Tên tự gọi: Mỗi nhóm có tên tự gọi riêng như:
Gié, Triêng, Ve, Bnoong.
Tên gọi khác: Cà Tang, Giang Rẫy.
Nhóm địa phương: Gié (Giẻ), Triêng (T’riêng),
Ve, Bnoong (Mnoong). Nhóm Gié đông hơn cả.
Dân số: 50.962 người (theo kết quả điều tra dân số năm 2009 của Tổng cục thống kê)
Dân số: 50.962 người (theo kết quả điều tra dân số năm 2009 của Tổng cục thống kê)
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ
Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), tương đối gần gũi với tiếng Xơ Ðăng, Ba Na. Giữa các
nhóm tiếng nói có những sự khác nhau nhất định. Chữ viết hình thành trong thời
kỳ trước năm 1975, cấu tạo bộ vần bằng chữ cái La-tinh.
Lịch sử: Người Gié-Triêng là cư dân gắn bó rất lâu đời ở vùng
quanh quần sơn Ngọc Linh.
Hoạt động sản xuất: Họ làm rẫy là chính. Xưa trồng
nhiều lúa nếp, nay lúa tẻ giữ vị trí chủ đạo, gồm nhiều giống khác nhau. Cách
thức canh tác như ở các dân tộc miền núi khác trong vùng. Công cụ chủ yếu gồm
rìu và dao quắm để phát, gậy đẽo nhọn đầu hoặc có mũi sắt để chọc lỗ khi gieo
trỉa, cái cuốc con có cán là đoạn chạc cây để làm cỏ. Tất cả cây trồng đều ở rẫy,
ngoài lúa còn có ngô, sắn, bo bo, kê, khoai lang, khoai môn, bầu bí, dưa, thuốc
lá, bông, mía, chuối... Vật nuôi phổ biến là gà, lợn, chó, trâu, chỉ khi dùng
vào việc cúng tế mới mổ thịt. Nguồn thức ăn kiếm được nhờ hái lượm, săn bắn và
đánh bắt cá đóng vai trò quan trọng. Người Gié-Triêng có sở trường về đan lát,
nghề dệt vải phát triển ở nhiều nơi, vùng Ðắc Pét có truyền thống đãi vàng sa
khoáng và làm đồ gốm ở trình độ chưa biết dùng bàn xoay và chưa biết xây lò
nung. Quan hệ hàng hoá trước kia dùng vật đổi vật, nay đã dùng tiền.
Ăn: Mỗi ngày người Gié-Triêng ăn
3 bữa (sáng, trưa, tối). Họ ưa thích các món nướng đối với cá, thịt. Canh cũng
là món thường có trong các bữa cơm. Tập quán ăn bốc tồn tại lâu đời (nay việc
dùng đũa, bát khá rộng rãi). Ðồ uống truyền thống là nước lã, rượu cần chế từ gạo,
ngô, sắn, kê và rượu chế từ nước một loại cây họ dừa mọc hoang trên rừng. Nam nữ
đều hút thuốc lá bằng tẩu.
Ở: Tại huyện Ðắc Glây tỉnh Kon Tum có nhóm Gié và
Triêng, tỉnh Quảng Nam có nhóm Bnoong ở huyện Phước Sơn và Trà My, nhóm T’riêng
và Ve ở huyện Giằng. Hình thức nhà sàn dài gồm nhiều "bếp" là lối kiến
trúc truyền thống phổ biến, đặc biệt ở vùng người Gié và Bnoong có khi cả làng ở
trong một vài ngôi nhà. Về sau, nhà trệt đã xuất hiện. ở nhiều nơi, trừ nhóm
Bnoong, trong làng thường dựng nhà công cộng cao to và đẹp. Tập quán bố trí nhà
tạo thành một vòng ôm quanh khoảng trống ở giữa là một nét văn hoá lâu đời của
họ ở Giằng và một số nơi ở Ðắc Glây.
Mặc: Theo nếp cổ truyền, nam quấn khố,
ở trần, trời lạnh thì choàng tấm vải cho ấm người; nữ mặc áo, quấn váy, có nơi
dùng loại váy ống dài để che luôn cả thân trên, từ ngực trở xuống. Phụ nữ ưa
đeo nhiều trang sức: các loại vòng bạc, đồng, chuỗi cườm, đeo cổ, tay, chân,
tai, phụ nữ các gia đình khá giả có cả hoa tai bằng nhà voi. Y phục theo kiểu
người Việt hiện tại đã thâm nhập tận các làng xa xôi hẻo lánh.
Ống đựng bằng tre là vật dụng khá phổ biến
trong các gia đình người Gié-Triêng. Phần thân hộp được vót bớt để lắp khít vào
nắp. Những chỗ dễ vỡ được bó bằng mây tết bản rộng. Trong ảnh là ống đựng có 2
ngăn: một ngăn đựng vôi và một ngăn đựng thuốc lá, là vật dụng cá nhân. Hiện vật
Bảo tàng Dân tộc Việt Nam.
Phương tiện vận chuyển: Người Gié-Triêng dùng gùi. Có những
loại và cỡ gùi khác nhau: gùi đan thưa, đan dày, gùi đeo theo người hàng ngày,
gùi để đồ tại nhà, gùi có hoa văn nan nhuộm đen, gùi không dùng nan nhuộm, gùi
cho riêng nam giới...
Quan hệ xã hội: Dân làng thuộc các họ khác
nhau, từng họ có truyền thuyết về cội nguồn của mình, có tên gọi và có kiêng cữ
riêng. Xưa kia, có những họ của nữ, có những họ của nam. Quan hệ cộng đồng
trong làng thường xuyên và khá chặt chẽ. "Già làng" có uy tín cao nhờ
hiểu biết, nhiều kinh nghiệm, cũng thường là người có cộng lập làng. Xã hội cổ
truyền có nhiều biểu hiện về tàn dư thời mẫu hệ và bước chuyển tiếp từ chế độ mẫu
hệ sang chế độ phụ hệ.
Cưới xin: Trai gái tự tìm bạn đời, cha mẹ
thường chấp thuận nếu không vi phạm tập tục. Việc cưới xin trải qua nhiều bước,
bao giờ cũng có lễ kết gắn cô dâu chú rể với nhau (thông qua việc họ đưa cơm với
gan gà cho nhau cùng ăn và uống chung bát rượu, hoặc có nơi họ trùm chung tấm
chăn), và cô gái phải tự chuẩn bị 100 bó củi đẹp từ trước để đem đến nhà trai.
Nhà trai thường tặng nhà gái đồ đan và nhận được của nhà gái những sản phẩm dệt.
Trước kia, đôi vợ chồng cư trú luân phiên mỗi bên vài năm.
Sinh đẻ: Chồng phải làm lều ngoài rừng
cho vợ đẻ. Sản phụ tự lo một mình trong sinh nở, sau 10 ngày mới được mang con
về nhà. Ðứa bé được coi là thành viên của gia đình sau khi đã tiến hành một
nghi lễ cúng cho nó gia nhập vào cộng đồng những người thân thuộc trong nhà.
Ma chay: Phong tục ở các nhóm không
hoàn toàn giống nhau. Song nét chung là quan tài đẽo độc mộc, có nơi tạc hình đầu
trâu trên đầu. Người chết được mai táng (có tài liệu viết xưa kia hoả táng);
nhà mồ dựng không cầu kỳ, có rào xung quanh. Những đồ vật đem ra mộ cho người
chết nếu là chiêng, ché thì đều đập thủng hoặc vỡ. Trong quá khứ, người ta từng
biết đến tục chôn chung những người chết cách nhau không lâu trong gia đình vào
một quan tài. Suốt 10 ngày khi làng có người mới chết, trước khi tang gia cúng
"nhắc nhở" cho hồn người chết ở yên bãi mộ, dân làng không vào rừng,
không đi làm xa nhà. Nghi thức đoạn tuyệt với mộ người chết thường được tổ chức
vào dịp đầu năm tại cạnh ngôi mộ.
Ðây là chiếc gùi 3 ngăn dành riêng cho đàn
ông sử dụng khi đi rừng đi rẫy. Nó được đan bằng mây. Phía trên của dây đeo và
phần miệng áp vào lưng người đeo có ốp thêm những miếng da con mang (hoẵng). Hiện
vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Thờ cúng: Người ta quan niệm có nhiều
"thần linh" và mọi vật, cũng như con vật, con người đều có siêu linh ẩn
trú. Các vị thần nước, thần trời (đồng nhất với sấm sét), thần mặt trời, thần đất,
thần làng, thần làng, thần lúa, thần đá, thần cây đa... được người Gié-Triêng cầu
cúng. Mỗi làng thường có vật "thiêng" như thứ bùa hộ mệnh, được cất dấu
ở rừng và giữ bí mật với người ngoài. Dòng họ, gia đình cũng có vật
"thiêng" để cầu mùa gắn với canh tác lúa. Ma người chết cũng được coi
là một thế lực chi phối đối với cuộc sống. Liên quan đến thế giới siêu nhiên
đó, có rất nhiều lễ thức tín ngưỡng theo tập tục.
Chiếc gùi này cư dân nhóm Giẻ dùng để gùi
lúa khi thu hoạch. Nó được đan bằng cật nứa. Nan tạo hoa văn có màu đen bóng do
được hơ nhiều lần trong khói nhựa thông.
Lễ tết: Mỗi khi cúng bái đều có hiến tế,
mà máu con vật hiến tế là quan trọng nhất. Lễ trọng phải đâm trâu, và xa xưa có
nơi phải cúng bằng máu người trong lễ thức đặc biệt liên quan đến thần lúa.
Trong chu kỳ sản xuất hàng năm thường có lễ thức khi chọn đất rẫy, phát rẫy,
gieo trỉa, khi hạn hay úng, khi mở đầu tuốt lúa, khi đưa lúa lên kho, khi được
100 gùi lúa trở lên và khi lấy thóc lần đầu về ăn. Gắn với chu kỳ đời người, có
các lễ thức trong thời kỳ mang thai, trong và sau khi đẻ, khi đặt tên, khi bị
đau ốm, khi cưa răng, trong việc cưới xin, khi chết đi. Tết dân tộc thường sớm
hơn tết Nguyên đán, tổ chức theo làng.
Lịch: Người Gié-Triêng căn cứ vào
chu kỳ mặt trăng để tính ngày. Theo đó, tên gọi mỗi ngày cụ thể trong tháng phần
lớn đều được lặp lại, tuy một ngày ở nửa đầu và một ngày ở nửa cuối tháng. Mỗi
năm 12 tháng. Từng tháng có những công việc trọng tâm nhất định.
Văn nghệ: Bộ nhạc cụ phong phú, quý giá
và quan trọng nhất là cồng chiêng. Tuỳ nơi, người ta dùng 3 cồng với 7 hay 9
chiêng, hoặc 6 chiêng, hoặc 4 chiêng... Có khi cồng chiêng tấu cùng với trống,
với ống nứa. Nguyên ống nứa cũng là loại nhạc cụ để thổi, vỗ, gõ. Các loại đàn
sáo, khèn đều đơn giản, thông dụng trong đời sống âm nhạc. Người Gié-Triêng,
cũng như các tộc khác, có những làn điệu dân ca cổ truyền và nhiều truyện cổ.
Vi Văn Hộ (sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét