sẽ làm luôn lễ búi
tóc ngược. Chọn được ngày lành, tháng tốt nhà trai mang đủ lễ vật như đã thoả
thuận với nhà gái để làm lễ cưới. Trong lễ cưới, người đại diện cho nhà trai
nói lời cảm ơn nhà gái đã có công sinh thành, nuôi dưỡng cô dâu. Khi đến nhà
gái, chú rể phải có lễ trình tổ tiên, cũng như cô dâu phải lạy trước bàn thờ ma
của gia đình và quỳ xuống để bà mối hoặc một người phụ nữ lớn tuổi có uy tín
làm lễ búi tóc cho cô dâu. Sau đó cô dâu được đưa về nhà trai để ra mắt bố mẹ
và họ hàng nhà chồng rồi mới quay về nhà mẹ đẻ để chú rể ở rể.
Lễ về nhà chồng
Hay còn được coi như lễ cưới lần 2 của đôi
vợ chồng sau thời gian ở rể một vài năm. Đây là một nghi lễ đánh dấu mốc cô dâu
chính thức về cư trú bên nhà chồng và chú rể kết thúc hạn ở rể. Nghi lễ này diễn
ra gọn nhẹ hơn lễ cưới, lễ vật gồm có thịt, rượu, gạo nếp. Cô dâu mang đồ đạc
cá nhân, quần áo, quà gia đình mình tặng (chia cho) cùng quà mang về tặng bố mẹ
chồng và họ hàng bên chồng.
Lễ lại mặt
Sau ngày cưới, đôi vợ chồng mang theo xôi,
gà, rượu trở lại nhà gái để làm lễ lại mặt.
Độc đáo tục bói chén đặt tên trẻ của người Kháng,
Lai Châu
Người Kháng ở Lai Châu có phong tục rất độc
đáo đó là “bói chén” để đặt tên cho con em mình.
Việc đặt tên rất quan trọng vì mỗi cái tên
gắn chặt với mỗi con người suốt đời. Có thể căn cứ vào đặc điểm, giới tính,
hoàn cảnh gia đình, dòng họ, quê hương, xã hội và cả ước vọng của người đặt tên
gửi gắm vào cái tên nào đó. Bởi vậy ở mỗi dân tộc đều có phong tục đặt tên cho
trẻ rất độc đáo… Dân tộc kháng dùng tục bói chén để đặt tên cho đứa trẻ.
Ngay khi gia đình có đứa trẻ chào đời, các
thành viên trong gia đình người Kháng đã lo cho chuẩn bị cho nghi lễ đặt tên.
Hôm tiến hành nghi lễ, các thành viên trong gia đình đã phải hoàn tất mâm cúng
các ma nhà “Mà ngạt nha” để người ông cúng báo cho tổ tiên.
Mâm cúng các ma nhà được đặt trước bàn thờ
gia tiên gồm: một đôi gà trống mái (khoảng 2 kg) luộc chín để nguyên con, không
chặt, kèm theo đầy đủ tiết và các bộ phận nội tạng; một con lợn luộc (khoảng 20
kg) cũng để nguyên con, hai quả trứng luộc để nguyên không bóc vỏ, một bát cơm,
hai nén hương; hai chén rượu, một đĩa muối ớt, hai cái bát, hai đôi đũa, hai
cái thìa, bát canh… Tất cả các đồ cúng này không được đựng vào bát đĩa mà phải
sắp lên một tàu lá chuối tươi.
Khi mâm cúng tổ tiên được chuẩn bị, người
ông đứa trẻ tiến hành cúng báo tổ tiên với những lời chân thành, giản dị: “Ơ!
Mà ngạt nha! Hôm nay, gia đình có mâm cơm, có lợn, có gà, có rượu…dâng cúng
lên. Mà ngạt nha đi chơi hãy về, có bận gì thì xin gác lại. Xin Mà ngạt nha hãy
về đây mà ăn thịt, uống rượu, về đây mà nghe lời khấn của gia đình …Ờ! gia đình
hiện nay nhờ có Mà ngặt nha phù hộ nên đã được một bé trai (hoặc bé gái) khỏe mạnh.
Gia đình đã có thêm một thành viên mới, nhau thai đã được treo ở cây to ven rừng.
Nay gia chủ có lòng thành dâng lên. Lễ không nhiều, rượu thì nhạt mong Mà ngạt
nha đừng giận, đừng phiền. Xin Mà ngạt nha hãy uống cho say, hãy ăn cho đủ…Nay
gia đình muốn đặt tên cho đứa trẻ, muốn đứa trẻ lớn nhanh như câu tre vầu, dễ
nuôi, không được cho nó ốm… Nay xin Mà ngặt nha chứng giám, mách bảo cho gia
đình một cái tên đúng để đặt cho đứa trẻ…”.
Sau nghi lễ cúng báo tổ tiên và các ma nhà
kết thúc, anh em trong gia đình dòng họ cũng như cộng đồng dân bản sẽ biếu quà
mừng cho gia đình và cho đứa bé. Thông thường thì người mang theo chai rượu,
người mang theo bát gạo, người mang theo gà, người mang theo đùi lợn… đến vừa để
làm quà mừng vừa để giúp mẹ đứa bé có thức ăn nuôi con.
khang_mẹ con
Trong khi mọi người biếu quà, những mâm rượu
thịt cũng được chủ nhà bày ra dọc gian nhà mời mọi người ngồi vào chúc mừng gia
đình, nghi lễ “bói chén” tìm tên cho đứa trẻ bắt đầu. Nghi lễ này chỉ dành cho
những người nam giới, có vai vế từ cao xuống thấp.
Người đầu tiên được vinh dự tung và bói
chén là người đàn ông cao tuổi hoặc có vai vế cao nhất bên họ nhà ngoại, tiếp đến
là người đàn ông cao tuổi hoặc có vai về cao nhất bên họ nhà nội và lần lượt đến
những người khác cho đến khi tìm được tên cho đứa trẻ. Người được giao trọng
trách “bói chén” sẽ phải nghĩ sẵn ra một cái tên phù hợp và nói ra cho mọi người
cùng biết rồi sẽ bói xem tên ấy liệu có phù hợp không.
Nếu mọi người cho ý kiến đồng ý về tên này
người bói sẽ dùng ngay chén uống rượu trong mâm và tung lên cao chừng 50-60cm
cho rơi xuống mâm. Việc tung chén được tiến hành ba lần, nếu cả ba lần chiếc
chén đều nằm ngửa thì coi như thần linh đã chấp thuật tên do tung nghĩ ra.
Trong trường hợp hai trong ba lần tung mà chén nằm sấp thì việc chọn tên sẽ được
chuyển cho người khác.
Bói chén chọn tên được thực hiện một cách
nghiêm túc và thành kính vì người Kháng cho rằng cái tên đúng có tác động rất lớn
đến tính tình và sức khỏe cũng như số phận của đứa trẻ sau này. Nếu đặt tên
đúng thì đứa trẻ ấy sẽ lớn nhanh, khỏe mạnh, hiền lành, tốt tính… Còn nếu cái
tên mà đặt sai thì đứa trẻ sẽ chậm lớn, yếu ớt, độc ác, xấu tính, thậm chí là sẽ
chết yểu…
Mọi người vỗ tay tán thưởng vì đứa trẻ đã
có tên, ông đứa trẻ cảm ơn người đã đặt được tên cho cháu mình bằng hai chén rượu
đầy. Ngược lại, người đã đặt được tên cho đứa trẻ lại uống với người cha của đứa
trẻ hai chén kèm theo những lời chúc tốt đẹp nhất dành cho đứa trẻ. Sau nghi lễ
mời rượu cảm ơn và chúc mừng kết thúc cũng là lúc cuộc vui mừng lễ đặt tên lên
cao trào. Tất cả những người tham dự nghi lễ đều chúc mừng ông và bố đứa trẻ
hai chén rượu, chủ nhà cũng lần lượt mời lại mỗi người hai chén cảm ơn mọi người
đã đến mừng cho đứa trẻ và gia đình.
Tiệc rượu chúc mừng cũng đánh dấu sự kết
thúc tốt đẹp của nghi lễ bói chén đặt tên, đứa trẻ đã có tên gọi và chính thức
là thành viên của cộng đồng dân tộc Kháng.
Nhà sàn truyền thống dân tộc Kháng.Nhà sàn truyền
thống dân tộc Kháng.
Đặc trưng nhà sàn của dân tộc Kháng
Ngôi nhà đặc trưng của dân tộc Kháng là
nhà sàn, mái lợp gianh, che chắn xung quanh nhà bằng các tấm liếp được đan bằng
tre, luồng.
Dân tộc Kháng có khoảng 4.000 người ở Sơn
La và Lai Châu. Dân tộc Kháng còn có tên gọi khác là Xá Khao, Xá Xúa, Xá Đón,
Xá Dâng, Xá Hộc, Xá Ái, Xá Bung, Quảng Lâm.
Đồng bào dân tộc Kháng chủ yếu ở vùng sâu,
vùng xa, vùng gặp nhiều khó khăn với điều kiện tự nhiên, thời tiết khí hậu vô
cùng khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng thấp kém, giao thông đi lại gặp nhiều khó khăn
chủ yếu là đường mòn dân sinh chỉ đi được một mùa khô; 8/11 bản của người Kháng
chưa có điện lưới quốc gia. Công cụ sản xuất thấp kém, giản đơn, tập quán canh
tác lạc hậu, sống khép kín.
Sản xuất chủ yếu là canh tác trên đất dốc,
năng xuất, sản lượng cây trồng vật nuôi thấp phụ thuộc vào thiên nhiên. Người
Kháng làm rẫy theo lối chọc lỗ tra hạt, trồng nhiều lúa nếp làm lương thực
chính, nay nhiều nơi chuyển sang cày bừa đất, gieo hạt, có ruộng bậc thang
nhưng không nhiều. Đồng bào chăn nuôi gà, lợn, trâu là phổ biến.
Với đặc tính sản xuất và điều kiện sống
trên núi cao, khí hậu lạnh, và khắc nghiệt…. thì những ngôi nhà sàn của đồng
bào dân tộc Kháng có ưu điểm mát mẻ mùa hè, giữ ấm về mùa đông không những cho
người và còn thuận tiện cho việc chăn nuôi gia súc tại khoảng không dưới nhà.
Ngôi nhà đặc trưng của dân tộc Kháng là
nhà sàn, mái lợp gianh, che chắn xung quanh nhà bằng các tấm liếp được đan bằng
tre, luồng.
Tổ chức không gian trong nhà theo các quy
định, không che chắn hay ngăn chia. Sàn nhà bằng tre, bên ngoài có sạp (giát
tre) để phơi ngô, thóc, gạo hay để rửa chân, tay trước khi vào nhà. Có hai bếp
đặt ở gian gần sàn để nước. Nơi thờ “ma nhà” được đặt ở góc nhà, sát vách quản.
Khoảng không gian bên dưới nhà, thường được dùng để nhốt trâu, bò, lợn, gà
trong các chuồng làm bằng gỗ, tre, ống bương.
Nhà ở của dân tộc Kháng có 2 dạng: nhà tạm
bợ và nhà kiên cố. Nhà sàn gồm 1 mái và 2 mái, không phủ nóc, không có chái, có
cửa chính thông suốt từ đầu này sang đầu kia, thông với cầu thang lên xuống.
Nhà thường có 3 gian 2 chái, mái kiểu mu
rùa và hai cửa ra vào ở hai đầu nhà, 2 cửa sổ ở hai vách bên. Trước kia, mái ở
hai đầu hồi thường được làm thẳng, hiện nay nhiều nơi đã làm mới hình mái rùa
như nhà Thái Đen. Mỗi nhà có hai bếp lửa (một bếp để nấu ăn hàng ngày, còn một
bếp để sưởi và để nấu đồ cúng khi bố mẹ chết).
Hiện nay, qua nhiều khảo sát, nghiên cứu,
điều tra về thực trạng đời sống kinh tế – văn hóa – xã hội của dân tộc người
Kháng cho thấy, dân tộc Kháng đang gặp rất nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo còn
cao. Vì vậy, việc xây dựng những ngôi nhà sàn khang trang vẫn còn là vấn đề
đáng quan tâm của đồng bào dân tộc nơi đây.
Lý
Hải Ninh (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét